Imre
Kertész : "Nát tan trong lòng với giới hạn của
ngôn ngữ"
Tài
liệu do Florence Noiville thu thập
Le
Monde 11.07.05
Đây
là lần đầu tiên ông tiếp ký giả tại nhà ông ở Berlin. Cách đây vài năm
ông rời Budapest
để định cư ở thủ đô của Đệ Tam Reich. Bây giờ ông trả lời bằng tiếng
Đức. Có
phải đây là chuyện ngược đời đối với một người mà lúc 15 tuổi đã bị
giam ở
Auschwitz và toàn bộ tác phẩm mang dấn ấn của kinh nghiệm tập trung này?
Berlin,
đúng là quê hương nuôi tôi. Nghe thì lạ kỳ nhưng tôi chưa bao giờ xem
Shoah như
hệ quả của mối thù không chữa lành được của người Đức đối với người Do
Thái.
Nếu không, làm sao giải thích được sự việc độc giả Đức quan tâm đến các
sách
của tôi? Chính tại Đức mà tôi mới đích thực là nhà văn. Không phải
trong cái nghĩa
được danh tiếng nhưng chính ở Đức sách vở của tôi mới phát huy hết ấn
tượng
đích thực của nó. Còn về ngôn ngữ Đức thì đó là thứ tiếng chính thức ở
các
trường học Hung. Tôi đọc bằng tiếng Đức các tác phẩm chưa được dịch ra
tiếng
Hung. Tôi dịch Nietzsche, Hoffmanstahl, Schnitzler... – và tôi không
thể nào
cho rằng ngôn ngữ của Arthur Schnitzler và của Joseph Roth là ngôn ngữ
của
những người Nazi. Đối với tôi, ngôn ngữ Đức là ngôn ngữ của những tư
tưởng gia
chứ không phải ngôn ngữ của những tên đao phủ.
Sự
đón tiếp của độc giả Đức như thế nào?
Ở
Hung tôi chỉ có một nhóm độc giả trung thành. Ở Đức là nơi
mà lần đầu tiên tôi cảm nhận một nhà văn có thể gây ảnh hưởng lớn đến
như thế
nào. Tôi thuộc vào thế hệ cuối cùng của những người sống sót – những
người dưới
15 tuổi thời Auschwitz -, và tôi nhận rất nhiều thư của những người Đức
trẻ
tuổi, họ cám ơn tôi đã “giải thích” cho họ hiểu một cách rõ ràng và
trực tiếp.
Nước
Đức đã tự vấn mình rất nhiều về vấn đề này trong khi ở
Hung chủ đề này vẫn còn cấm kỵ. Năm 1961, khi tôi bắt đầu tìm kiếm tài
liệu về
Shoah [một thuật ngữ chỉ Lò Thiêu], tôi chẳng tìm thấy gì. Dù đó là năm
bắt đầu vụ án Eichmann, báo
chí Hung
chỉ đăng sơ sài nhưng nhờ có đăng sơ sài mà tôi biết được có một quyển
sách
viết về vụ án. Sách do bà Hannah Arendt viết mà hồi đó tôi không biết
đến cả
cái tên. Tôi lùng khắp nơi nhưng không thể tìm ở Budapest. Tôi chờ đến lúc bức tường Berlin sụp đổ
mới đọc
được quyển Eichmann ở Jérusalem.
Ông
vừa chuyển chuyện Không Số Kiếp lên
màn ảnh do Lajos
Koltai nhà đạo diễn người Hung thực hiện. Làm sao ông có thể chuyển
quyển tiểu
thuyết có tính phân tích và cách biệt như thế?
Tôi
để mười lăm năm để viết Không Số Kiếp.
Như thế quyển
tiểu thuyết và kịch phim không thể so sánh được nhưng có một địa tầng
lãng mạn
có thể đem lên màn ảnh: hình ảnh một chú bé tuổi vị thành niên bị tước
đoạt một
cách có hệ thống cái nhân cách vừa tược mầm.
Mặt
khác tựa của quyển sách là hệ quả luân lý của Shoah. Là
trạng thái khi mình bị rơi vào nơi mà người ta tịch thu ngay cả cái ý
tưởng
mình có về chính đời sống của mình. Một trạng thái mà mình bị cấm đoán
không
được trực diện với mình. Cái khó khăn của quyển tiểu thuyết là sáng tạo
ra một
ngôn ngữ nối cho được các khái niệm này và mở ra cho thấy một cuộc đời
bị khóa
chặt.
