Tầm Bắn Trước và Sau
Của Thảo
Trường
Đoàn Nhã Văn
Wednesday December
8, 2004 8:20
PM
"Mườ....i bảy
năm lính, mười bảy năm tù; thời gian này như được an bài để xóa bỏ thời
gian
kia.” Đó là lời mở của Thảo Trường, khi ông cho chào đời tác phẩm
đầu
tiên tại hải ngoại, Tiếng Thì Thầm Trong Bụi Tre Gai (TTTTBTG), vào năm
1995.
Sau đó ông xuất bản một truyện vừa: Đá Mục (1996), rồi đến tập truyện
ngắn Tầm
Xa Cũ Bắn Hiệu Quả (TXCBHQ), 1999. Ông dự định xuất bản nhiều tập
truyện
ngắn, dài mà ông đã viết trong nước, trước 1975. Bài viết này
giới hạn
trong ba tác phẩm ông viết tại hải ngoại. Với ba tác phẩm này, người
đọc cũng nắm
bắt được những khác biệt khá rõ ràng trong vùng chữ nghĩa của Thảo
Trường sau
hai mươi năm ngưng viết.
Có người bảo: chiến tranh đã đi qua, giai đoạn
tù tội và cuộc sống cơ cực,
tù túng trong nước sau 1975 đã có quá nhiều người nói đến. Vậy
nói thêm
có lợi ích gì trong lúc này? Ai mà thèm đọc?
Đây cũng là điều mà nhà văn Thảo Trường đã nghe bạn văn của ông nói
lại. Có thực
sự không cần nói lại, không cần nhắc lại một thuở trước khi gãy súng và
một
giai đoạn kinh hoàng sau cuộc đổi đời? Thiết nghĩ, nhà văn là
những người
có một con tim rất nhạy cảm, và có thể nói rằng họ nhạy cảm hơn người
bình thường.
Họ không xoi mói vào đời sống riêng ai. Bằng kinh nghiệm trải qua, bằng
trực
giác cảm nhận, họ chia sẻ những đổi thay của một khúc quanh trong lịch
sử, thì
kinh nghiệm sống của họ ắt có ít nhiều ẩn hiện, dính dấp đến những bài
học
tương lai. Dĩ nhiên, không thể ôm khư khư quá khứ mà sống, nhưng
cũng
không thể quên hẳn quá khứ một sớm một chiều, khi một phần máu xương
mình đã thấm
vào nó. Tương lai nào không bắt đầu bằng quá khứ? Biết đặt
nó vào
chỗ cần đặt, quá khứ sẽ giúp ích rất nhiều cho con đường đi về phía
trước. Vì
thế, khi Thảo Trường viết lại những đắng cay, tủi nhục, xốn xang, rát
buốt của
mình, sau khi định cư, cũng là một điều bình thường.
Thảo Trường không
nhìn cuộc chiến trước 1975 dưới mắt của một sĩ quan cao
cấp. Ông
nhìn cuộc chiến dưới nhãn quan của những người sĩ quan cấp thấp, lính
trơn, những
người lính đóng đồn ở những địa đầu biên giới, và nhất là những người
dân bị kẹt
giữa hai lằn đạn. Người dân kẹt giữa hai lằn đạn là những người
chịu thiệt
thòi nhất trong cuộc chiến. Ở những vùng xôi đậu, ban ngày “Quốc
Gia” kiểm
soát, ban đêm “Cộng Sản nằm vùng” lộng hành. Họ bị nhồi nhét những từ
ngữ đao
to búa lớn từ hai phía. Họ nghe Tự do, Hạnh phúc, căm thù, đả
đảo, nhân vị,
cộng sản .v.v. Những điều này nằm xa, quá xa trong tầm suy
nghĩ thường
ngày của họ. Tất cả chỉ là những khẩu hiệu suông, những điều trừu
tượng, vô
nghĩa. Nó không là cơm áo hằng ngày trong đời sống. Nó không là
cá tôm,
rau cải của từng buổi chợ sớm, trưa. Như thế còn chưa đủ. Tên
bay, đạn lạc,
khói lửa v.v., có thể ập đến bất cứ lúc nào. Họ là nhân chứng
sống của những
máu đổ, đầu rơi khi tiếng súng hai bên nổ giòn giã trong từng căn nhà,
nơi họ cư
ngụ. Chị Tư bị kẹt giữa những khẩu hiệu của hai bên. Những khẩu
hiệu còn
văng vẳng bên tai chị trong lúc lâm bồn sinh đứa con trai thiếu tháng,
không y
tá , không bác sĩ . Gia đình Thục bị kẹt giữa làn đạn của hai
phía.
