|
Món quà tuyệt
vời
Roland
Barthes
Jakobson biến
văn chương thành một món quà tuyệt vời: ông cho nó môn ngôn ngữ học. Lẽ
dĩ
nhiên, Văn chương chẳng chờ đợi, để biết, nó đã là Ngôn Ngữ; tất cả Tu
Từ Học cổ
điển, tới Valéry, khẳng định sự kiện này; nhưng một khi, một khoa học
ngôn ngữ
được truy tìm, (thoạt kỳ thủy dưới dạng ngôn ngữ học - mang tính so
sánh, dọc
theo lịch sử - về các ngôn ngữ), thật lạ lùng khi những "hiệu quả" của
cái nghĩa đã bị bỏ qua. Sự lơ là này, ở thế kỷ của chủ nghĩa tích cực
(thế kỷ
muời chín), là do rơi vào chuyện coi như là cấm vật (taboo), những lĩnh
vực
chuyên biệt: một bên là Khoa Học, Lý Lẽ, Sự Kiện; một bên, là Nghệ
Thuật, Cảm
Tính, Ấn Tượng.
Ngay từ khi còn trẻ,
Jakobson đã lưu tâm tới
chuyện sửa đổi tình trạng này: bởi vì nhà ngôn ngữ học đã một lòng một
dạ với mối
tình lớn của ông, dành cho thi ca, hội họa, nghệ thuật thứ bẩy; bởi vì,
ở trái
tim của sự tìm tòi khoa học của mình, ông không bao giờ kiểm duyệt niềm
vui như
một người có văn hóa; và ông nhận ra, hiện tượng khoa học chân thực của
hiện đại
tính không phải "sự kiện", mà là "sự liên hệ".
Thoạt kỳ thủy,
với môn ngôn ngữ học đại cương do ông đề ra, là một hành động khai mào
quyết định,
liên can đến chuyện phân loại, sàng lọc, tu luyện: với ông, những từ
ngữ này đã
mất đi mầm độc địa, sự ung thối mang mầu sắc phân biệt, hình luật,
chủng tộc của
chúng; chẳng còn ai làm chủ (Văn chương, Ngôn ngữ học), kẻ bảo vệ bị
đuổi về vườn.
Jakobson đã
ôm lấy Văn chương bằng ba cách. Trước tiên, ông tạo ra, ngay chính bên
trong
môn ngôn ngữ học, một bộ phận đặc biệt, "Thi học"; bộ phận này (và
đây là điều mới mẻ trong việc làm của ông, phần đóng góp lịch sử của
ông), ông
không định nghĩa nó, từ Văn chương (như thể Thi học vẫn còn phụ thuộc
vào 'thơ
tính' hay vào 'thi ca'), nhưng từ nghiên cứu những nhiệm vụ của ngôn
ngữ: mọi
hành động nói (speech-act), nhấn mạnh tới hình dạng của thông điệp, là
thơ; từ
đó, ông có thể, "khởi từ vị trí ngôn ngữ học", gia nhập, tiếp nối những
dạng thức sinh động nhất (và thường là đầy chất giải phóng), của Văn
chương:
quyền hàm hồ của nghĩa (meanings), hệ thay thế, system of
substitutions, mã
hình tượng, code of figures (ẩn dụ và
hoán dụ, metaphor and metonymy).
Tiếp theo
đó, mạnh mẽ hơn cả Saussure, ông đề nghị một liên-ký hiệu học
(pansemiotics), một
khoa học - không chỉ đại cương mà còn được đại cương hóa - về những ký
hiệu.
Nhưng ở đây, hiển nhiên, vị trí của ông thật là tiền phong: một mặt,
ông dành một
chỗ riêng biệt, ở trong môn khoa học đó, cho ngôn ngữ phát âm (ông rất
quan tâm
tới chuyện, ngôn ngữ không giản dị chỉ ở "kế cận", mà là "ở khắp
nơi"), mặt khác, ngay lập tức, ông đã hợp nhất hai lĩnh vực Nghệ thuật
và
Văn chương vào ký hiệu thuyết (semiotics), từ đó mặc nhiên công nhận,
ngay từ
khởi điểm, ký hiệu học (semiology) là một khoa học về ý nghĩa
(signification) -
không giản đơn là truyền thông - do đó đã giải phóng ngôn ngữ học ra
khỏi bất cứ
một rủi ro nào, do dụng tâm kỹ thuật.
Sau
cùng, ngôn ngữ học của ông, tự thân nó, một
cách thật đáng yêu, là nền tảng của quan niệm hiện thời của chúng ta,
về Bản
Văn: rằng "nghĩa của ký" (a sign's meaning), chỉ là sự phiên dịch của
nó (its translation) vào một ký hiệu khác, nó xác định "nghĩa", không
"một lần rồi xong", nhưng là một mức độ "nghĩa" khác (which
defines meaning not as a final signified but as "another" signifying
level); và còn nữa, rằng ngôn ngữ thông dụng nhất bao hàm một con số
quan trọng,
những biểu hiện siêu-ngôn ngữ, nó khẳng định sự cần thiết của con
người, ngay vừa
thốt ra lời, là cảm hiểu, ngôn ngữ của mình: một hành vi quyết định,
được Văn
chương đẩy tới độ chói chang cao nhất của nó. Cái "rất" văn phong, của
tư tưởng con người, một văn phong sáng sủa, rộng lượng, khôi hài, chan
hòa, đâu
đâu cũng như ở nhà (cosmopolitan), dẻo dai, chúng ta nên gọi là "thông
minh một cách quái quỉ", đã dẫn dắt Jakobson tới nhiệm vụ "khai mở"
mang tính lịch sử: bãi bỏ sở hữu quyền khắc nghiệt.