Làm
sao ông sáng tạo loại ngôn ngữ này? Có dư luận nói ông
viết để làm “thương tổn” độc giả?
Viết
về Shoah thì không thể nào không làm thương tổn, bởi vì
mình đem gánh nặng để lên vai độc giả. Như vậy các chữ phải có một kết
quả,
theo nghĩa « Kết Quả - Wirkung » phải thấm vào da thịt. Nhưng cùng một
lúc thì
đó là chuyện ngược đời. Quyển tiểu thuyết mình đang viết phải làm “vui
lòng”
độc giả để họ còn muốn lật qua trang khác. Đó là cái bẫy mà mình phải
làm sao
để con mồi lọt bẫy. Nếu tôi quá hung ác hay bỉ ổi thì tôi sẽ không có
được kết
quả như tôi mong muốn.
Nhưng
mãi về sau này tôi mới có một suy nghĩ. Đương nhiên là
tôi chưa có suy nghĩ này khi tôi viết
Không Số Kiếp. Không mảy may. Cái làm tôi
ám ảnh là tránh không viết văn chương hoa hòe. Tôi nghĩ đến tấm bạt bao
phủ mấy
cái bàn trong các tiệm sách ở Hung – một tấm vải thô tháp dùng lót các
loại
sách mà độc giả có thể bỏ ra vài đồng để mua năm, mười quyển sách. Tôi
muốn tìm
cái hạt bông trong thớ vải, một cái gì thô tháp trong các truyện bình
dân hay
trinh thám. Muốn làm được như vậy phải đem các chi tiết nhỏ lên hàng
đầu: đứng
trước viên chức mặc đồng phục, nhân vật kể chuyện của tôi chỉ nghĩ đến
con rệp
đang làm anh ta ngứa ngáy. Đó cũng là
một cách nói lên cái không thể viết được với những phương tiện thuần lý
của thế
giới này.
Khiếu
thưởng thức âm nhạc của ông có tạo lên một ảnh hưởng
trên cách ông dựng lại ngôn ngữ của ông?
Đúng
vậy. Trước khi viết lúc nào tôi cũng nghe nhạc. Bây giờ
tôi đang nghe Haydn và Mozart. Lúc viết Không Số Kiếp, tôi bị loại nhạc vô
điệu
thức của Berg, Schoenberg chiếm hết tâm trí. Một cách nào đó, tôi muốn
tạo ra
một ngôn ngữ không âm điệu. Không âm điệu, là ở ngoài sự thỏa thuận của
đám
đông. Không còn ré trưởng, mi bémol thứ. Không âm điệu là loại bỏ, như
loại bỏ
các giá trị của xã hội. Âm trầm cũng bị bỏ luôn, có nghĩa là cái nền
đất mình
đi cũng không còn dính vào đất, cái nền, cái trụ cho hành động cũng bị
biến
mất. Các khái niệm như danh dự, hạnh phúc trở nên lố lăng. Tất cả đều
xoay vòng
vòng, không có gì chắc chắn. Đứng trên bình diện ngôn ngữ, đó là những
gì tôi
nghĩ tôi đã tạo ra trong quyển Không
Số Kiếp. Sau đó tôi còn tiếp tục dùng các
khám phá này. Trong quyển Kinh Cầu
Hồn Cho Em Bé Không Sinh Ra - Kaddish pour
l'enfant qui ne naitra pas, nhãn quan này cũng không đánh mất :
là một người
đang lên tiếng, một người biết rõ luật của cuộc sống, ông ta chỉ phạm
một lỗi
lầm, ông yêu.
Ông
thấy ông ở đâu trong tương quan với các tác giả viết về
thế giới của các trại tập trung?