Đầu đạn đồng còn nằm trên vách tường vôi. Họ là những nạn nhân của lịch
sử.
Họ bị dồn vào chân tường. Nhìn xa hơn, họ là đại diện của tầng lớp dân
lành, thấp
cổ, bé miệng. Đó là cái nhìn của Thảo Trường trong thời chiến,
rất rõ nét
ở hai truyện ngắn Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp và Viên
Đạn Bắn
Vào Nhà Thục được ông đưa vào những tác phẩm sau này như minh định suy
nghĩ của
mình “Vật đổi sao dời… Tôi chỉ là một kẻ lỡ sống sót, ở ngoài nước Việt
Nam
nhưng vẫn sống và suy nghĩ như một người Việt” (TTTTBTG, trang 7)
.
Mười bảy năm tù hẳn là một thời gian quá
dài. Cứ tưởng tượng, ta
đang sống tại một quốc gia tiên tiến, bên ngoài hình cong chữ S.
Cứ thử tự
nhốt mình trong nhà với điện, nước, thức ăn đầy đủ nhưng không ti vi,
không điện
thoại. Thử xem một tháng không ra khỏi nhà, ta bực bội đến dường
nào. Ở
đây, không phải là một tháng, mà là hơn hai trăm (200) tháng tù,
với bao
hành hạ đớn đau, với bao thiếu thốn vật chất, với bao chèn ép tinh
thần. Mười bảy
năm không phải ngắn. Sống được sau mười bảy năm với một hoàn cảnh
như vậy
cũng là phép lạ. Và viết lại được sau hai mươi năm ngưng viết không
phải là một
việc bình thường. Bước ra từ nỗi chết, hẳn nhiên phải mang những vết
hằn trong
tâm khảm. Nhiều lần ông tự nhủ với chính ông: Hãy quên đi tất cả. Hãy
quên đi
những đòn thù. Vậy mà không hiểu sao nó cứ xẹt ngang. (Đá Mục,
trang 62)
Vì thế, những ám ảnh chiến tranh, những đắng cay tù tội vẫn còn phảng
phất đó
đây trên những trang sách của ông, ngay ở những truyện ngắn mới nhất,
sau này.
Trong tù, mạng sống như cá nằm
trên thớt nên ông tự tìm cho mình một triết lý sống. Nói triết lý
nghe
cho cao siêu, văn vẻ, nhưng thực ra đó là kế sách “kệ mẹ nó” (TTTTBTG,
trang
17). Nó hành hạ mình, kệ mẹ nó. Nó chèn ép mình, kệ mẹ
nó. Nó
đẩy mình vào nằm trong chỗ gần cầu tiêu, hôi thối, kệ mẹ nó. Nó cùm
mình, kệ mẹ
nó. Nghĩa là, đừng suy nghĩ sâu xa, đừng vơ vẫn dông dài, tới đâu
thì tới.
Kệ mẹ nó. Khi sử dụng kế sách “kệ mẹ nó”, ông đã tự tạo cho mình một
cõi tự do
riêng trong suy nghĩ. Có lẽ nhờ vậy mà ông sống còn sau 17 năm
tủi nhục;
có lẽ cũng nhờ vậy mà những cảnh sinh hoạt sống động và cảm động của
những bạn
tù còn ở mãi nơi ông. Đến khi có dịp, ông viết bằng nỗi đau của chính
mình, bằng
mồ hôi, nước mắt và máu xương bằng hữu. Vì thế truyện của ông tạo được
sự rung
động bởi những chi tiết rất thật, rất cảm động. Có hai truyện
ngắn để lại
ấn tượng dài lâu nơi độc giả, đó là truyện Trong Hang (TXCBHQ, trang
69-96) và
Những Đứa Trẻ Đầu Thai Giữa Hàng Rào (TTTTBTG, trang 77-94).
