Sau Auschwitz, người ta chỉ có thể
viết tiểu thuyết giả tưởng
François
Busnel trao đổi với Imre
Kertész
Lire,
04-2005
Khắp nơi trên thế
giới kỷ niệm ngày giải phóng các trại tập
trung, nhân dịp này thiết nghĩ chúng ta cần đọc lại lời chứng hùng hồn
và cao
đẹp của nhà văn Hung Imre Kertész, giải Nobel văn chương năm 2002. Chỉ
mới có
sáu quyển tiểu thuyết của ông được dịch ra tiếng Pháp nhưng tác phẩm
của ông
làm cho độc giả khó chịu vì tính lạc quan thê thảm của nó. Dù kinh
hoàng, dù
chữ nghĩa bất lực không nói lên được điều muốn nói, Imre Kertész vẫn
đeo đuổi
ký ức của ông. Trong tác phẩm Lá Cờ Anh Quốc Le drapeau anglais, một
tuyển tập
ba chuyện tự sự, ông kể lại cuộc nổi dậy năm 1956 ở Budapest và cuộc
trấn áp
bằng xe tăng của lực lượng quân đội xô-viết, cuộc trở về của một người
ở cái
vùng mà mấy năm trước đây đã xảy ra những tội ác khủng khiếp và cuộc du
hành
tưởng như không có thực từ Budapest đến Vienne chỉ một thời gian ngắn
sau khi
bức tường Berlin sụp đổ. Ba câu chuyện này hòa vào nhau với những nghi
vấn
triết lý, với tìm tòi ngôn ngữ. Nhưng nhất là, ông tạo một khoảng cách
cần
thiết để là chứng nhân, để tìm một vóc dáng, hình thức cho quá khứ.
Kertész là
một tiểu
thuyết gia tầm cỡ lớn lao mà kiệt tác – Không Số Kiếp - Etre Sans
Destin vừa
được nhà đạo diễn Lajos Koltai (cựu phụ tá viên của nhà đạo diễn lớn
lao István
Szabó) thực hiện. Cuốn phim này - Kertész viết kịch phim – có thể cho
phép
chúng ta hiểu hơn một chút các câu, các ý mà khi quyển sách xuất hiện
đã làm
cho nhiều người choáng váng: «Trại tập trung, đó không phải là hỏa
ngục», «Nếu
có số phận, thì tự do là chuyện không thể có được.”
Bây giờ ông sống ở Berlin, ông không
còn sống ở Budapest,
nơi ông đã sống phần lớn cuộc đời, vì sao lại có chuyện lưu đày muộn
màng này?
Imre
Kertész. Đúng là
một cuộc lưu đày nhưng lưu đày tự nguyện, tôi chẳng có một tí gì bất
bình với
nước Hung. Hồi đó tôi thường đến Berlin và lúc nào tôi cũng thích những
giây
phút đã trải qua ở thành phố này. Năm 2001, tôi ở lại đây một thời gian
dài để
viết quyển tiểu thuyết cuối cùng Thải hết - Liquidation [1]. Lúc đó
Magda,
vợ tôi,
nghiệm ra tôi viết khá hơn khi ở Berlin.
Thế là tôi thuê một căn hộ ở đó. Tôi thích các thành phố lớn, nơi các
sắc dân
tứ xứ đến ở. Nhưng vì hồi đó tôi không có hộ chiếu nên tôi không thể
nào rời
Hung, ít nhất cho đến lúc chế độ cộng sản sụp đổ.
Còn thêm một lý do
khác: từ lâu tôi là dịch giả dịch tiếng
Đức ra tiếng Hung, dịch nhuyễn, nên trong một nghĩa nào đó, thiên hướng
văn
chương của tôi được sinh ra ở Berlin.
Trong cuộc đời tôi, ngôn ngữ Đức đóng vai trò người đưa đường. Như thế
định cư
ở Đức là chuyện đương nhiên. Nghĩ cho kỹ thì đây cũng là điều khả dĩ
chấp nhận
đối với rất nhiều văn sĩ. Cứ xem
Kierkegaard hay Tolstoi... Cũng như họ, rất nhiều văn sĩ khác được thế
giới đọc
đến nhờ tác phẩm của họ được dịch ra tiếng Đức. Trường hợp tôi cũng
vậy: tác
phẩm của tôi được thế giới bên ngoài đọc là cũng nhờ được dịch ra tiếng
Đức. Do
đó tôi biết ơn nước Đức.
