Đọc
Cây Bút Đời Người
của Vương Trí Nhàn
Dương Tường phán, nhà văn chúng ta dốt quá. Nguyên Ngọc, lịch sự, chi
tiết, và
cũng thực tế hơn, nói, nhà văn Việt Nam cần kiến thức triết
học. Ngay
cả Mác Xít "của chúng ta", cũng dởm, như là triết học, nhưng thực,
như là vũ khí, để đi xâm lược, không khác chi cây súng, trong sứ
mệnh
khai khóa của Tây Phương trước đây.
Thơ phải có thép, nhà thơ phải biết xung phong, là vậy.
Nhưng, giả sử như nhà văn Việt Nam
cần một kiến thức triết học, những nhà phê bình Việt Nam
còn cần hơn nhiều. Thất bại của
Cây Bút Đời Người, của Vương Trí Nhàn, nằm ngay ở lời dẫn, và là cái
điều mà
ông gọi là may mắn:
Với tư cách một người chuyên viết phê bình văn học có
thể nói tôi có nhiều
may mắn, bởi trong suốt cuộc đời làm nghề, tôi luôn có dịp được sống
gần gũi
với các nhà văn nhà thơ, ở cùng cơ quan, hàng ngày trò chuyện với họ,
cùng họ
bàn bạc về công việc văn chương cũng như việc đời.
"Ru mãi ngàn năm", Benjamin đã từng nói tới những cuốn
sách ngủ
những giấc ngủ dài ngàn năm, chẳng khi nào tỏ ra hối hả, hoặc bực bội,
vì chưa
có độc giả nào ngó tới chúng. Như thế nghĩa là gì?
Một trong ý nghĩa của nó, là cái may mắn tuyệt vời của độc giả - tức
nhà phê
bình - không hề quen biết tác giả.
Cái may mắn quen biết ăn ngủ chung chạ với những nhà văn chỉ đẻ ra
những tác
phẩm thuộc loại giai thoại, tiểu sử, trà dư tửu hậu, bù khú, điếu đóm
văn học,
không phải phê bình văn học.
Những bàn bạc về công việc văn chương cũng như việc đời, cao lắm cũng
chỉ đẻ ra
một thứ tiểu sử tác giả, dùng cái đó để phê bình tác phẩm lại càng chết
nữa,
điều này Naipaul trong bài diễn văn Nobel văn chương,
đã nói rõ, khi viện Chống Sainte-Beuve của Proust. Kundera thì ngang
ngược hơn,
khi cho rằng [trong Những Di Chúc Bị Phản Bội], nhà văn phá căn nhà của
mình
[hiểu như tiểu sử, cuộc sống riêng tư] để xây một căn nhà khác, là tác
phẩm.
Lục lọi ba chuyện lẩm cẩm linh tinh..., may lắm tìm đuợc, chỉ một viên
gạch!
Và một khi người đọc chú ý đến ba chuyện lẩm cẩm, thay vì Joseph K, như
vậy là
Kafka lại chết thêm một lần chết nữa, một cái chết sau cái chết.
Một trong những 'chân lý' về phê bình, là: nhà phê bình phải chủ quan,
chứ
không khách quan!
Cái gọi là chủ quan với một nhà phê bình, chính là khung triết học mà
người đó
dựa vào đó, để khám phá, khai thác, thám hiểm tác phẩm. Thí dụ,
Barthes,
Genette của cơ cấu luận; Sartre, của hiện sinh; Lukacs, Goldmann của
Mác Xít;
những nhà phê bình Nga của trường phái hình thức luận.
Trên tất cả, nhà phê bình phải là một nhà văn. Đã qua rồi, cái thời nhà
phê
bình ngự sử văn đàn, ngồi trên cao gật gù cái đầu của mình, hoặc xoa
đầu những
nhà văn, "Được, được, toa viết cái đó, moa chịu
lắm", và sau đó, kéo nhau tới tiệm ăn mừng, không phải tác phẩm, mà là
lời
phán, của nhà phê bình!
Để nói lên sự vô thường bật ra từ một cõi văn chương Shakespeare,
Steiner, nhà
phê bình-nhà văn [trong Nhân Văn], chú ý tới
"vết gỉ sét của một giọt sương trên lưỡi dao sáng ngời". Nhưng một
thi sĩ, hay một nhạc sĩ [Phạm Duy], thì lại nhận ra trong vườn của
mình, bông
hồng nở thơm ngát vào buổi sáng nghe tin một người thân quen tử trận.
Tác phẩm phê bình là một tác phẩm của tác phẩm, một bản văn choàng lên
một bản
văn, là vậy.
Giống như phần thuận, và phần đảo của cùng một định lý, nếu nhà phê
bình phải
là nhà văn, thì, nhà văn phải là một nhà phê bình. Có thể, "văn" và
"phê"
đang ở vào tình trạng giống như văn và thơ, theo nghĩa này: Cái gì
không phải
văn, là thơ, và cái gì không phải thơ, là văn, như ông giáo sư triết
học của
Molière trong Le Bourgois Gentilhomme tuyên bố [Tout ce qui n'est point
prose
est vers, et tout ce qui n'est point vers est prose. Susan Sontag trích
dẫn,
trong bài viết A Poet's Prose, Văn của Thi Sĩ, [trong tuyển tập essays
Where
The Stress Falls, nhà xb Farrar, Strauss and Giroux, New York, 2002]
Thử nhìn lại Nobel mấy năm gần đây, là thấy rõ: Cao Hành Kiện, Naipaul,
Kertesz, Coetzee.. đều là những phê bình gia, tiểu luận gia bậc thầy.
Người
kể lại kinh nghiệm, làm thế nào sống sót lịch sử của đám đông Đông
Phương,
người xoáy mãi vào Lò Thiêu, hay một góc bị bỏ quên của thiên
đàng hạ giới
[... that Africa could never, in the European imagination, be the home
of the
earthly paradise, because Africa was not a new world: Rằng Phi Châu
chẳng bao
giờ, trong trí tưởng tượng của người Âu Châu, là nhà nơi thiên
đàng hạ giới,
vì nó không phải là một thế giới mới. Coetzee: White Writing].
Nếu Việt Nam sẽ có một Nobel văn học, thì một ông nhà văn Mít như thế
đó phải
là cái lương tâm mà đám Mít có thể tin cậy [The writer - that
conscience in
which his fellow man can believe." Normal Manea].
Đã có một thời, NHT là cái lương tâm đó.
Như Kundera, Milosz, and Kis, Manea tượng trưng cho tinh thần Trung Âu,
không
chỉ vì ông sinh ra tại đây như họ, mà còn vì tầm nhìn của ông về mặt
tâm linh
và văn hóa, hay nói như Danilo Kis, mà ông đã từng viện dẫn:
"Ý thức rằng mình thuộc về Trung Âu, là ý thức rằng sau chót, tự thân
của
nó, ý thức này là một ý thức về sự ly khai."
Solzhenitsyn cũng đã từng phán như vậy, khi dậy bảo Hội Nhà Văn của
những nhà
văn nhà thơ nhà nước CS: Nhà văn phải làm sao sử sự như một nhà nước
trong một
nhà nước.
Liệu một nhà văn, một tinh thần, một ý thức như thế, sẽ có, ở trong
nước?