Truyện ngắn Trong
Hang viết về người tù trẻ, một thiếu niên mưới bảy tuổi, sống cùng một
trại với
những người tù già. Lý do đi tù của người thiếu niên rất đơn
giản. “Ngày
30 tháng 4 các chú sĩ quan phe mình vứt bừa bãi súng ống ở trường học,
cháu và
lũ bạn nhặt … chơi” (Trang 70). Trẻ người nhưng không non
dạ, người
tù thiếu niên biết chia sẻ buồn vui, biết gánh vác những hoạn nạn trong
tù với
những người tù già. Cái “lớn” của người tù trẻ là sống ngay, sống
thẳng
trong những lúc cùng cực nhất. Trong khi đó, lẫn trong đám tù già có
không ít
những người tóc đã hai màu nhưng vẫn còn “non dạ”, những kẻ bán lương
tri của
mình để tìm những giây phút thoải mái nhất thời. Không chỉ một
người tù trẻ
này, mà còn có những người tù trẻ khác, trong đó có cả những “chiến sĩ
diệt Mỹ”.
Mỗi nhân vật là một cảnh sống. Mỗi mảnh đời tiêu biểu cho những
dông gió
từ những chiều hướng khác nhau. Nhiều nhân vật tạo nên cái đa
dạng của một
trại tù, mà nơi đó, lớn và nhỏ không còn nhìn vào tuổi tác; thấp và cao
không
thể đánh giá bằng màu tóc đen hay tóc muối tiêu. Khi ở những giây phút
cơ cực
nhất, bản chất con người biểu lộ rõ ràng nhất. Và hình ảnh người tù trẻ
tuổi đứng
trên bậc cao, trước những hỗn mang, dòm ngó, tị hiềm, nhỏ mọn không
những của
cán bộ trại tù mà của cả những người đang nằm trong rọ như anh. Anh còn
cao hơn
khi dứt khoát với người mẹ thân yêu của mình vì biết bà đã sống chung
với một
người khác chiến tuyến với ba mình.
“Hết mười lăm
phút thăm gặp, người con đứng dậy đưa tay quệt ngang mắt, nói với mẹ:
-Mẹ về Nam bình an. Từ nay Mẹ đừng
ra thăm con nữa.
Bà mẹ mếu máo:
-Tại sao? Con?
Người thanh niên nghiến răng, lát sau anh
buông thõng:
-Con nói vậy, mẹ nghe rõ không? Mẹ
có đến thăm, con cũng
không ra gặp mẹ đâu!
Nói rồi anh ta
cuối đầu lầm lũi đi về phía cổng trại giam. Mặc cho người mẹ than
khóc, mặc
cho người công an bảo anh ta nhận quà của “bố mẹ”, người thanh niên như
không
nghe, không thấy gì, anh bước những bước chân chập chờn trong một màn
sương làm
bằng nước mắt!” (TXCBHQ, trang 95-96)
Một sự thẳng thừng,
quyết liệt ngay cả với người thân nhất. Một lằn ranh phân chia
đen trắng
rất rõ ràng từ một người tù trẻ tuổi. Một tấm gương rất xứng đáng
cho một
số người tù già trong trại, để họ có dịp mà gẫm lại mình. Ở đây,
Thảo Trường
đã dựng nên một hình ảnh đẹp, rất đẹp. Hình ảnh nổi bật lên từ những
cảnh sống
khốn cùng tạo nên những day dứt dài lâu nơi người đọc. Cũng trong hoàn
cảnh khốn
cùng, ông dựng được một truyện ngắn hay khác.
Truyện Những Đứa Trẻ Đầu Thai giữa Hàng Rào kể về cảnh sinh hoạt
của những
đứa trẻ tù, trong đó có một đứa mà mầm sống bắt đầu giữa những hàng rào
kẽm
gai. Tù nữ và nam ngăn cách. Làm sao chị ta có bầu?
Cán bộ trại
đau đầu vì chị, và họ tìm đủ mọi cách để phá cái thai trong bụng chị,
bởi vì
nhà nước nuôi chị còn chưa đủ thì làm sao mà nuôi cái thai trong bụng
chị!