Không nghi
ngờ chi, còn khả hữu một văn phong khác, dựa trên một văn hóa mang
nhiều tính
chất lịch sử hơn, một ý niệm mang nhiều tính triết học hơn, về chủ thể
nói (the
speaking subject): Ở đây, tôi đang nghĩ tới việc làm không thể quên
được (vậy
mà hình như đã bị quên lãng, theo tôi), của Benveniste, một người mà
chúng ta
không bao giờ bỏ qua, (và Jakobson chắc chắn đồng ý với tôi ở đây), mỗi
khi tỏ
lòng tôn kính, về những đóng góp đưa đến vai trò quyết định của Ngôn
ngữ học, ở
buổi sơ sinh của một "ngành nghề khác" đó, trong thời đại của chúng
ta. Nhưng Jakobson, qua tất cả những đề nghị vừa mới mẻ vừa không thể
đảo ngược
lại được - thành quả năm chục năm trời của ông - là một khuôn mặt lịch
sử đối với
chúng ta. Một người, bằng một "cú đánh thông minh", vĩnh viễn đẩy
"vào quá khứ", một số những điều đáng kính mà chúng ta bị rằng buộc:
ông làm cho định kiến trở thành lỗi thời. Tất cả việc làm của ông nhắc
nhở
chúng ta một điều, "mỗi chúng ta phải nhận ra, một lần cho mọi lần, nhà
ngôn ngữ học mà điếc trước nhiệm vụ thi ca, như chuyên viên văn chương,
dửng
dưng trước những vấn đề, ngu dốt trước những phương pháp, của ngôn ngữ
học,
trong trường hợp nào thì cũng là một lỗi thời trắng trợn."
Le
Monde, 1971
[Dịch từ bản
tiếng Anh, của Richard Howard, in trong The
Rustle of Language, nhà xb Hill and Wang, New York, 1986].
Nguyễn Quốc
Trụ
A Magnificent Gift
Jakobson
made literature a magnificent gift: he gave it linguistics. Of course,
Literature did not wait to know it was Language; all of classical
Rhetoric
until Valery attests to the fact; but once a science of language was
sought
(initially in the form of a historical and comparative linguistics of
languages), it was oddly negligent of the effects of meaning, it too
succumbing
in that century of positivism (the nineteenth) to the taboo of
specialized
realms: on one side, Science, Reason, Fact; on the other, Art,
Sensibility,
Impression. Jakobson was involved since his youth in the amendment of
this
situation: because this linguist has persisted in his great love of
poetry, of
painting, of cinema, because, at the heart of his scientific research,
he never
censored his pleasure as a cultivated man, he realized that the
authentic
scientific phenomenon of modernity was not fact but relation. At the
origin of
the generalized linguistic he outlined was a decisive opening gesture
of
classifications, castes, disciplines: these words lost, with him, their
separatist, penal, racist taint; there are no more owners (of
Literature, of
Linguistics), the watchdogs are sent back to their pens.
Jakobson
endowed Literature in three ways.
First of all, he created within linguistics itself a special
department,
Poetics; this sector (and this is what is new in his work, his
historical
contribution), he did not define from Literature (as if Poetics still
depended
on the "poetic" or on "poetry") but from the analysis of
the functions of language: every speech-act which accentuates the form
of the
message is poetice; therefore, he was able, starting from a linguistic
position, to join the vital (and often the most emancipated) forms of
Literature:
the right to ambiguity of meanings, the system of substitutions, the
code of
figures (metaphor and metonymy).
Subsequently,
even more strongly than
Saussure, he promoted a pan-semiotics, a generalized (and not only
general)
science of signs; but here again his position was doubly avant-garde:
on the
one hand he maintained a preeminent place in that science for
articulated
language (being well aware that language is everywhere, and not simply
close
by), and on the other he immediately united the realms of Art and
Literature to
semiotics, thereby postulating from the start that semiology is a
science of
signification - and not of mere communication (thus freeing linguistics
of any
risk of technocratic intent).
Finally,
his linguistics itself admirably
grounds our present concept of the Text: i.e., that a sign's meaning is
only
its translation into another sign, which defines meaning not as a final
signified but as another signifying level; and also that the commonest
language
involves an important number of meta-linguistic utterances, which
attests man's
necessity to conceive his language at the very moment he speaks: a
crucial
activity which Literature merely carries to its highest degree of
incandescence.
The
very style of his thought, a brilliant,
generous, ironic, expansive, cosmopolitan, flexible style which we
might call
devilishly intelligent, predisposed ]akobson to this historical
function of
opening - of abolishing disciplinary ownership. Another style is
doubtless
possible, based at once on a more historical culture and on a more
philosophical notion of the speaking subject: I am thinking here of the
unforgettable (and yet somewhat forgotten, it seems to me) work of
Benveniste,
whom we must never dissociate (and ]akobson would agree with me here)
from any
homage we pay to the decisive role of Linguistics in the birth of that
other
thing operative in our age. But Jakobson, through all the new and
irreversible
propositions that constitute his work of fifty years, is for us that
historic
figure who, by a stroke of intelligence, definitively shoved into the
past some
highly respectable things to which we were attached: he converted
prejudice
into anachronism . All his work reminds us that "each of us must
realize,
once and for all, that the linguist deaf to poetic function, like the
specialist in literature indifferent to the problems and ignorant of
methods of
linguistics, is henceforth, in either case, a flagrant anachronism"
Roland
Barthes
Le
Monde, 1971
|