|
Con sói đơn
độc của Hà
Nội
Manuel Carcassonne
16 février 2006
Bị
khai trừ khỏi Đảng Cộng Sản năm 1990 vì tội vô kỷ luât,
bị quản chế, nữ tiểu thuyết gia nổi tiếng thế giới, Dương Thu Hương,
xuất bản
Chốn Vắng « Terre des oublis », một tuyệt tác của bà.
"Quý
vị ngây thơ!” Dương Thu Hương nhấn mạnh từng chữ
như để cho mọi người hiểu. Câu hỏi của chúng tôi, về
phúc lợi của nền kinh tế thị trường tại
một nơi chủ nghĩa độc tài Cộng Sản ngự trị, khiến bà cho rằng chúng tôi
chẳng
có đủ tư cách để hiểu thế nào là một chế độ bách hại, làm thịt người.
Bà, một
người đã từng ở tù vì nó. Bà nói đúng. Chúng tôi là những đứa con cưng
của một
nền dân chủ bạc nhược, trong khi ở nơi bà, cái nghị lực để nhấn mạnh
một câu
nói như thế đó, là của một nữ chiến sĩ, là để sống còn trong một môi
trường thù
nghịch. Làm sao chúng ta có thể tưởng tượng được hồi kết cục của những
tự do
của chúng ta? Làm sao bà vượt qua được hai người đàn ông canh chừng và
áp dẫn
bà đến tận phi cơ? Làm sao sống lại tuổi thanh xuân đã bị đánh mất, đã
bị phong
thánh bằng tử đạo, đạo Cộng Sản?
Nữ
tiểu thuyết gia tuổi sáu mươi, điệu đàng lịch sự - bà
sinh năm 1947 ở Thái Bình - không thích nhập nhằng, ít nhất là trong
việc công
kích chế độ, giữa cái khiêu khích khiến bị đòn nhừ tử và cuộc chiến đấu
chân chính.
Thế hệ của bà kết hôn với những lý tưởng sáng suốt bất thần của những
cựu bạn
đường của Đảng Cộng Sản. Cộng Sản mà như thế này, như hiện nay, là tha
hóa, là
phản bội lý tưởng. Tuổi trẻ của bà với những khẩu hiệu không tưởng, mặc
đồ
trận, chạy tránh bom ở vĩ tuyến 17, vùng lửa đạn, vùng bị bom Mỹ dội
nhiều nhất
ở miền Bắc trong chiến tranh Việt Nam.
Vỡ
mộng
Vào
năm 20 tuổi, bà chiến đấu trong lữ đoàn tình nguyện của
chiến dịch “Tiếng hát át tiếng bom”, chỉ nội cái tên đủ nói lên tham
vọng của
lữ đoàn. Bà ở trong quân đội đến năm 1975, phung phí sức lực cho một
cuộc chiến
bất chính, giết người, và cái học, ở bên ngoài những bức tường, của một
nữ tiểu
thuyết gia, là về miền điên rồ: những người đàn ông lang thang trong
chiến hào,
hóa rồ hoá dại, cụt tay què cẳng. bị nướng bằng bom lửa, những người
đàn bà vượt
cạn một mình, cũng trên mảnh đất điên rồ đó. Ý thức hệ, lý tưởng làm
nên chuyện
tầy trời, thép đã tôi là như thế: thứ xi măng nắng mưa, thời gian không
sao
soi mòn, không sao thẩm thấu. Ôi chao, cả một niềm tin “đường ra trận
mùa này đẹp lắm”
cuối cùng chỉ là phí phạm, vứt đi, bà buồn rầu nói.
Đến một ngày, người nữ binh đoàn hiểu, thì ra
người ta làm thịt cả những người Việt ở Miền Nam, những đồng bào của bà,
mà bà
thấy chẳng có lý do nào để làm thịt họ. Vỡ mộng, bà làm việc để nuôi
gia đình
với chức vụ “biên tập viên biên chế cho các phim trường sản xuất phim
giả tưởng
ở Hà Nội,” 600 nhân viên biên chế, biên tập những kịch bản chẳng bao
giờ quay
thành phim, kiểm duyệt dễ dàng chóng vánh, chẳng có gì nguy hiểm ở
trong đó.
Tháng
Tư năm 1990, trong một buổi họp của hiệp hội các nhà
trí thức ở Sàigòn, có một người, hẳn nhiên có ý xấu, đã hỏi bà:
“Tổng
thống mới của Tiệp là một nhà văn, bà sẽ là một Vaclav Havel của Việt Nam?”