Anh gặp chị ngoài sân trại mấy lần. Nhìn. Cười. Cười
lại.
Nhìn lại. Thế là thân nhau…
Một
lần anh nói với chị:
-Anh
thèm em quá.
-Biết
rồi. Ở đây ai
cũng thiếu cũng thèm cả.
-Bây
giờ làm sao?
Anh
cầm đại bàn tay chị nhét
vào giữa hai đùi mình mà kẹp mà nghiến răng mà day, chị nhẫn nại gỡ ra:
-Tụi
nó đang nhìn kìa.”
(TTTTBTG, trang 53-54).
Thế
rồi phải tính
toán. Phải kỹ lưỡng. Phải đánh mạnh, đánh mau, rút lẹ, hoặc
nói
theo kiểu giang hồ thì kẻ nào bắn chậm phải chết. Anh và chị bị
nhốt ở
hai dãy nhà khác nhau, cách nhau một hàng rào kẽm gai, làm sao mà dâng
hiến cho
nhau. Làm sao để chị có được đứa con, sau khi đứa con duy nhất
của chị bị
tử hình. Chị vẫn thường suy nghĩ: làm sao phải có một đứa con để
thay thế
đứa đã mất.
“Thế rồi chị
tính toán theo ý chị. Chị sẽ không mặc đồ lót. Chị sẽ mặc một cái
quần mỏng
mở chỉ ở dưới đáy. Cái quần cũng được luồn giây thung nhẹ. Chị thử kéo
lên tuột
xuống thấy nhẹ thì rất ưng ý. Chị cũng thử khom khom lưng và nghĩ
làm sao
cho anh được dễ dàng nhanh chóng, phải tạo điều kiện thuận tiện nhất
cho anh ta
hành sự. Thời gian không có nhiều. Tất cả chỉ trong nhấp
nháy.
Chớp mắt. Là phải xong…Lớ ngớ còn đang thập thò mà các anh bắt được thì
tù …mọt
gông. Chị cũng bàn trước với anh để về phần anh cũng phải chuẩn bị
không để một
cái gì cản trở, như “Mỹ họ lắp ráp phi thuyền trên vũ trụ” ấy…anh
hiểu
chưa, khổ quá! Phải tập cho thuộc để khi có dịp là bập liền nghe
chưa anh
yêu!” (TTTTBTG, trang 54)
Cảm động. Muốn
có một đứa con, dù là đứa con trong tù phải tốn bao nhiêu công sức
chuẩn bị,
luyện tập. Ở đây, nó không còn là vấn đề sinh lý, mà nó nói lên
cái uớc vọng
thiêng liêng của người phụ nữ: phải có một đứa con, phải được làm
mẹ. Thời
gian không chờ đợi ai hết. Đợi ra khỏi tù thì e quá trễ, không
còn kịp nữa.
Ở đoạn này, có một
chữ, Thảo Trường dùng rất là đắc địa: Bập. “…có dịp là bập
liền
nghe chưa…” Tại sao không là: làm, bụp, giải quyết
.v.v…? Không
một chữ nào có thể thay thế được chữ này. Chỉ có “bập” mới tạo được
chất sống
cho câu văn. Chỉ có bập, mới lột tả đúng giọng điệu giang hồ.
Thay thế một
chữ khác vào câu nói này, câu văn sẽ hỏng bét. Thảo Trường sống
với đời
và chịu sương gió với người, nên ông dùng chữ như họ, và nói như
họ. Chữ
nghĩa tạo cho câu văn sức sống. Thổi luồng sinh khí trong câu văn
là tạo nên
sự gần gũi với người đọc. Đây là một trong những thành công của
Thảo Trường.
Rồi sao?
“Có lần chiều sắp
tối, trời lại lất phất mưa, chị tình nguyện đi lãnh cơm cho đội.