Thật vậy sao? Dù ngày
xưa Berlin
là thủ đô của Đệ Tam Reich.
I.K. Tôi có nghĩ đến điều này. Thỉnh
thoảng. Đúng, thỉnh
thoảng khi đi dạo trên đường phố Berlin,
tôi nghĩ đến chế độ nazi, lúc đó tôi rất đau lòng. Có một nghịch lý và
tôi đồng
thuận với nó. Nhưng chính tại Đức mà lần đầu tiên tôi cảm nhận, trong
vai trò
nhà văn tôi có một phận sự quan trọng cần phải hoàn thành. Sau khi xuất
bản
sách, tôi nhận rất nhiều thư của độc giả Đức. Sự đón tiếp của độc giả
thật tuyệt,
đó cũng là một lý do phụ trội để tôi ở lại đây. Tôi rất tiếc không nói
được
tiếng Pháp vì tiếng Pháp là ngôn ngữ tiêu biểu của văn chương. Ông có ý
thức
được ông may mắn như thế nào khi ông là người Pháp không? Tiếng Pháp là
ngôn
ngữ tuyệt vời, ngôn ngữ đã sinh ra nhiều văn hào! Khổ thay tôi khám phá
nhà văn
Pháp qua tiếng Đức. Vào các năm 1940-1960, các tác phẩm Pháp chưa được
dịch ra
tiếng Hung vì thế phải học tiếng Đức để hiểu văn học thế giới.
Khi quyển Không Số
Kiếp xuất bản, người ta liệt ông vào loại
văn chương dám nói về các trại tập trung, bây giờ nước Hung có phản ứng
tốt hơn
cách đây ba mươi năm với các tác phẩm của ông không?
I.K. Năm 1975, khi tôi xuất bản Không
Số Kiếp, đúng là người
ta đón nhận nó một cách khủng khiếp. Tôi đã kể chuyện này trong quyển
Từ Chối -
Le refus, quyển thứ nhì, quyển mà tôi gọi một cách huênh hoang – bởi vì
một ký
giả gợi ý cho tôi – bộ bốn tập Không Số Kiếp - Etre sans destin [2].
Vào
thời buổi
đó, vấn đề trại tập trung vẫn còn là vấn đề cấm kỵ. Năm 1961 khi bắt
đầu viết
Không Số Kiếp, tôi tìm kiếm tài liệu về Holocauste bởi vì tôi không
muốn dựa
trên kinh nghiệm riêng của tôi, tôi không tìm thấy gì. Ông cứ thử nghĩ
xem, năm
1961 khi xử vụ Adolf Eichmann ở Jérusalem - Adolf Eichmann là người
điều hành trại Auschwitz - báo chỉ
Hung chỉ đăng lướt qua! Và
tôi khám
phá ra trong một mục nhỏ đăng lướt tin có một bà viết sách về vụ án
này. Đó là
bà Hannah Arendt. Lúc đó tôi đi tìm quyển sách nhưng không có; sách
chưa dịch
ra tiếng Hung và cũng không tìm ra ở một ngôn ngữ nào khác. Tôi chờ bức
tường Berlin
sụp đổ để đọc
quyển sách viết về vụ án Eichmann ở Jérusalem... Năm 1975, não trạng
người dân
cũng chưa tiến hóa mấy về vấn đề này. Nhưng tôi không thể trả lời câu
hỏi này
một cách hiển nhiên, trong sáng và rõ ràng...
Cách đây ba năm, khi ông nhận giải Nobel văn chương, ở Hung
đã nảy ra một cuộc tranh luận. Ông có bị tổn thương vì một vài đụng
chạm không?
I.K. Có những đụng chạm mạnh từ giới
trí thức. Còn những
người không ở trong giới này thì họ coi giải Nobel này như nước Hung
được
huy
chương vàng Thế Vận... Tôi cảm thấy đau lòng khi nghĩ lại cuộc tranh
luận này.
Nhưng tôi nhìn vấn đề ở khía cạnh tích cực: tôi là một nhà văn riêng tư
của một
thiểu số độc giả, sau giải Nobel sách tôi bán được 400 000 ấn bản, đó
là con số
đáng kể ở một nước như nước Hung.