Câu trả lời chỉ làm đám cầm quyền điên tiết. Chẳng phải chờ lâu, chỉ
một thời
gian ngắn sau đó, bà được họ ban cho bẩy tháng sáu ngày tù giam, trong
một xà-lim,
được khai trừ ra khỏi Đảng Cộng Sản. Bây giờ, bà bị quản chế, bị theo
dõi, bị
giam hãm trong sự cô đơn, lâu lâu cũng có những cuộc du lịch bất
thường, gặp gỡ
người nước ngoài, Pháp hay Mỹ. Nhưng, gì thì gì, người nữ cựu đảng
viên, nhà nữ
ly khai, chống đối, nhà nữ quyền đã từng được Jacques Toubon vinh danh
vào năm
1995, nhà nữ tiểu thuyết gia giầu sáng tạo này không rời Việt Nam. “Tôi
chọn ở
lại Việt Nam
để chơi một cuộc chơi mà tôi bằng lòng với nó. Tôi là người chống cự,
cưỡng lại,
từ vùng ven. Một kẻ đứng bên lề được sự hỗ trợ bởi cuộc chiến đấu của
những Phật
tử, những tín đồ Ky tô, những người theo đạo Tín Lành. Họ bảo vệ những
người bị
bắt giữ, những tù nhân chính trị. Người ta sỉ nhục tôi, vu khống tôi,
bỏ tù tôi,
nhưng tôi vẫn tiếp tục viết, tiếp tục nói, tôi nhìn thấy điều tôi muốn.
Chúng
tôi phải nắm số phận mình, dù đau đớn cỡ nào, ở trong tay. Tôi là con
sói đơn
độc.”
Một
bức tranh ấn tượng
Rạch
ròi từng chữ, lông mày nhíu lại, mỉm cười tùy lúc,
Dương Thu Hương đúng là bức tranh một đảng viên ly khai ở Paris. Linh hoạt
cắt cái rụp. Phản ứng nhanh
như cắt. May còn có quyển sách: 800 trang, một bức tranh giầu ấn tượng,
vừa
riêng tư vừa lịch sử, vừa của riêng vừa của nhiều người, của cả một
thời đại.
Nhưng nhất là, đọc hấp dẫn, đọc thích thú, cứ như thể từ hồi còn mài
đũng quần
trên ghế nhà trường đến bây giờ mới lại có được.
Nữ
tiểu thuyết gia viết dài, rộng, và, rộng luợng, viết từng
chuỗi chuyện thú vị, cảm giác sáng chói, từng trang sách giống như là
một nơi
chốn để tái nhập thân, cho một thứ côn trùng, loài phù du sống hết đời
mình
trong một đêm để kịp chết vào lúc hừng đông, thứ trái cây ngọt lịm,
người đàn
bà quỳ gối trong mảnh ruộng, người lính tàn lụi đi vì những vết cháy
bỏng của
cuộc chiến giữa đất nước Lào và vùng núi xanh, những con ma của quá khứ
và những
ảo tưởng của hiện tại.
Không
thiếu những chi tiết hấp dẫn, gợi cảm lúc mơn trớn lúc
quất mạnh: “Da của nó lấp lánh dưới ánh nến, trắng như mỡ lá đông lạnh
hay vỏ
trứng. Nó có làn da của Miên. Cũng có thể là làn da của cha nó, người
đàn ông ở
với Miên từ bảy năm nay.”
[Đây là dịch từ bản tiếng Pháp, của người điểm sách. Chưa tìm
được nguyên tác tiếng Việt. CTND]
Câu
chuyện đơn giản. Bản làng miền núi, ruộng lúa, nhà sàn,
hàng hiên ngó vô rừng, và một cuộc trở về lạ lùng: bộ đội Bôn, đã báo
tử, đã
liệt sĩ, đột ngột trở về đoàn tụ với người vợ chính thức, có hôn thú,
là Miên.
Gầy trơ xương, hôi như cú, không một xu, bất lực, anh bộ đội, cái
chết hiện về
chưng hửng
khi biết Miên, hoàn toàn ngây thơ, hoàn toàn vô tội, đã tái giá với
Hoan, một thương
gia thành thị, giầu có, và hấp dẫn hơn anh. Ai có lý? Ai điều động, ra
lệnh?