Từ bên
khu A theo dõi anh thấy và cũng mặc áo mưa đi xuống bếp trại. Khi
trở về
hai người ôm hai xoong cơm, liếc nhìn không thấy thi đua trật tự đâu,
đến một
chỗ hàng rào khu, kẽm gai đơn thưa thớt mấy sợi, chị bèn đứng lại khum
lưng xuống,
chổng mông sang phía anh, xoong cơm của đội chị vẫn ôm nơi bụng, từ bên
kia những
sợi kẽm gai, anh luồn tay sang níu hai bên hông chị ghì tới… Chị nghe
có tia nước
ấm áp phóng sang và chị cảm thấy thành công và thắng lợi. Hai tay anh
buông lỏng
ra, chị còn nghe tiếng anh thở hổn hển, chị đứng thẳng người lên, vẫn
ôm xoong
cơm của đội nơi bụng, chị liếc nhìn sang anh, miệng cười như mếu rồi
bước vội về
buồng giam của mình. Anh cũng lật đật cài áo mưa lại, cầm cái
xoong cơm
treo trên cột hàng rào rồi cũng quay bước về phòng mình. Hai người hai
hướng
câm lặng xót xa. Đứa con được tạo thành trong những cơn mê mẫn
ấy.”
(TTTGBTG, trang 55)
Một
tấm ảnh khó kiếm! Đây
là cơ hội một đi không trở lại của nhà nhiếp ảnh. Không bao giờ
có thể chụp
lại được một hình ảnh như thế này, lần thứ hai. Ngoài sự tinh tế,
Thảo
Trường còn đưa độc giả đến nổi khát vọng của con người: được sống như
người
bình thường, được yêu như người bình thường trong một xã hội bình
thường.
Vượt lên trên nỗi nhớ nhung xác thịt; vượt lên trên cái gò bó của đời
sống
trong tù, bản văn soi sáng tình mẫu tử chan hòa và ước vọng thiêng
liêng của
người phụ nữ. Họ sống cho tương lai, và vì tương lai, dù rằng
hiện tại là
một chuỗi ngày ảm đạm.
Có
thể nói: khi nhắc đến Thảo
Trường, người đọc nghĩ ngay đến Những Đứa Trẻ Đầu Thai Giữa Hàng Rào.
Từ
Tiếng Thì Thầm Trong Bụi
Tre Gai đến Tầm Xa Cũ Bắn Hiệu Quả, người đọc thấy những nét khác biệt
trong văn
phong của Thảo trường. Viết về chiến tranh, viết về những hoạt cảnh
cười ra nước
mắt trong tù, viết về cuộc sống sau 1975 trong nước, ông tạo cho mình
một giọng
văn đầy lôi cuốn. Những chi tiết trong truyện có lúc sắc xảo, có
khi trần
trụi, thô nhám. Chính những điều này làm nên những góc cạnh đặc
biệt. Trong
khi đó, viết những truyện ngắn mà bối cảnh được dựng nên từ nơi ông
đang cư ngụ,
tại Mỹ, truyện chưa tạo được những hấp lực lớn. Ý truyện nhiều lúc cứ
làng
nhàng, hình ảnh có khi cứ nhoè nhòe. Những chi tiết làm nên những
truyện
ngắn này không mang những sắc thái đặc biệt. Lòng ông còn động
chăng?
Có thể. Nhưng theo chân từng trang sách của ông, người đọc bắt gặp một
điều: có
lẽ ông “cố rán” quá. Ông muốn bức khỏi những suy nghĩ
cũ, những
ám ảnh xưa, để viết về cuộc sống hiện thời. Khi tự tạo cho mình
một áp lực
quá nặng; khi phải gồng mình, chữ nghĩa không còn nhẹ nhàng như nước
chảy, như
mây trôi để tạo nên những bản văn đẹp.
Tuy
vậy, dù “cố rán” cách
nào đi nữa, đang viết về hiện tại, ông cũng quẹo về quá khứ chiến tranh
như các
truyện ngắn Trong Bếp, Trong Hẽm, chẳng hạn. Điều này cho thấy:
ám ảnh của
chiến tranh và tù tội lúc nào cũng bủa vây ông, đó cũng là lý do mà đôi
lúc ông
không kềm được lòng mình, để ngòi bút trôi theo những cơn giận
dữ. Vì thế,
chữ nghĩa có khi mang những nét hằn học.