Hình như ông tiếc cái
thời chưa được biết đến...
I.K. Tôi chỉ có một ít độc giả trung
thành nhưng họ đọc kỹ
các sách của tôi... Cũng đau lòng. Bây giờ sau khi được giải, lại có
phim của
Lajos Koltai, Fateless: trong ba tuần có 200 000 người xem. Đứng về mặt
con số,
có nghĩa là việc phát hành các tác phẩm của tôi, có đủ để tôi sung
sướng không?
Ông có vẻ hài lòng...
I.K. Phải hài lòng, đương nhiên.
Sau ba mươi năm, tại
sao ông muốn
chính ông chuyển tác Không
Số Kiếp?
I.K. Hồi mới đầu tôi không muốn người
ta làm phim từ tiểu
thuyết của tôi. Từ lâu, tôi chống đối tất cả mọi hình thức chuyển tác.
Nhưng có
những sự kiện xảy ra mà theo đó tôi không thể cưỡng lại. Tôi nhanh
chóng hiểu
ra quyển sách của tôi không còn thuộc về tôi, tôi không thể chận tôi
được, tôi
không có quyền không bán tác phẩm mình cho các nhà sản xuất phim. Một
kịch bản
gia viết kịch bản và đưa tôi duyệt. Kịch bản không đúng như trí tưởng
tượng của
tôi. Anh ta không hiểu gì về ý đồ văn chương của tôi, có nghĩa là vấn
đề thời
gian, là nghi vấn căn bản trong tiến trình phát triển của nhân vật, một
chú bé
bị bắt, bị đem đến sống trong trại tập trung. Dưới ngòi bút của anh ta,
tiểu
thuyết của tôi là câu chuyện của một vĩ cầm giàu có gia sống ở New York, một ngày đẹp trời anh ta về lại Budapest và nhớ
lại, bằng
flash-back, những gì anh sống ở đây năm mươi năm về trước. Kịch bản này
không
thể chấp nhận được bởi vì tất cả quyển sách của tôi dựa trên nét thẳng
một mạch
của câu chuyện. Dần dần tôi kết bạn với đạo diễn, anh là người từng hợp
tác với
nhà đạo diễn István Szabó. Cuối cùng chính anh đề nghị tôi chuyển tác.
Anh đã
hiểu, vấn đề căn bản mà quyển Không Số Kiếp đặt ra là: thời gian thuộc
về ai?
Trong câu chuyện này, thời gian không thuộc về một nhân vật nào mà
thuộc về
những tên đao phủ. Mặt khác phải chấp nhận phim khác với tiểu thuyết.
Theo tôi,
sức mạnh của sách là ngôn ngữ. Tôi mất mười lăm năm để viết quyển này,
một cách
nào đó các sự kiện xảy ra phải phù với những gì tôi đã sống trong trại
tập
trung, và ít nhất tôi cần một thời gian khá đặc biệt để kể câu chuyện.
Vì thế
công việc này rất lâu. Ngôn ngữ tạo nên một khoảng cách đối với các sự
kiện, và
đối với tôi, đó là điều tối cần để kể câu chuyện này. Còn phim ảnh thì
ngược
lại, tất cả phải thể hiện: từng cảnh, từng màu phải thể hiện qua hình
ảnh và âm
nhạc, như thế nó có nguy cơ làm biến dạng những gì tôi viết trong quyển
tiểu
thuyết này. Chính vì vậy mà tôi chấp nhận: để thử làm một cái gì khác
nhưng
không loại bỏ công việc đã được ngôn ngữ làm xong về thời gian tính. Từ
bản văn
qua bản phim, chắc chắn đó là một chuyện khác. Và tôi còn muốn làm một
chủ đề
về vấn đề mất nhân cách: làm sao cuốn phim vạch cho thấy một đứa bé
mười bốn
tuổi đã dần dần mất cái nhân cách vừa tược mầm khi nó sống trong trại
tập
trung. Khi ngồi viết kịch bản, tôi nhớ thêm những sự kiện tôi đã sống.
Như thế nào?