Danh dự hay tình yêu, tổ quốc hay tình cảm? Trung thành với ai để hy
sinh chính
cả mình?
Nhà
nữ tiểu thuyết gia giơ cây viết thần ra hiệu, và thế là tuồng
ảo hóa bèn bầy ra đấy: những mặt nạ sặc sỡ của một xứ sở Việt Nam xa
xưa, niềm vui,
nỗi đau, danh dự bị nhạo báng, tình mẫu tử thắng thế, những tên
ma mãnh
của
thành phố hay những nạn nhân nhỏ thó của Lịch Sử. Như nữ kịch tác gia,
bà tưới
lên xen hài bằng nước mắt của một bi kịch bình dân, bà cho nhà quê đụng
độ thành
phố, kẻ ăn hối hộ đối mặt người hối lộ. Đang từ hoàn cảnh này độc giả
bắt liền qua một hoàn cảnh khác.
Chốn Vắng,
Terre des oublis, là quyển tiểu thuyết thứ sáu, bản
tiếng Pháp, được xuất bản. Cuốn truyện chúi mãi xuống, tới tận miền sâu
thẳm đã
bị tổn thương, của những kiếp người. Người ta tin rằng, tác giả của nó,
Dương
Thu Hương, thụ giáo từ một ngôi trường của những lưỡi lê và những khẩu
hiệu, của
nhà tù và của sự thiếu thốn do bị chiếm đoạt, cho nên bà quá rành, và
thừa bản
lĩnh để làm bật ra cái bóng ma ghê rợn khủng khiếp đó. Bà còn cho độc
giả, cả một
phương thuốc dân gian, làm thế nào để trải qua đêm ái ân tới bờ tới bến
mà không
bị quất sụm: Chỉ cần một ly cà phê đen và vài hột muối. Ngay cả một
chuyện như
thế, độc giả vẫn sẵn sàng bỏ qua.
La
louve solitaire de Hanoï
Manuel
Carcassonne
16 février
2006
Exclue
pour indiscipline du Parti communiste en 1990,
assignée en résidence, la romancière vietnamienne la plus connue au
monde
publie « Terre des oublis », son chef d'oeuvre.
«
Vous
êtes bien naïf ! » articule distinctement Duong Thu
Huong, comme s'il lui fallait être certaine d'être comprise. Notre
question sur
l'influence bénéfique de l'économie de marché en dictature communiste
n'incite
pas la dissidente, jadis emprisonnée, à juger que nous avons la pleine
mesure
de ce qu'est un régime répressif. Elle n'a pas tort. Nous sommes les
enfants
chéris de la molle démocratie, elle a l'énergie scandée d'une guerrière
apte à
survivre en milieu hostile. Comment pourrions-nous imaginer la fin de
nos
libertés ? Comment pourrait-elle semer les deux hommes qui la suivent
et
l'escortent jusqu'à l'avion ? Comment revivre une jeunesse perdue,
martyrisée,
à l'ombre du Parti ?
La
soixantaine joliment portée, avec même une pointe de
coquetterie, Duong Thu Huong, née en 1947 à Thai Binh, ne cultive guère
l'ambiguïté, du moins dans sa vie frondeuse, à mi-chemin de la
provocation
rouée et de la sincérité militante. Sa génération épouse les lucidités
soudaines des anciens compagnons de route du Parti. C'est une renégate
à
l'idéologie. Sa jeunesse est escortée de slogans utopiques, marches en
treillis, courses sous les bombes du 17e parallèle, la ligne de feu, la
région
la plus exposée du Nord-Vietnam pendant la guerre avec les Etats-Unis.
Dégrisée
A
20 ans,
elle combat dans les brigades volontaires du
mouvement « Chanter plus haut que les bombes », un nom qui dit assez
l'ambition
des brigadistes. Elle y reste jusqu'en 1975, consumant ses forces dans
une
guerre injuste, meurtrière, éducation hors les murs d'une romancière
sur le
terrain de la folie : les hommes errent dans les tranchés, deviennent
fous,
malades, amputés, napalmés, les femmes accouchent seules à même le sol.
L'idéologie solidifie le tout : ciment impénétrable de longue durée.