Tôi
ghét các bức tranh vẽ cảnh khủng khiếp. Cái làm tôi quan
tâm, đó là khoảng cách. Ngôn ngữ có giới hạn và các giới hạn này thì
không vượt
qua được. Như thế phải bứt các giới hạn này từ bên trong. Tôi thán phục
các tác
giả đã thành công khi phối hợp các phương tiện của văn chương để vượt
qua các
giới hạn này. Mới đây tôi đọc lại Đau
Đớn - La Douleur, của Marguerite
Duras : chẳng có gì là phi thường
nhưng lại diễn đạt được cái mà bà Duras gọi là “mất trật tự dị thường
của tư
tưởng và tình cảm.” Cảnh người đàn bà gặp lại ông chồng vừa thoát khỏi
trại tập
trung “Hai chân của ông đong đưa như hai cái nạng trong ống quần.” “Khi
trời
nắng, người ta thấy ánh nắng qua bàn tay ông.”
Ông
bắt đầu ăn. Cái đói đóng một vai trò khủng khiếp. Người
ta thấy người đàn bà đứng ở cánh cửa phòng khách nhìn ông, và độc giả
cảm thấy
bà trở nên xa lạ với người đàn ông này. Quan sát những hành động nhỏ
nhất của
ngày hôm đó thì đầy cả những chuyện ngạc nhiên. Tôi có thể kể câu
chuyện của
Tadeusz Borowski, một người Ba Lan bị đưa vào Auschwitz rồi vào Dachau. Sau khi
được
phóng thích, ông viết những truyện ngắn trong quyển Thế Giới Của Đá - Le Monde
de pierre. Phong cách viết khách quan một cách cay độc của ông
làm tôi nghĩ đến
Mérimée. Nhưng đối với tôi, người lớn nhất, văn sĩ lớn nhất viết về
trại tập
trung vẫn là Jean Améry.
Không
phải Primo Levi ?
Tôi
không thấy ông ta tận căn cho đủ. Ông vẫn
ở trong truyền thống nhân văn, mà
nhân văn này bị kinh nghiệm Shoah tiêu hủy. Tôi đã nói nhiều lần là Jean Améry – với quyển Vượt Quá Tội Ác Và
Hình Phạt - Khảo luận để vượt lên cái không thể vượt được - Par-delà le
crime
et le châtiment. Essai pour surmonter l'insurmontable, Actes
Sud, 1995 - là “vị
thánh của Holocauste”. Đó là một nhân vật tột cùng. Ông đi đến cái tột
cùng,
không tự che đậy, biết rằng tất cả những điều này sẽ phải trả giá bằng
cuộc tự
sát.
Trong
Lá Cờ Anh Quốc - Dans Le
Drapeau anglais, ông nói đến
cuộc tấn công bằng xe tăng của quân đội xô-viết, đến cuộc nổi dậy ở Budapest năm
1956. Lúc đó
ông là ký giả...
Tôi
đơn độc khi từ trại tập trung đi về. Ở Budapest, tôi muốn đi xe buýt và
người ta bắt
tôi trả tiền vé. Căn hộ của cha mẹ tôi đã bị chiếm đóng. Thật là lạ
lùng, vì
tôi còn nhỏ nên tôi phải đến trường, nếu có thể nói thì lúc đó tôi đã
có một
vài kinh nghiệm về cuộc đời...
Kế
đó là qua giai đoạn chế độ độc tài của Stalin. Tôi là ký
giả trong vòng hai năm, nhưng vì tôi không thể nào viết theo lệnh nên
cuối cùng
người ta đuổi tôi. Và thế là tôi quyết định làm nhà văn. Không phải nhà
văn
chính thức nhưng là người lén lút viết: người đi từ chế độ Nazi qua chế
độ
Stalin, người tích trữ đủ dữ liệu sát gốc về chế độ độc tài để chuyển
qua trải
nghiệm văn chương.
Ở
đâu mà có cái khoảng cách mỉa mai cay độc, cái bề ngoài
dửng dưng toát ra trong toàn bộ tác phẩm của ông?
Tôi
ảnh hưởng nhiều, ở Camus. Đối với tôi, cái gương to
lớn của cái “khoảng cách” mà ông đề cập đến là ở trong quyển Người Xa Lạ -
L'Etranger. Năm 25 tuổi, quyển sách nho nhỏ này rơi vào tay
tôi. Tôi nghĩ sách
mỏng thì rẻ. Tôi không biết tác giả là ai và tôi cũng không có chút
nghi ngờ
nào lời văn trong quyển sách này sẽ mãi trong đầu tôi. Ở Hung, Người Xa Lạ -
L'Etranger được dịch thành
“Người dửng dưng” « L'Indifférent ». Dửng dưng trong
nghĩa tách rời – tách rời khỏi thế giới này, tách rời với chính mình.