I.K. Nhà văn có một quan hệ với thực
tế khác với người không
phải là văn sĩ. Thực tế như tiến trình tiêu hóa: tôi nuốt vào một chất,
tôi
biến nó ra chất khác, trong trường hợp này là quyển Không Số Kiếp. Sau
khi xuất
bản, tôi không còn nghĩ nhiều về kinh nghiệm trong trại tập trung: nó
trở thành
nhân vật của tôi. Tốt thôi, cũng một tiến trình như thế với chuyển tác:
khi
viết kịch bản, ba mươi năm sau khi viết quyển tiểu thuyết, chính tôi
lại được
chuyển hóa và từ nay thực tế này giống như thực tế của quyển tiểu
thuyết, dưới
mắt tôi nó thể hiện một mạch những gì tôi đã sống. Nhưng viết kịch bản
không
làm tôi xúc động như khi viết tiểu thuyết. Không khó bằng. Tôi làm xong
công
việc này một cách nghề nghiệp, không vướng bận tình cảm: tôi cố gắng
chuyển tải
cái dấu hỏi tận căn và ý nghĩa sâu xa từ quyển tiểu thuyết qua cuốn
phim. (j'ai
essayé de transformer le questionnement fondamental et le sens profond
d'un
roman en un film). Nhưng tôi đụng phải một vấn đề khác, đó là viết cuốn
phim
sau kinh nghiệm Shoah, của Claude Lanzmann.
Vấn đề đó như thế nào?
I.K. Shoah làm chúng ta đối diện với
tính xác thực. Trên
phương diện tài liệu, đây là một lâu đài phim ảnh khổng lồ. Trong cuốn
phim
kiệt tác này, có một thỏa thuận ngầm là không chiếu lên hình ảnh một
trại tập
trung nào. Không bao giờ. Từ sau kinh nghiệm Shoah, một vấn đề lớn lao:
nên hay
không nên cho thấy những cảnh trong trại tập trung? Chúng tôi không
muốn làm
một cuốn phim về Holocauste. Người ta đã làm và có những phim rất dở.
Không,
cuốn phim này phải trung thực với quyển sách trong phạm vi đây là đường
đi một
mạch của một tâm hồn đã sống trong trại trại tập trung, trong một khúc
đoạn
cuộc đời. Trước đó đã có những phim khác: Danh sách của Schindler - La
liste de
Schindler, của Steven Spielberg, mà dưới mắt tôi là
cuốn phim quá dở vì nó chiếu cảnh
Holocauste; hoặc, ngược lại, cuốn phim Cuộc Đời Vẫn Đẹp - La vie est
belle, của
Roberto Benigni, mà tôi thấy rất hay. Nhưng Benigni thuộc về một thế hệ
khác,
thế hệ không biết trại tập trung. Còn tôi, tôi thuộc về thế hệ cuối
cùng của
những người sống sót, thế hệ của những người lúc mười bốn tuổi đã bị
đưa vào
trại và tôi quyết định phải kể lại những gì đã xảy ra trong trại tập
trung.
Nhưng cuốn phim của Cuộc Đời Vẫn Đẹp
của Benigni đã tạo nên
một cuộc tranh cãi lớn lao khi nó ra mắt: rất nhiều người bực mình và
tố cáo
tính cách hưởng lạc ngây ngô của cuốn phim, rất xa thực tế của trại tập
trung.
Vậy mà cái nhìn của Benigni lại không xa cái nhìn của ông, ông từng bị
đưa vào
trại, biết thực tế của trại...
I.K. Đúng, cuộc tranh cãi lan đến nước
Đức và nước Hung.
Thật dữ dội. Vào thời đó, tôi có viết một bài dài về cuốn phim này nhan
đề: «Auschwitz thuộc về ai?» Những
người chê bai đặt câu hỏi
về cuốn phim: người ta có quyền thích một cuốn phim hay không? Đương
nhiên có!
Có những người đặt câu hỏi người ta có quyền dùng tính hài hước và hình
thức
chuyện cổ tích để nói về Holocauste không? Thêm một lần nữa câu trả lời
là: có,
đương nhiên! Khái niệm luật chơi là khái niệm chính trong đời sống hàng
ngày ở
trại tập trung. Và trong cảnh cuối cùng, khi Benigni dùng chữ “chiến
thắng,”
người ta thấy được trên thực tế đó là chiến bại. Chuyện phi lý là xem
sống còn
như một chiến thắng, đó là điều Spielberg làm trong cuốn phim Danh Sách
của
Schindler.