Toute cette
foi militante gaspillée pour rien, dit-elle, mélancolique. Un jour, la
brigadiste comprend qu'on abat aussi les Vietnamiens du Sud, ses
semblables, et
qu'elle n'en voit pas la raison. Dégrisée, elle travaille pour nourrir
sa
famille comme « scénariste salariée aux studios des films de fiction de
Hanoï
», 600 salariés au service de l'Etat, remaniant des scripts jamais
tournés,
vite censurés, pas de danger.
En
avril
1990, pendant une réunion de l'association des
intellectuels de Saïgon, quelqu'un de sans doute mal intentionné lui
pose la
question suivante : « Le nouveau président tchèque est un écrivain.
Serez-vous
le Vaclav Havel du Vietnam ? » La réponse ne pouvait que déplaire aux
autorités. Peu de temps après, elle passe sept mois et six jours isolée
dans
une cellule, elle est expulsée des rangs du PC. Elle vit aujourd'hui en
résidence surveillée, suivie, confinée dans une solitude dont elle sort
à
intervalles irréguliers, pour voyager ou rencontrer des interlocuteurs
étrangers, français et américains. Mais cette partisane de la
dissidence, cette
féministe décorée par Jacques Toubon en 1995, cette romancière féconde
à
l'ample mouvement créateur ne quitte pas le Vietnam.
« Je choisis de rester au Vietnam pour
jouer la partie qui me plaît. Je résiste en marginale, soutenue par la
lutte
des boudhistes, des catholiques, des protestants qui défendent les
captifs et
les prisonniers politiques. On m'insulte, on me calomnie, on me jette
en
prison, mais je continue, j'écris, je parle, je vois qui je veux. Nous
devons
prendre notre destin, si douloureux, en mains. Je suis une louve
solitaire. »
Une
fresque impressionante
En
staccato de mots, sourcils froncés, sourires de
circonstance, Duong Thu Huong est tout de même en représentation : une
dissidente à Paris.
Vive, elle tranche. Prompte, elle réagit. Heureusement, il y a son
livre : 800
pages d'une fresque impressionnante, intime et historique à la fois, et
surtout
un plaisir de lecture comme on n'en a pas connu depuis les bancs de
l'école !
La
romancière écrit large, généreusement, en voluptés
cascadantes, en sensations coruscantes, se réincarnant à chaque page en
insecte
éphémère qui meurt à l'aube, en fruit juteux, en femme agenouillée dans
les
rizières, en soldat perdu dans les brûlures de la guerre entre Laos et
montagnes vertes, fantômes du passé et illusions du présent.
Jamais
ne
la quitte l'appétit du détail charnel, sensualisme
soudain qui caresse ou cingle : « Sa peau scintille dans la lumière des
chandelles, blanche comme le lard gelé ou la coquille des oeufs. Il a
la peau
de Miên. Peut-être aussi celle
de son père, le mari de Miên depuis plus de sept ans. »
L'intrigue en
est
simple. Le Hameau de la montagne, rizières plantées, maisons de bois,
vérandas
sur la forêt, vit un étrange retour : celui du soldat Bôn, donné pour
mort,
héros du pays, qui s'en revient chez lui s'unir à nouveau à Miên, sa
femme
légitime. Décharné, puant, sans ressources, impuissant, Bôn découvre
que Miên
s'est remariée en toute innocence avec Hoan, marchand des villes, bien
plus
riche et séduisant que lui. Qui a raison ? Qui commande ? L'honneur ou
l'amour,
la patrie ou les sens ? A qui être fidèle jusqu'au sacrifice ultime de
soi ?
La
romancière anime un théâtre où jouent les masques colorés
du Vietnam ancestral, joie, souffrance, honneur bafoué, maternité
triomphante,
personnages rusés des villes ou victimes minuscules de l'Histoire.
Telle une
dramaturge, elle alterne les scènes d'un comique solide avec les larmes
d'une
tragédie populaire, elle oppose les campagnes et les villes, les
corrupteurs et
les corrompus. Nous allons vite d'une condition à l'autre.
Terre
des
oublis, qui est son sixième roman publié en
français, descend si loin dans la profondeur blessée des caractères
humains
qu'on suppose que Duong Thu Huong, à l'école des baïonnettes et des
slogans, de
la prison et de la privation, a connu et éprouvé le spectre si intense
des
sensations ici déployées. Elle donne même la recette paysanne pour
survivre à
une nuit d'amour intense. Un café noir et quelques grains de sel. On
lui
pardonne tout.
Le
Figaro
16 Février
2006
|