“Bây
giờ không phải là thời
hồng hoang. Bây giờ, trong lúc tôi nằm đây, nhìn lên trần nhà,
đang là thời
kỳ mà những kẻ cầm quyền chỉ là những tên in tiền giả, những tên đánh
bạc bịp,
những tên buôn lậu có chủ nghĩa, có cương lĩnh. Thời kỳ này ở đây
xác cáo
cũng được đem ướp thuốc trưng bày lừa bịp làm xác thánh. Thời kỳ
này ra
đường tôi không biết đi hướng nào và đi về đâu. Thành phố đầy rẫy
những
quán nước nhà thổ, đảng viên và ăn mày.” (TTTTBTG, trang 35-36)
Ở
một truyện khác, ông viết:
“Bao
nhiêu thanh niên nước
ta cơ thể còi cọt còm cõi vì củ sắn chiến lược không thấy sao mà còn
ngoác miệng
ra nói lấy lòng lấy điểm vói chúng nó. Nịnh cộng sản thì được cái cứt
chó gì hả
quý vị, sợ chết thì chuồn mẹ nó ra nước ngoài mà sống, nói năng lăng
nhăng thử
hỏi bây giờ rồi cũng xuôi tay, có được chúng nó cho thêm củ sắn nào nữa
không?”
(TTTTBTG, trang 69)
Khi lòng dấy động,
chữ nghĩa dễ dàng vuột khỏi tầm kiểm soát của nhà văn. Tuy nhiên, đòi
hỏi một
người vừa bước ra từ vùng đất chết, với bao năm tháng đọa đày, mà quên
hết mọi
thứ trong quá khứ, xóa sạch mọi ám ảnh bủa vây, là một điều khó có thể
thực hiện.
Bước chuyển tiếp
từ truyện ngắn sang truyện vừa, mở ra một lối nhìn khác trong vùng chữ
nghĩa của
Thảo Trường. Truyện vừa Đá Mục mang nhiều nỗi niềm của một người
lính sau
hai mươi năm nhìn lại. Thảo Trường đưa vào rất nhiều nhân vật
phụ. Mỗi
người một nét vẽ riêng, và họ nổi bật trong bầu không khí họ đang hít
thở.
Cái sắc nét của những nhân vật phụ làm mờ đi phần nào hình ảnh của nhân
vật
chính. Ở Đá Mục ông sử dụng kỷ thuật flashback như điện ảnh. Đứng
trong bối
cảnh hiện tại, thoạt một cái, ông nhảy về quá khứ của những năm đầu
thập niên
60. Nhưng quá khứ không đứng lại ở thành phố, mà là núi rừng
hoang dã, lại
là núi rừng của vùng ba biên giới, nơi phản ảnh cuộc sống mộc mạc đôn
hậu của
người miền núi. Rồi ông bước qua tình chiến hữu đậm đà và xuôi
đến cùng
những món ăn chơi của người lính. Ông đi sâu vô tháng ngày tù
tội, rồi ngược
trở về với thực tại, hiện tại của một ông lão đang trong mùa nghỉ hè
với vợ và
cháu gái. Liền sau đó, ông quay lui về những ngày tháng cũ sau
1975. Ông dựng những cảnh sống của những người dân miền Bắc và
những suy
nghĩ của họ về chính quyền đương thời; những nhà trí thức miền Nam
hợp tác với chính quyền cộng sản; đến cái tình của những người bạn cũ
gặp nhau
trên đất Mỹ. Chi tiết truyện di chuyển nhanh. Chuyển từ
giai đoạn
này sang giai đoạn khác thật gấp. Nhưng điều quan trọng không nằm
chỗ đó,
mà chính là ở điểm gãy gọn và mượt mà của giọng văn. Nói rõ hơn,
ông viết
nhẹ nhàng, giọng văn uyển chuyển, lôi kéo người đọc. Ông không hô
phong,
hoán vũ, nhưng muốn biến là biến, muốn chuyển cảnh là chuyển cảnh,
nhanh chóng,
gọn gàng. Nếu truyện này có cơ hội dựng thành phim, chắc chắn sẽ
là một
phim không những đẹp ở chi tiết, mà còn đẹp ở tổng thể: Tình người.
Vâng, tình người.
Giữa những dòng chữ, người đọc bắt gặp tình người trên từng trang sách.