Dựa trên cái gì mà ông cho rằng sống
còn sau trại tập trung
không phải là một chiến thắng?
I.K. Người ta không bao giờ sống còn
được sau khi đã sống
trong trại tập trung. Trại tập trung lúc nào cũng hiện diện trong tâm
tưởng. Để
sống còn sau trại tập trung, phải băng ngang hỏa ngục. Vào hỏa ngục,
mình bẩn
theo! Những người ngây thơ vô tội đích thực là những người chết. Chính
vì thế
tôi cho Spielberg có một cái nhìn quá giản lược về lịch sử khi ông
trình chiếu
những người sống sót là những người chiến thắng. Thật phi lý. Không có
một chiến
thắng nào khả dĩ có thể có được trong hệ thống chủ nghĩa tập trung. Nơi
Benigni, chữ “chiến thắng” được một người lớn biết mình thua cuộc nói
lên.
Ông thấy ông đứng ở đâu so với các
chuyện do Elie Wiesel hay
Primo Levi kể?
I.K. Chỉ vừa mới gần đây tôi mới được
đọc Đêm Đen - La nuit,
của Elie Wiesel, bởi vì vào năm 1960, quyển sách này không có ở Hung.
Tôi
choáng váng khi đọc: tôi khám phá hóa ra lúc đó chúng tôi cùng ở
Buchenwald.
Wiesel để lại trong lòng tôi rất nhiều ấn tượng. Còn Primo Levi thì
khác. Ông
ta chưa tận căn cho đủ. Tôi muốn nói ông không bao giờ rời tầm nhìn
nhân văn
của sự việc mà đối với tôi điều này thật hoàn toàn xa lạ. Với tôi, kiệt
nhân của trại tập trung là văn sĩ người Pháp:
Jean
Améry [3]. Ông ta mới là người đi rất xa, nhất là trong quyển Vượt quá
tội
ác và
hình phạt - Par-delà le crime et le châtiment. Tuyệt đối phải đọc các
bài trao
đổi giữa ông và Primo Levi: Améry nói đến cái thiết yếu. Chưa ai đi xa
hơn ông
trong cách suy nghĩ về chế độ tập trung chủ nghĩa.
Chính ra, cách suy
nghĩ về chế độ tập
trung chủ nghĩa của
ông đôi khi cũng làm cho người ta chưng hửng. Ông muốn nói gì khi ông
viết “
trại tập trung không phải là hỏa ngục”có nghĩa là có một loại hạnh phúc
trong
trại hay sao?
I.K. Nghịch lý là một phần của huyền
thoại về Holocauste.
Khi người kể chuyện nói về hạnh phúc, độc giả không thể nào hiểu được
đó là
loại hạnh phúc mà độc giả có thể biết. Nhưng có một loại hạnh phúc
trong trại,
đúng, có: khi chúng tôi cảm nhận sức nóng của mặt trời, khi hừng đông
lóe ra
trong trại... Đó là loại hạnh phúc bất động: được phép nằm dài, không
bị đánh,
được phép ăn, không cảm thấy đói khát, lâng lâng vì nhớ lại một kỷ niệm
khi còn
ở nhà. Cứ mỗi lần cái hệ thống dựa trên sự triệt lẻ từng cá nhân nghỉ
xả hơi
thì tôi cảm thấy “hạnh phúc.” Và tôi cũng cảm thấy hạnh phúc khi tôi
suy nghĩ
thật hung để cảm thấy mình gần cái chết hơn cái
sống: trong những giây phút đó, bạn quên tất cả
những gì ở chung
quanh bạn, kể cả bọn SS, chỉ còn bạn với cái chết, diện trực diện. Đó
là vấn
đề. Vừa khủng khiếp mà vừa hạnh phúc. Nhưng cái hạnh phúc này còn tệ
hơn tất cả
các bất hạnh và đó là điều tôi muốn độc giả thấy qua các cảnh trong
tiểu thuyết
của tôi. Có thể rất tệ hại khi nói mình cảm nhận hạnh phúc thay vì tả
chi tiết
các cảnh khủng khiếp xảy ra trong trại. Cái chữ “hạnh phúc” là chủ đề
cho câu
hỏi hiện ra trong trí khi tự hỏi về trại. Phim ảnh có thể cho thấy cái
“hạnh
phúc” này rõ hơn là tài liệu: khi nhìn hình ảnh tài liệu, người ta có
thể khựng
lại vì hình ảnh quá khủng khiếp và hung ác. Nhưng trong phim, người ta
sống
theo nhân vật và vì thế người ta dễ bị cuốn hút theo. Lajos Koltai
không tìm
cách để khỏa lấp: ông cho dựng lại Buchenwald ở Hung và để nét đẹp của thiên nhiên
bao la có
một chỗ lớn chung quanh trại, ông không bao giờ tìm cách che lấp cái
hung bạo
của đời sống hàng ngày ở trại. Điều đó nêu bật cái phi lý của cảm nhận
“hạnh
phúc.” Tôi nói thêm ở đây cảm nhận “hạnh phúc” được đưa lên màn ảnh làm
cho
cuốn phim không rơi vào tình cảm cải lương như cuốn Danh Sách của
Schindler của
Spielberg chẳng hạn. Nhưng cũng phải nhớ các chữ dùng trong tiểu thuyết
thật sự
không nói lên cùng sự việc như thường ngày xảy ra.
