*




 Một Người Nhật Ở Paris 

Đã 15 năm Kenzaburô Oé chưa ghé nước Pháp.
Nhân dịp cho ra lò mấy cái chưa in, viết từ thời còn trẻ, nhà văn Nhật trăn trở với những gì ông nghiên cứu, ba chuyện viết lách, và thái độ dấn thân chính trị của mình.
SABINE AUDRERIE thực hiện cho tờ Le Figaro Littéraire
10 Tháng Chạp, 2005.

 "Tối qua, tôi đọc những gì mình viết từ thưở ngu ngơ trẻ dại đó, một điều làm tôi kinh ngạc, mình khi đó làm việc sao được quá đi mất!"
Rõ ràng là, sau cái vẻ nghiêm nghị như giả đò, sau cặp mắt kiếng tròn to tổ trảng, bộ đồ lớn, câu chào nhỏ nhẹ, là một bậc hiền giả không chỉ têu tếu, nghịch ngợm, mà còn ưa điều quái dị, khác thường. Ba tác phẩm chưa từng in ra bằng tiếng Pháp mà ông mang đến cho chúng ta cuối thu này, đã được trước tác từ năm mươi năm. Le Faste des morts là tác phẩm đầu tay xb năm 1957, khi đó ông mới 22 tuổi. Cũng như Ramier và Seventeen [1958 và 1961], nó thật đáng được coi như những tiểu thuyết.
Liệu có kỳ cục không, khi đã nổi tiếng, đại diện cho văn chương Nhật hậu chiến, bấy giờ mới đưa ra những tác phẩm hồi còn trẻ?
Cái vụ dịch và cho xb bằng tiếng Tây này quái lại thay, nó làm sống lại một cách rất ư là thời sự, những gì mà tôi nghĩ rằng đã chìm vào quên lãng. Vào thời son trẻ đó, tôi được nuôi nấng bằng văn chương Tây, nhất là những truyện của Pierre Gascar. Chính là ngôn ngữ mới mẻ, và hiện đại của ông ta mà tôi muốn tiếp cận.” Những truyện kể long lanh ấn tượng này quả là có mùi cổ điển. Chúng bầy ra những người trẻ tuổi đụng đầu với những hoàn cảnh đạo đức ác liệt – cái chết, sự phạm tội, nỗi cô đợn – “Bạo lực luôn có trong văn chương, ngay từ Electre hay Antigone. Mỗi thời đại, mỗi tấm gương, soi mỗi khác, nhưng tựu chung, vẫn là nó, được diễn tả khác đi.”
Vào cuối thập niên 1940, chẳng có gì hứa hẹn anh chàng Kenzaburô sau này sẽ trở thành nhà văn, hoặc một ông giáo sư đại học. Tại ngôi làng vùng núi Ose, phía nam đảo Shikoku, nơi ông lớn lên, trường sư phạm dạy về lâm trường. Thiên hướng văn chương của ông có thể đã được bật ra, nhờ những buổi dạo chơi trong rừng, nhờ ngôn ngữ cây cối, núi rừng: Trong cuốn bách khoa từ điển về môn lâm trường, ông đã cấy vào đó, mầm văn chương của mình, và ông cũng ngộ ra là bài học thảo mộc địa phương, nơi ông ra đời đó, sẽ nối được với phần còn lại của thế giới, nhờ tên của chúng, theo gốc la tinh hay theo ngôn ngữ phổ cập. Sự cảm thông qua ngôn ngữ như thế đó, sau này, ông lại cảm thấy, rất ư là mạnh mẽ, khi đọc tác phẩm Huckleberry Finn của Mark Twain, tại thư viện Mỹ ở Tokyo, nơi ông tiếp tục theo đuổi việc học, nhờ luật giáo dục 1946. Đọc và so sánh từng chữ, giữa nguyên tác và bản tiếng Nhật. Ông mặc khải, một ngôn ngữ khác nữa đó sẽ mở ra cho tôi những biên cương, và cuộc đời. Ông nhớ lại, khi ngồi quán cà phê gần Sorbonne, ảnh hưởng của những tác giả Pháp ở nơi ông. Đọc les Bêtes et le Temps des morts của Pierre Gascar, từ đó bật ra cụm từ “sự cảm thông lớn lao”, ông ngộ ra liền cái gọi là sự cảm thông ngoại địa, vượt lên khỏi đất đai, biển cả, nội địa, ngoại địa.
“Đặt ngay mình, tại trái tim của sức căng ngôn ngữ, trong cuộc đối đầu giữa tiếng Pháp và tiếng Nhật” đó sẽ là dự phóng, giấc mơ văn học của tôi.
1963: Điểm mốc cuộc đời và tác phẩm của ông, với sự xuất hiện đứa con trai đầu lòng, bị tật nguyền thần kinh. Thảm kịch nội tâm này đẩy ông tới Hiroshima. Từ đó, để vươn tới cõi ngoài, tới cái chung, cái phổ cập, tác phẩm của ông bắt buộc phải được chiết qua lăng kính của một cõi nội đặc biệt: một vấn đề cá nhân, một gia đình trên đường chữa trị để được lành bệnh…
Những biến động chính trị của xứ sở của ông ảnh hưởng tới chàng thanh niên Kenzaburô Oé, và tạo nên vóc dáng nhà văn. Đệ tử của Sartre [ông đã từng làm một luận đề về triết gia người Pháp này], văn chương và dấn thân là không thể tách rời. Dấn thân chống khí giới hạt nhân, ghê tởm sự thống trị của Mỹ, ông gia nhập Uỷ Ban Bảo Vệ Hiến Pháp, nhất là bảo vệ Điều số 9, đòi hỏi một nước Nhật không tham dự bất cứ một cuộc chiến. Nhưng cũng vẫn ông, ngỡ ngàng khi nhận giải Nobel, bối rối trước viễn ảnh một nước Nhật bị kẹt giữa hai cực của sự bối rối, hàm hồ: vừa vươn tới dân chủ hoà bình, vừa cố gắng trở thành một cường quốc quân sự.
Một khuôn mẫu tốt đẹp cho tương lai?
“Đó sẽ là cộng đồng các xứ sở không còn là những đại cường quốc, nhưng bằng cái nhãn đó, đóng một vai trò đặc biệt.  Âu Châu hiện nay đang ở trên đường hướng này.” Và Oe nhắc tới của vai trò văn hoá trong một cuộc tiến hoá như thế, khi đưa ra thí dụ, những nhà văn Lỗ Mã Ni ở Paris – Ionesco, Cioran, hay Eliade - họ đã tìm thấy ở Pháp một khung cảnh tự do, nơi mà tiếng nói của họ được lắng nghe. “Chỉ cần độ chừng 5 người Nhật trẻ tuổi, sống ở Pháp vào lúc này, và theo đuổi con đường nêu trên, là tôi có thể chết đi mà vẫn nghĩ tới họ”, Oé nói. 