Có những
chỗ, người đối với người chẳng khác nào như thú vật. Nhưng cũng
chính ở
điều này mới bật lên cái thắm thiết của người máu đỏ da vàng đối với
nhau ở những
đoạn khác, như giai đoạn trong tù, chẳng hạn. Thử xem một cảnh sống đầy
tình
người của ông trong trại tù.
“Buổi sáng chủ
nhật ông phải nộp ba bó củi thật nặng cho bếp trại. Khi vác đến
bó thứ ba
lết từ bìa rừng về đến bếp thì ông kiệt sức, hai mắt hoa lên, đầu nóng
bừng bừng,
thả bó củi xuống thì người ông cũng rớt xuống theo. Mấy phút sau
ông mới
lết được đến bên chảo nước uống xin múc một ca. Ca nước âm ấm làm
cho ông
dần dần tỉnh lại. Ông đứng dựa vào cột nhà bếp để thở. (…)
Đang đứng
nhắm mắt để dưỡng thần thì bị một anh nhà bếp kéo ra bắt phụ với anh ta
xếp lại
đống củi cho gọn. Chưa kịp cãi thì nghe anh ta nói nhỏ: “Hai củ sắn
giấu trong lá
chuối dưới khúc củi bọng, vờ xếp củi rồi lấy giấu trong lưng quần đem
về buồng
mà ăn.” Vừa nói anh ta vừa bê những khúc củi ném chồng chất lên
đống cao.”
(Đá Mục, trang 54)
Bên này hay bên
kia lúc nào cũng có những con tim nồng ấm. Nó tùy thuộc vào vị trí đứng
của người
trong cuộc và vị trí người xem. Nhưng tựu chung, giai đoạn
sau 1975
là giai đoạn đổ vỡ, vỡ tung ra từng mảnh nhỏ của tình người. Ông nhìn
quá khứ một
giai đoạn đã qua mà đau lòng. Vì quá đau lòng nên ông cố nhìn về phía
trước.
Nhìn về phía trước, và ông hiểu. Đường về phía trước bao la,
nhưng sức
mình có hạn, như một cây cung. “Bây giờ cây cung vẫn còn đó nhưng
túi tên
đã trống rỗng. Cây cung nằm đó đơn độc như những cỗ đại bác không đạn,
như những
chiến xa không xăng, như những máy bay phản lực thiếu cơ phận rời thay
thế…”
(Đá Mục, trang 98). Hiểu được sức mình, nên ông kỳ vọng ở tương
lai.
Tương lai?
Không phải ngẫu nhiên mà Thảo Trường mở đầu truyện vừa Đá Mục với hình
ảnh hai
bà cháu đi jetski trên sông rộng. Thả lòng mình hòa với sóng
nước, với
thiên nhiên, trong khi ông lão, nhân vật chính, lại đứng bên
ngoài. Chọn
hình ảnh này là ông dựng một sợi dây nối kết giữa quá khứ và tương
lai. Bà,
thế hệ thứ nhất, quá khứ. Cháu, thế hệ thứ ba, tương lai.
Đường mở
về tương lai là con sông rộng ngút ngàn nằm giữa ba tiểu bang.
Vận tốc đi
về tương lai là vận tốc của jetski. Sự khắn khít của quá
khứ và
tương lai qua hình ảnh một bà, một cháu rất đẹp. Còn hình ảnh nào
đẹp hơn
hình ảnh này sau những lớp sóng phế hưng của thời thế? Ông
lão, nhân
vật chính, người mang những vết hằn của một thời biến động, đứng bên lề
nhìn về
phía trước. Với hình ảnh này, Thảo Trường đã tự gạt những hỗn mang của
một giai
đoạn, những vết tích đau buồn sau một cuộc bể dâu sang một bên. Và đây
là trái
tim của người dựng truyện.
Có thể nói rằng:
Đá Mục là một tổng thể hòa hợp giữa quá khứ và tương lai. Giữa cũ
và mới,
giữa đã qua và bắt đầu. Đóng tập sách lại, những hình ảnh sắc xảo
còn gần
gũi bên cạnh, và nhất là những ước vọng đẹp của một nhân chứng sống,
trong một
giai đoạn khắc nghiệt của lịch sử, còn in đậm những đường nét rõ
ràng.