Ông muốn nói gì về chuyện này?
I.K. Lấy ví dụ chữ “hạnh phúc” trong
quyển Không Số Kiếp:
chữ này dùng ở đây như một hình thức phản kháng. Ngay từ đầu, sự xuất
hiện của
nó đã được trù định trước, dần dần nó nổ ra như một xì-căng-đan. So với
sự sống
còn, vào cuối phim của Spielberg người ta thấy hình ảnh những người
sống sót đi
trong ánh sáng, mặt hướng về tương lai. Điều này có thể đẹp khi người
ta sáng
chế lại trại tập trung. Nhưng không đẹp khi người ta biết cái giá mà
đương sự
phải trả để ra khỏi trại và để sống sót.
Chú bé Koves, có phải là Kertész? Nói
một cách khác, quyển
Không Số Kiếp có phải là một quyển tiểu sử?
I.K. Tiếng Hung, Koves có nghĩa “người
mà tính tình giống
đá». Đúng, đó chính là tôi. Nhưng trong nghĩa nào? Tôi cũng vậy, tôi là
Koves... một hòn đá. Nhưng tôi không phải là chú bé trong tiểu thuyết
cũng
không phải là chú bé trên màn ảnh.
Nhưng ông nói cuốn phim không giống
tiểu thuyết, tiểu
thuyết cũng khác với những gì ông đã sống ở Auschwitz.
Thực tế với những gì ông đã sống ở Auschwitz,
một ngày nào đó ai sẽ biết thực tế này khi tất cả những gì ông tạo ra
lại là
khác nhau.
I.K. không ai biết.
Tại sao?
I.K. Ngôn ngữ có giới hạn qua bản chất
riêng của nó. Và cái
giới hạn này thì không vượt qua được. Người nào muốn nói sự thật những
gì đã
xảy ra ở Auschwitz thì người ta sẽ
không hiểu.
Thêm nữa, người đó có nguy cơ cắt xén lịch sử. Trong cuốn phim của
Lanzmann,
Shoah xuất hiện như một nhân vật làm việc trong các Sonderkommandos.
Nhờ tài
năng của người phỏng vấn, anh kể một ít chuyện nhưng rồi anh thu mình
vào thinh
lặng, và trong cái thinh lặng này người ta cảm thấy cái vực thẳm mà
người ta
gọi là thực tế. Đối với tôi, viết một quyển tiểu thuyết hiện thực về Auschwitz là chuyện không thể làm được và tôi
mong không
bao giờ chuyện này trở thành một câu chuyện văn chương.
Vậy mà khi đọc sách
của ông, người ta
có cảm tưởng ông đối
nghịch với Adorno – rất tiêu biểu: sau Auschwitz,
thay vì phẫn nộ người ta không còn làm thơ nữa, hình như ông nói ngược
lại...
I.K. Đúng vậy, dứt khoát tôi chống lại
câu này của Adorno.
Sau Auschwitz, người ta chỉ còn viết truyện giả tưởng. Nhưng giả tưởng
có thực.
