Lịch Sử Của Chiến Tranh
Tác phẩm mới nhất
của nhà văn người Nhật Haruki Murakami, The Wind-Up Bird Chronicle [Ký
sự về
chim lên dây thiều] (nhà xb Knopf, 1997), mở ra bằng giọng văn quen
thuộc của
ông:
Tôi đang làm món spaghetti ở trong bếp, chuông điện thoại reo.
Spaghetti gần
xong. Radio là một đài FM. Tôi huýt sáo theo La Gaza Ladra của Rossini.
Nấu món
pasta mà có nhạc này đi kèm thì thật tuyệt.
Nhưng liền theo đó, người đọc bị cuốn hút vào cơn ác mộng của nước
Nhật: cuộc
tàn sát binh sĩ Thiên Hoàng, bởi chiến xa Xô-viết, vào năm 1939, tại
một vùng
sa mạc Nomonhan, Mông Cổ.
Khác hẳn những cuốn trước, sặc mùi bơ, cuốn này sặc mùi máu. Độc giả
cảm thấy
mùi máu nóng bỏng trên những trang sách. Cảnh tàn sát những con thú
vườn Zoo,
trước khi chiến xa Xô-viết tiến vào thành phố: trước hết là những con
báo, rồi
tới chó sói, sau cùng là những con gấu. Chúng lâu chết nhất, dù đã hứng
hàng
chục viên đạn; đám thú điên cuồng gầm thét, rẫy rụa như muốn giật tung
những chấn
song chuồng giam, trước sự khiếp đảm của đám binh sĩ: đối với họ, giết
người ở
mặt trận dễ dàng hơn nhiều, so với việc giết thú ở trong chuồng.
Rồi những cảnh tượng phát ớn lạnh: lột da nạn nhân, từ đỉnh đầu trở
xuống, một
cách tỉ mỉ, từ tốn, thật "dễ thương", hoặc cảnh binh sĩ Nhật thọc
mạnh lưỡi lê vào bụng tù nhân Trung Hoa, rồi ngoáy...
Theo ông, chiến tranh là chuyện nghiêm trọng: nó đẩy sự xung đột cá
nhân với
nhà nước, tới mức tột cùng. Vào năm 1994, ông viếng thăm vùng sa mạc kể
trên,
và đột nhiên, ông "mặc khải". Cuộc đời ông thay đổi hoàn toàn: Tôi có
cảm tưởng tôi đã tham gia trận đánh. Giữa vùng biên giới, sa mạc khô
cằn, ông
nhận ra, ông hết còn trông mong, một sự trốn chạy nỗi khiếp sợ: Xã hội
Nhật
bản, con bạo động phi lý của nó. Cuộc chống trả vô ích, vô vọng của
binh sĩ
Nhật bản trước chiến xa Xô-viết làm ông nhận ra tính cực kỳ phi lý của
quân đội
Nhật: sự tin tưởng mù quáng vào chiến thắng, chỉ với tinh thần cuồng
nhiệt và
ân sủng của Thiên Hoàng.
Người Nhật không
tin vào mặc khải. Riêng Murakami, đã hai lần mặc khải. Lần đầu, tại một
sân vận
động ở Tokyo, khi đang có trận đấu baseball giữa hai đội Mỹ và Nhật.
Ông đang
theo dõi một đường banh, và đột nhiên nhận ra, ông có thể viết một cuốn
tiểu
thuyết. Tuy không biết tại sao, nhưng ông hiểu như vậy. Đó là tháng Tư,
1978,
ông 29 tuổi. Mười lăm năm sau, là ở Nomonhan, Mông Cổ.
Giữa hai lần mặc khải là câu chuyện lạ thường của một nhà văn mơ tưởng
chuyện
hải hồ, "lưu vong", nhờ vậy lại khám phá ra quê hương của mình.
Một điều kỳ cục,
đó là tính bạo động, sự độc ác, của chiến tranh, trong The Wind-Up Bird
Chronicle, không liên quan gì tới những tác phẩm trước đó. Tác giả
tuyên bố:
Nếu ông không sống ở Mỹ, tức là ở nước ngoài, ông không làm sao có thể
viết nổi
tác phẩm đó. Như thể ông bắt buộc phải rời bỏ quê hương, rồi mới tìm
thấy con
đường trở về. Kinh nghiệm, quê hương tìm thấy lại của ông thật là quí
báu đối
với chúng ta. Nên nhớ, Murakami mặc khải là nhà văn vào tháng tư, 1978.
Vài năm
trước đó, như một số sinh viên Nhật, ông tin rằng người Nhật có thể đem
lại một
giải pháp hòa bình cho Việt Nam.