Hakari, con trai của ông, trở thành nhà sáng tác nhạc nổi tiếng. 

Tự coi mình là theo chủ nghĩa nhân bản dấn thân của Thomas Mann, năm 1995, Oé từ chối không đến tham dự Hội Sách ở Aix-en-Provence, để phản đối các cuộc thử nguyên tử của Pháp ở Thái Bình Dương. “Có thể tôi sẽ xuống hỏa ngục nhưng tôi sẽ không đi Pháp,” ông nhớ ông đã nói như thế!
Năm trước, cũng một quyết định, sinh ra từ nỗi đau như vậy, khi vừa được Nobel, ông bỏ viết tiểu thuyết. “Tác phẩm của tôi trệch ra khỏi những ý hướng nguyên thuỷ, và tôi có cảm tưởng như đang ở ngõ cụt: Khi xã hội đi tới, văn chương thêm sức cho đà tiến đó, nhưng khi xã hội bị dồn vào chân tường, văn chương không làm được cái việc hạ bỏ bức tường. Tôi có cảm nhận là nền dân chủ bị thoái hóa và, nếu cố cưỡng lại, thì cũng chẳng ích chi đâu."
Sự kiện Hakari con trai ông trở thành nhà sáng tác nhạc nổi tiếng, có thể tự mình diễn tả được cảm xúc là một giải thoát cho ông. “Trong vòng ba mươi lăm năm, tôi sống một nửa cho con, tôi viết cho hai chúng tôi. Bây giờ tôi có thể làm những gì trong bao nhiêu năm qua tôi đã hy sinh: đọc.”
Óe đọc ngấu nghiến Spinoza, nhờ Spinoza mà các sáng tác sau này của ông, mang tính suy tư hơn là tưởng tượng. Nhưng cuốn Culture et Impérialisme, Văn Hóa và Chủ Nghĩa Đế Quốc của Edward W. Sad, người Palestine, làm ông xúc động nhất. “Trong tác phẩm này, tôi tìm được cái đà cần thiết cho cuộc đời tiểu thuyết gia tái sinh của tôi. Sad là người không buông bỏ hy vọng và lúc nào khởi đi cũng bằng văn chương.”
Năm 1999 ông xuất bản Saut périlleux, Cú nhẩy nguy hiểm, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của cái đà mới này và một bộ ba, Mon histoire d'après-guerre, Chuyện Hậu Chiến Của Tôi, quyển cuối cùng là Adieu mon livre, Chào Vĩnh Biệt Cuốn Sách Của Tôi, vừa xuất bản ở Nhật [sau l'Enfant échangé và l'Enfant au triste visage, chưa có tác phẩm nào được dịch ra tiếng Pháp]. Một quyển sách chín mùi nhờ đọc thơ của T. S. Eliot : «Giữa các vần thơ tiếng Anh của Eliot và bản dịch ra tiếng Nhật, tôi tìm ra chỗ đứng cho mình, một ông  già người Nhật đang di động. Điều này chứng tỏ, tôi chưa bỏ cuộc."

LN dịch
tanvien.net

Le Faste des morts, Kenzaburô Oé, nouvelles choisies et traduites du japonais par Ryôji Nakamura et René de Ceccatty, Gallimard, 176 p., 15 [Le Fastes des morts, tập truyện ngắn, nhà xb Gallimard]