Hình Bóng Cũ
Trong
những tác phẩm của Sơn Nam, có một, ít được nhắc
tới, nhưng đối với cá nhân người viết, có lẽ đây là cuốn hay nhất của
ông: Hình Bóng Cũ. Những tác phẩm như Hương Rừng Cà Mâu, Chim Quyên
Xuống Đất... là một Miền Nam sau này, hoặc vẫn tiếp
tục còn đó, tuy đã tang thương dâu bể. Hình Bóng Cũ là một Miền Nam đã
mất hẳn, như một Viễn Tây của lịch sử Hoa Kỳ. Ở đó, huyền thoại lấn át
thực tại, và khi huyền thoại biến mất, nó kéo theo cùng với nó, những
con người nửa hư nửa thực. Tất cả biến thành thần. Những vị phúc thần
(anges gardiens).
Tôi
đọc cuốn sách đã lâu. Sau cố tìm gặp lại nhưng không thể. Như thể cái
duyên giữa cuốn sách và tôi đã trọn vẹn: Một đứa bé di cư, một mình
xuống tầu há mồm vào Nam
tìm gặp Hòn Ngọc Viễn Đông, vô tình khám phá viên quặng làm nên hòn
ngọc đó.
Câu
chuyện một xóm nhỏ, có một "thầy ký nhựt trình", như dân trong xóm vẫn
thường trầm trồ về một anh chàng ngụ cư. Bản thân anh ta lâu lâu có một
bài thơ được nhà báo thương tình đăng lên, thay vì để trống một khoảng
nhỏ.
Một
bữa có một bà tới kiếm, tính mướn anh viết hồi ký cho "bả". Người đàn
bà ôm trong mình cả một kho tàng. Đã từng là đào hát, chủ gánh, sau bỏ
hết, gá nghĩa cùng một ông tây thuộc địa, một trong những người khai
phá ra những cánh đồng thẳng cánh cò bay, tiền thân của những ông
Hương, ông Cả trong những cuốn tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tiền thân của
những cô Ba, cô Tư trong những câu chuyện ngồi lê đôi mách, cà kê, dê
ngỗng của một số tác giả Miền Nam hiện nay. Một nhân vật kiểu Faulkner,
sự tàn bạo, dã man không thua, số người bị giết do ông, bởi chính ông
chắc cũng không kém. Người đọc chỉ đoán lờ mờ những chi tiết "thực" đó.
Chỉ lờ mờ biết được quá khứ của một Lọ Lem một bữa biến thành Công chúa
Thuộc địa. "Bả" có cay đắng khi phải "bó thân về với triều đình", khi
phải đồng hóa Miền Nam
với chủ nghĩa thực dân khai hóa... nào ai biết được. Tất cả chỉ là
những "tầng kiến giải" về một huyền thoại. Về một Hình Bóng Cũ.
Người
xưa thường nói, nếu vẽ rồng chớ có "điểm nhãn". Vẽ mắt rồng, bữa nào
hứng lên, rồng vàng, hạc vàng... bay mất, để trơ lại một thành Thăng
Long mất cả Gươm Thiêng lẫn Rùa Thần, một Hoàng Hạc Lâu biến thành tiệm
chả cá Lã Vọng...
Tôi
nghĩ, Sơn Nam
đã quên lời dặn đó của cổ nhân, khi viết Hình Bóng Cũ.
Mối
tình đầu của tôi với Miền Nam ngày xửa ngày xưa chỉ
có vậy. Số mệnh khiến tôi suốt đời lẽo đẽo chạy theo mối tình đầu đó,
khăng khăng cứng đầu, cố biến nó thành hiện thực. Sau này, đọc những
nhà văn Miền Nam,
cũng là để cố tìm lại chút văn minh, "tư tưởng man rợ" (pensée sauvage,
chữ của C. Lévi- Strauss), của một thuở miệt vườn.
Nhưng
có lẽ không giản dị như vậy, Miền Nam, mối tình đầu, và tôi.
Ngay
từ khi học trung học ở Hà-nội, đọc Tô Hoài, tôi đã cố mường tượng ra
một "nước Nam Kỳ" xa xôi, chốn đầy ải, nơi trốn chạy của những anh đàn
ông, con trai "Bắc Kỳ" của một Xóm Giếng, một Trăng Thề, một Quê Người
- một làng Nghĩa Đô đã không còn là quê mình - nên đành hy sinh đi làm
phu đồn điền cho Tây, nếu không may thì làm phân bón cây cao su, còn
may ra thì lại có phen áo gấm về làng. Có thể khi xuống tầu há mồm vào Nam,
giấc mơ của chú bé di cư vẫn chỉ là giấc mơ cũ kỹ đó. Giấc mơ của một
Nguyễn Hoàng về một Hoành Sơn nhất khoảnh, hay khiêm tốn hơn, một tương
lai bên ngoài lũy tre làng.
Khi
còn ở Trại Cấm, nhân có một cán bộ Cộng Sản thất sủng, bị anh em đồng
chí tính cho đi mò tôm, nên đành phải vượt biển, và được đậu thanh lọc,
rồi sau đó xẩy ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa một số người. Người
cán bộ đã nói thẳng ra một điều: tại sao các anh không giải phóng chúng
tôi, tại sao các anh tạo ra tình cảnh cả nước phải đi ăn mày tình
thương của toàn thể nhân loại... Khi lấy được Miền Nam,
có thể giấc mơ muôn đời của Miền Bắc đã được thực hiện: Giải phóng cho
chính mình, rồi sau đó, cho cả nước. Đối với lịch sử, Miền Nam
chỉ có công: Thất trận.
Qua
đây, đọc những nhà văn hải ngoại, tôi nhận thấy chỉ có dòng văn chương
chứa đựng tư tưởng "miệt vườn" là không bị cuộc chiến làm xấu đi, huỷ
hoại, hoặc tiêu diệt. Như là một đối trọng với gánh nặng hội nhập.
Ở
trong nước, dòng văn chương hiện thực tiền chiến, ở những tác giả như
Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài... đã đầu tư hết mọi ước mơ, hoài
vọng và năng lực cho những ngày đầu cách mạng, đã hy sinh hết cho Đảng,
dù có phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn, đã bị kiểm thảo, học tập nghị
quyết, học tập cách ngồi, cách suy tư, cách đi thực tế, cách viết dưới
ánh sáng của Đảng... cuối cùng nhường chỗ cho dòng văn chương hiện thực
xã hội chủ nghĩa, chết bất đắc kỳ tử ngay những ngày đầu chiến thắng
Miền Nam.
Độc
giả trong nước bây giờ đổ xô tìm đọc những tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh... là cũng nằm trong ý nghĩa đó: Tha hóa không phải chỉ ở đây,
vào lúc này. Chất nghĩa khí, cõi công bằng, tình bà con lối xóm... vốn
đầy rẫy trong những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh là những hình bóng cũ mà
người dân hai miền đang trân trọng.
Nguyễn
Quốc Trụ