Adorno cũng không đi quá xa trong suy nghĩ của ông: làm sao người ta có
thể
tưởng tượng ra cho được nghệ thuật có thể làm giải khuây trước một biến
cố lịch
sử như vậy, một thảm họa như vậy? Mặt khác, sẽ là phi lý khi tưởng
tượng ra một
thi sĩ khi ông thấy cần phải viết về Auschwitz
mà lại không viết cho có thẩm mỹ. Auschwitz
cũng cần thẩm mỹ.
Loại thẩm mỹ nào?
I.K. Phải viết một tiểu thuyết làm độc
giả đau lòng. Viết
một lời chứng sống sượng là không thể được, bởi vì lúc nào cũng sai.
Viết tiểu
thuyết mà không làm độc giả đau lòng thì thật là xấu hổ. Phần tôi, tôi
hướng kỹ
thuật của tôi về mặt này. Tôi muốn tránh những cảnh xé lòng nhưng tôi
lại muốn
độc giả đau lòng.
Có nghĩa là một văn sĩ phải nhận trách
nhiệm mô tả các thảm
kịch của thế giới, viết những sự kiện xảy ra trong thời của mình?
I.K. Tôi không muốn tổng quát hóa. Đó
là câu hỏi mà mỗi văn
sĩ phải tự đặt cho mình và phải giải quyết với lương tâm, với tâm hồn
của mình.
Còn về phần tôi, tôi không có cảm tưởng phải gần vào một loại văn
chương nhập
cuộc nào đó. Viết lách là chuyện riêng tư. Tôi không viết để đứng về
phía nào,
dù phía thợ hay phía vua. Tôi không để ý đến mấy loại này và đối với
tôi, mấy
thứ này lúc nào cũng giả tạo. Tôi viết để thỏa nhu cầu của chính tôi
chứ không
làm phát ngôn viên cho bất cứ ai.
Lá Cờ Anh Quốc-Le drapeau anglais kể
chuyện cuộc nổi dậy năm
1956 ở Budapest
bị Liên-Xô đè bẹp. Ông sống những ngày tháng này như thế nào?
I.K. Cốt tủy của truyện này quả là xác
thực. Tôi thấy một
chiếc xe Jeep có lá cờ nước Anh trên mui xe. Tôi đang ở Trung Tâm Văn
Hóa Ý ở
Budapest, đối diện với đài phát thanh đang xảy ra biến cố quân đội.
Nhưng tôi
không muốn kể chuyện này khác hơn là cách tôi đã kể trong truyện ngắn,
có nghĩa
là không làm sống lại thực tế sự kiện mà tôi muốn viết một cách văn
chương. Tôi
mong ông đọc truyện ngắn này, rất ngắn. Qua câu chuyện này, tôi muốn
nói làm
sao cái cột sống của một dân tộc bị gãy đổ. Lúc nào cũng cố sức phủ
nhận mình.
Tất cả xảy ra như thử có một luật lệ buộc mình lúc nào cũng không trung
thực
với mình. Thế hệ mới bây giờ không làm sao hiểu một tiến trình như vậy
lại có
thể xảy ra.
Suốt dọc thế kỷ 20,
nước Hung đi từ
chế độ độc tài này đến
chế độ độc tài khác. Tương lai của xứ sở này sẽ như thế nào?
I.K. Đây là một vấn đề rất khó khăn.
Sau bốn mươi năm bị
Liên Bang Xô-Viết chiếm đóng, nước Hung đã bị đóng khung. Không những
bị chiếm
đóng quân sự mà cấu trúc xã hội cũng bị xáo trộn. Giới trưởng giả và
các truyền
thống bị triệt tận gốc hai lần, lần đầu vào những năm
1950. Cũng cùng một nguyên tắc với chế độ Nazi:
Goebbels đã nói: “Ai là người Do-thái? Chính tôi là người quyết
định!»,
những người Cộng sản đã nói: «Ai là người trưởng giả? Chính chúng tôi
là người
quyết định!» Kết quả của loại chính trị này là triệt bỏ tất cả truyền
thống kéo
theo “giai cấp trưởng giả”. Đó là một tai ương khủng khiếp: một xã hội
không
truyền thống, một xã hội quên tuốt mọi chuyện. Năm 1956, cuộc nổi dậy
có thể là
nền tảng cho một nền dân chủ mới. Sự thất bại là một thảm kịch mà nước
Hung khó
gượng dậy nổi, dù năm mươi năm sau. Bây giờ tôi thấy có rất nhiều dấu
hiệu ở
Hung, nhưng vì không có một khó khăn đích thực nào, không có một phe
đối lập
hợp pháp thì đối với tôi khó mà đi đến một nền dân chủ hoàn toàn.