Nhưng
cũng trong nghĩa vượt qua, có nghĩa là thành một người tự do.
Một
con người tự do nhưng ở trong cái lồng của thư lại, của
phi lý, đó là những gì ông mô tả trong “Án Tòa - Le Procès-verbal” làm
cho độc
giả liên tưởng đến thế giới của Kafka. Ông có thấy ông gần với những gì
Kundera
gọi là “Vòm Sao Pleiade" của các tiểu thuyết gia Trung Âu”, Kafka, Musil, Broch, Gombrowicz... ?
Đương
nhiên. Tất cả kinh nghiệm văn chương đều dính đến địa
lý Áo-Hung. Phần tôi, dứt khoát tôi đọc Kafka một cách khác hẳn người
phương
Tây. Đối với tôi, Kafka là típ thực tế của Mitteleuropa – Trung Âu.
Nhìn
xem trong quyển Lâu Đài - Château,
lâu đài và quán trọ
mà các công chức và người giúp việc đến làm việc. Ngay những trang đầu
tiên,
lâu đài đã có ở đó, không nghi ngờ gì nữa, nó ở đó – dù cho những người
còn lại
như bị chìm nghỉm vào một trong ba hố thẳm khổng lỗ của
Kafka. Người ta không cảm thấy gì, cả cảnh
sát, cả lực đàn áp cũng không làm gì để ngăn thiên hạ đến đó. Dù vậy,
mấy người
ở đó vẫn bàn cãi không dứt để biết xem họ có quyền đến đó hay không. Đó
là tình
trạng tiêu biểu ở Đông Âu: một mặt là quyền lực không nắm bắt được,
khôi hài,
lờ đờ, không dò tìm được; mặt kia là hèn nhát, đồng bộ, thảm kịch thô
kệch và
lố lăng đóng khung con người lại. Chẳng phải không có lý do mà độc giả
của
Kafka ôm bụng cười khi đọc tác phẩm của ông. Cái thiên tài của ông là
ông làm
cho độc giả phương Tây tưởng họ đọc những bài viết siêu hình ở dưới
nhiều khía
cạnh nhưng sự thật là ông viết lên một cách tận căn cái cốt tủy tầm
nhìn của
ông về Đông Âu.
Còn
ông, ông có ở trong truyền thống này không ?
Trong
Thải Hết - Liquidation,
nhân vật chính của tôi trình
bày “ý tưởng căn bản” theo đó “cái ác là nguyên tắc của đời sống.” Đã
đành đó
là lời nhân vật của tôi nói, nhưng có thể đó là câu nói chua chát và
sáng suốt
nhất chưa bao giờ được viết lên. Không những cái ác là nguyên tắc của
đời sống
mà cái thiện mới đích thực là cái không hợp lý. Tôi lúc nào cũng có cái
nhìn
như thế về thế giới. Ông sẽ nói tôi bi quan không thuốc chữa. Nhưng ông
có biết
câu nói đùa ngày xưa ở Đông-Âu về cái khác biệt giữa lạc quan và bi
quan không?
Câu trả lời chỉ có một: người bi quan là người biết mọi chuyện rõ ràng
hơn, thế
thôi.
LN dịch
Jean
Améry
From Wikipedia, the free encyclopedia.
Jean
Améry (October 21, 1912 - October 17, 1978) was an
Austrian of Jewish descent. He was born in Vienna, Austria
as Hans Maier. He lived in Hohenems, a small resort city in the state
of
Vorarlberg.
He
later moved to Belgium
to escape the Nazis. When
they invaded that country, he became active in the resistance. He was
captured
and imprisoned, first in Auschwitz, Buchenwald and then to Bergen-Belsen
before being liberated by the advancing Red Army in 1945.
After
the war, he changed his name to Jean Améry (a French
anagram of his given name) and refused to write in German for many
years.
Published Works
At the Mind's
Limits: Contemplations by a Survivor On
Auschwitz and Its Realities, Indiana
University Press.
|