Có một điều cũng
nên nói ở đây. Thảo Trường thường dùng mục “nhắn tin” sau mỗi
truyện ngắn.
Mục này của ông cũng khác người lắm. Dù là thòng hai chữ “nhắn tin”,
nhưng kỳ
thực là không nhắn cho riêng ai cả, mà là muốn gởi gắm đến độc giả
trước khi dấu
chấm hết hạ xuống. Như truyện ngắn Người đàn bà mang thai trên
kinh đồng
tháp, viết trước sạu hoặc trong những truyện ngắn khác của ông viết tại
hải ngoại
như: Khẩu Hiệu, Truyện Hai Pho Tượng.
Chính ở phần nhắn
tin này, người đọc bắt gặp điều ông muốn gởi gắm đến độc giả khá lộ
liễu. Nó không
còn nằm giữa những dòng chữ. Một khi sự gởi gắm của nhà văn lộ
liễu quá,
bản văn không còn mang nét đẹp tiềm ẩn của nghệ thuật. Bởi cái
đẹp không
phải lúc nào cũng nằm lồ lộ trước mắt người thưởng ngoạn. Tuy
nhiên, đây
cũng là nét riêng của Thảo Trường mà người đọc rất hiếm hoi thấy ở
những nhà
văn khác.
Qua ba tác phẩm
viết tại hải ngoại, người đọc nhìn thấy Thảo Trường bắt đầu trở lại một
sức sáng
tác mạnh như thời trước 1975. Ở ông, khi cần tẩn mẩn, chi li, ông
đi đến
chi tiết rạch ròi nhất, nhỏ nhoi nhất. Khi cần chuyển đổi hình
ảnh, ông
thay nhanh và gọn. Tuy vậy, trong nhiều truyện ngắn, ông chưa tạo
được những
mẩu nhân vật sắc nét đến độ khi đọc xong, nhân vật cứ ám ảnh người đọc.
Thêm nữa,
ông hơi … tham lam trong lúc dàn dựng truyện ngắn. Trước và sau,
ông vẫn
khẳng định: “Viết truyện ngắn là dùng kích thước nhỏ để dựng vấn đề có
khi rất
lớn. (…) Tôi vẫn có tham vọng làm sao 'nhét' cả một cuộc chiến tranh
vào trong
một truyện ngắn, làm sao đưa cả một thời đại mình đang sống vào trong
một truyện
ngắn.” Chính ở điều này, người đọc bắt gặp rất nhiều chi
tiết, đầy ắp
những sự kiện, mà lẽ ra không nên có, trong một số truyện ngắn. Và cũng
chính ở
điều này, người đọc cũng rất hiếm hoi thấy ông đi vào từng ngõ ngách
nội tâm của
nhân vật.
Đưa cả một cuộc
chiến vào trong một truyện ngắn, nó đòi hỏi nhà văn không chỉ xây dựng
cốt truyện
hết sức chặc chẽ, mà còn có một vốn liếng bề thế trong ngôn từ.
Xa hơn,
nhà văn phải tung tẩy trong chữ nghĩa, phải đẩy được ngòi bút của mình
đến những
vùng đất lạ trong lúc xây dựng hình ảnh, nhân vật hay đối thoại. Qua
hai tập
truyện ngắn, nhà văn Thảo Trường chưa thành công như ý muốn của
ông: nhốt
cả cuộc chiến vào trong một truyện ngắn. Tuy nhiên, thể loại
truyện vừa
đã mở cho ông những chiều kích mới, mà ở đây, ông mới sử dụng hết những
ngón
nghề của mình để tạo nên một tác phẩm đẹp như Đá Mục. Đây cũng là
tác phẩm
đẹp nhất trong ba tập truyện. Có lẽ nó chuyên chở hết những suy
nghĩ của
ông, những ước vọng của một người gánh trên lưng mười bảy năm lính,
mười bảy
năm tù.
Nếu
Thảo Trường giữ một nhịp
độ, một phong độ, một sự chọn lựa hình ảnh kỷ càng và một tấm lòng như
ở Đá Mục,
thì không những tầm xa cũ bắn hiệu quả, mà tầm xa mới còn bắn hiệu quả
hơn.
Đoàn Nhã
Văn
[Trích
Thư Viện Việt Nam
online]