Murakami nổi tiếng nhất, trong số những nhà văn cuối thập niên 70, và
là người
quan trong nhất. Tuy nhiên, có một điều kỳ cục ở trong những tác phẩm
của ông:
sự thiếu vắng hoàn toàn truyền thống văn hoá Nhật bản. Nhân vật của ông
ăn
pizza, steaks hay pasta. Nghe Ella Fitzgerald hay Rossini. Mặc những bộ
sharp
suits, áo sơ mi đúng style. Khi kẹt trong thang máy, họ huýt sáo theo
điệu
Danny Boy. Một trong những cuốn sách ăn khách nhất của ông (trên hai
triệu ấn
bản), Norwegian Wood, Rừng Na Uy, nhan đề là từ Beatles. Ở Nhật, họ gọi
những
người như ông là batasukai, sặc mùi bơ, một từ để chỉ những người nước
ngoài,
hoặc bị Âu hóa. Những nhà văn cuối thế kỷ của Nhật, ăn bận như những
tay lang
thang ở Paris,
mơ tưởng Baudelaire, kể những cuộc tình của họ ở trong những ổ nhện tại
Tokyo,
họ đều có mùi bơ. Murakami cũng vậy, và đây là một trong những thói
chơi ngông
của ông. Thanh niên Nhật mê phong thái tự chủ, coolness, bất cần đời,
cùng vẻ
diễu cợt của ông.
"Vâng thật kỳ lạ. Baseball là môn thể thao của Mỹ. Cái tay đánh cú banh
bữa
đó là cầu thủ Mỹ. Mặc khải của tôi cũng không có vẻ Nhật một chút nào.
Dân Nhật
không có quan niệm về mặc khải."
Ông mê Tây phương từ rất sớm. Nhất là những ẩn dụ, điển cố kiểu Mỹ. Cậu
bé học
sinh rất ghét bộ đồng phục, tinh thần nhóm, luật lệ, cá nhân nép mình
theo tập
thể, gia đình... Để trốn chạy, ông mơ tưởng nước Mỹ, cố tạo nên một
nước ngoài,
ngay ở trái tim của mình. Ông mua những cuốn sách Mỹ, ở một tiệm sách
rẻ tiền,
nơi lui tới của những người thuỷ thủ Nhật. Nghe nhạc Mỹ trên băng tần
FM. Đó là
một cách để cảm thấy mình được tự do, ít ra về phương diện tinh thần.
Học ngoại
ngữ cũng là muốn trở thành một người khác. Ước muốn chui vào làn da của
một
người khác đã khiến ông trở nên một dịch giả có hạng. Raymond Carver,
Grace
Paley là những tác giả ông ưa thích dịch.
Murakami dùng từ
“virtual reality”(thực tại ảo), để diễn ta thái độ kỳ quặc, lòng mê say
nước Mỹ
của ông. Tôi muốn thực hiện thực tại "ảo" đó, ở ngay trong trái tim
tôi. Cũng dễ thôi, vì tôi lúc đó chỉ là một đứa trẻ. Ông nhớ lại những
cảnh tàn
bạo ở đại học Waseda, trận động đất Kobe,
vụ giết người bằng hơi độc ở Tokyo.
Bạo động là chìa khóa đối với Nhật bản. Và đó là mặc khải ở sa mạc Mãn
châu đối
với ông.
Murakami "lại khám phá” ra Nhật Bản, khi đang dạy môn văn chương Nhật
tại Đại
học Princeton.
Lần đầu tiên, ông quan tâm đến lịch sử và văn chương Nhật. Ông nghiên
cứu trận
đánh Nomonhan tại thư viện Đại học. Nó làm ông sững sờ: đây là một thí
dụ hoàn
hảo, về bạo động phi lý, và sự hi sinh vô ích những cá nhân cho giấc
mộng điên
cuồng của tập thể.
Sự quan tâm mới
mẻ của ông đối với Nhật bản của ông còn là do cuộc sống riêng tư. Càng
ngày ông
càng nhận ra hố ngăn cách giữa ông và cuộc sống tại Mỹ, xứ sở mà ông đã
từng mơ
mộng. Khi ở Nhật, ông muốn sự độc lập riêng tư. Tôi muốn được tự do.
Sang Mỹ,
ông nhận ra, người Mỹ coi đây, tự do và độc lập cá nhân, là những điều
được đảm
bảo, for granted. Thực tại trần trụi, cuộc sống vô vị, nhạt nhẽo ở đây
làm ông
vỡ mộng. "Ở Mỹ nghe Jim Morrison không giống như khi nghe ở Nhật".
Những ẩn dụ Tây phương mất hết sự bí mật của chúng. "Tôi không cần đến
chúng
nữa". Và ông quyết định ôm lấy quê hương, chấp nhận trách nhiệm chính
trị của
mình.
Khi được hỏi, như vậy nghĩa là gì, ông giải thích: 'Vấn đề quan trọng
là đối
diện với lịch sử của chúng tôi. Và như vậy có nghĩa là lịch sử của
chiến
tranh".
Jennifer Tran