Nghịch lý kế
tiếp: cần có kẻ thù để mình vực lên mà đứng dậy. Và rồi, việc nước Hung
vào
khối Âu Châu trong một giai đoạn mà khối Âu Châu cũng đang gặp khó
khăn: chiến
tranh vùng Balkans, cộng thêm biến cố 11-09 đã làm xáo trộn sự phân
chia, giai
đoạn này thật khó khăn. Nhưng cũng có một chuyện khác ngăn cản con
đường tiến
về chế độ dân chủ ở Hung, đó là hoài niệm nhớ nhung thời xưa, thời bao
cấp,
thời chẳng làm gì nhưng được Nhà Nước cho hết. Kết quả là người dân mất
tinh
thần trách nhiệm với chính mình. Các nhà độc tài lúc nào cũng giống
nhau: họ
vứt bỏ ý nghĩa của tinh thần trách nhiệm. Về lâu về dài, tôi vẫn lạc
quan nhưng
đường đi còn dài.
Giải Nobel có làm
cuộc đời ông thay
đổi?
I.K. Thay đổi tất cả và chẳng thay đổi
gì hết. Cái thật sự
thay đổi là lần đầu tiên người ta hỏi ý kiến tôi và người ta tìm tôi để
hỏi về
các sách của tôi! Nhưng tôi không thích những chuyện này vì chuyện này
không
làm cho việc viết lách thành dễ dàng. Khi nhận giải Nobel, tôi biết
mình có một
bổn phận với độc giả. Nhưng tôi thích viết một mình hơn. Viết cho xong
những gì
tôi đã khởi sự.
Trong tất cả các sách
của ông đều lóe
lên một hy vọng “chinh
phục lại cuộc sống”. Giải Nobel có giúp ông không?
I.K. Không, thật sự là không. Phải cần
cái khác, cái khác
này chẳng dính dáng gì đến giải thưởng.
Từ khi được giải Nobel, năm 2002, ông
chưa viết thêm gì.
(Thải hết - Liquidation được viết trước đó): ông viết cái gì bây giờ?
I.K. Một tiểu sử. Một tiểu sử thứ
thiệt! Tôi có thể nói cho
ông biết sẽ có hai quyển sách. Nhưng tôi viết rất chậm. Và tôi thích
giữ thinh
lặng.
Tài liệu do François
Busnel thu thập.
Martina Wachendorff dịch từ tiếng Đức.
1. Thải hết -
Liquidation, Actes Sud,
2004.
2. Bộ tứ Không Số Kiếp gồm: Không Số
Kiếp - Etre sans destin
(1975), Từ Chối - Le refus (1988), Kinh cầu hồn cho đứa trẻ chưa sinh -
Kaddish
pour l'enfant qui ne naitra pas (1990) và Ký sự về một ẩn dụ - Un
autre.
Chronique d'une métamorphose (1997) Actes Sud.
3. Vượt quá tội ác và hình phạt: Khảo
luận để vượt lên cái
không thể vượt được. Par-delà le crime et le châtiment. Essai pour
surmonter
l'insurmontable, Actes Sud, 1995.
Lan
Nguyễn dịch
Jean Améry
From Wikipedia, the free encyclopedia.
Jean Améry (October 21, 1912 - October
17, 1978) was an
Austrian of Jewish descent. He was born in Vienna, Austria
as Hans Maier. He lived in Hohenems, a small resort city in the state
of
Vorarlberg.
He later moved to Belgium
to escape the Nazis. When
they invaded that country, he became active in the resistance. He was
captured
and imprisoned, first in Auschwitz, Buchenwald and then to Bergen-Belsen
before being liberated by the advancing Red Army in 1945.
After the war, he changed his name to
Jean Améry (a French
anagram of his given name) and refused to write in German for many
years.
Published Works
At the Mind's Limits: Contemplations by a Survivor On
Auschwitz and Its Realities, Indiana University
Press.
|