Lucien
Goldmann
Giới
thiệu những bản viết đầu tay của Georges Lukacs
Lời
người dịch: Những bài viết như được dịch sau đây (1),
thực sự phải nằm trong một chuyên san, hơn là trên tạp chí văn học.
Nhưng nếu
thế, là vô tình gạt bỏ những độc giả muốn cố gắng nắm bắt những tư
tưởng chủ
yếu, quan trọng của thế kỷ chúng ta.
Trong
ước muốn "cùng đi lên", chúng tôi cống hiến
nó ở đây, như một cách ép buộc cùng đọc, cùng "đau đầu".
Có
thể có người cho rằng những tư tưởng gia Mác-xít như L.
Goldmann, G. Lukacs... đã bị "vượt" (dépassés), nhưng theo tôi, chỉ
có mỗi một cách vượt đối với chúng ta, là "đọc" họ.
Bài
giới thiệu của L. Goldmann cho chúng ta những ý niệm cơ
bản, thiết yếu về vấn đề: thế nào là một cuốn tiểu thuyết. Ông dẫn
chúng ta vào
một trong những cuốn sách quan trọng nhất của thế kỷ theo chúng tôi:
cuốn Lý
thuyết về Tiểu thuyết, của G. Lukacs.
Bản
dịch chắc chắn còn nhiều lỗi, mong được những bậc cao
minh sửa chữa, bồi đắp cho hoàn chỉnh hơn, khi in thành sách, trong một
loạt
dịch và viết về một số tác giả, tác phẩm.
Trân
trọng,
NQT.
Georges
Lukacs là một trong những khuôn mặt đáng kể nhất
trong cuộc sống trí thức thế kỷ 20 (2).
Tư
tưởng và tác phẩm của ông bao gồm quá lớn, những vấn đề,
nghiên cứu lại đa dạng, về vị thế trí thức và tầm mức; thành thử thật
khó đưa
ra nhận định tổng quát mà không kèm tính
chính xác và sự dè dặt.
Trước
hết hãy thử vẽ ra, theo kiểu đồ án, ý niệm cơ cấu ý
nghĩa năng động (structure dynamique significative) mà Lukacs chỉ ra
vào năm
1923, trong Lịch sử và Ý thức Giai cấp. Ý niệm này, như chúng ta thấy,
là điểm
tựa quan trọng trong tạo thành khoa học nhân văn theo đúng đòi hỏi mang
tính
khoa học thực chứng (positives); sau đó vẽ ra, trong phần thứ nhì, một
chân
dung cũng mang tính đồ án chẳng kém, sự tiến triển trí thức, độc giả
nhờ vậy dễ
nắm bắt, ý nghĩa và tầm quan trọng của tác phẩm sẽ đọc.
Ý
niệm cơ cấu động-nghĩa thực ra không phải là khám phá của
Georges Lukacs. Như một tư tưởng tổng quát, trừu tượng và triết học, nó
đã có ở
ngay tâm biện chứng pháp Hegel (2). Marx sau đó sử dụng, sau khi loại
bỏ tính
tư biện (spéculatif) trong Hegel và làm thành một dụng cụ trong việc
tìm tòi
mang tính thực nghiệm, cụ thể. Bất hạnh thay, ông không để lại cho
chúng ta,
điều gọi là nghiên cứu mang tính phương pháp học theo đúng nghĩa của
nó. Chính
vì thế - điều này thật quan trọng nếu nói về những suy tưởng rải rác
trong
những bản văn mang tính Mác học (Marxiens), nhất là trong bài viết nổi tiếng "Phê bình Kinh tế chính trị,
Bài tựa" (Préface à la Critique de l'Économie politique) - phương pháp
học
đối với khoa học nhân văn thật thiết yếu, và Lukacs là một trong số
những
người, đã chiếu sáng vấn đề, tạo sự dễ dàng cho những người nghiên cứu
tiếp
theo, về những nguyên lý phương pháp học cơ bản vốn tác động lên tác
phẩm của
Marx, trong số đó, là ba ý niệm quan trọng nhất về phương pháp biện
chứng trong
khoa học nhân văn: Ý niệm cơ cấu động-nghĩa, ý thức khả hữu, và tính
khả hữu
khách quan (structure dynamique significative, conscience possible -
Zugerechnetes Bewusstsein - possibilité objective).
Biện
chứng pháp duy vật - một cơ cấu thuyết mang tính di
truyền, tổng quát hóa, dựa trên những ý niệm trên - hàm chứa xác quyết,
tất cả
sự kiện con người (fait humain) tự trình bầy cùng lúc - như là một cơ
cấu có
nghĩa có thể hiểu được nhờ phân tích những liên hệ cấu tạo giữa những
phần tử
tạo nên nó (những phần tử này tới lượt, tới mức độ của riêng nó, (lại
trở
thành) những cơ cấu ý nghĩa cùng loại - và như một phần tử cấu tạo từ
một số
những cơ cấu khác, rộng lớn hơn, vốn bao gồm và chứa chấp nó.
Trong
viễn tượng đó, tất cả sự kiện con người có một đặc
tính năng động và chỉ có thể hiểu được qua nghiên cứu sự tiến triển đã
qua và
những ý hướng nội-tạo hướng tới tương lai. Từ đó suy ra, nghiên cứu
được trình
bầy như một tiến trình hai mặt bổ túc cho nhau: hủy cơ cấu cũ và dựng
cơ cấu
mới đang tự tạo (destructuration d'une structure ancienne et
structuration
d'une structure nouvelle en train de se constituer). Từ đó cần phải
thêm vô,
trong nghiên cứu thực chứng những cơ cấu ý nghĩa vốn tạo thành lịch sử,
không
thể tách lìa những phán đoán sự kiện (de fait), với phán đoán giá trị
(de
valeur), những phạm trù tâm thần cá nhân kẻ truy tìm (le chercheur):
như một
phần tử tạo thành sự hiện hữu của một nhóm người xã hội ở bên trong
những cấu
trúc bao gồm, toàn thể.
Vị
thế này hàm chứa, một mặt, rằng tất cả mọi tìm kiếm thực
chứng trong khoa học nhân văn phải vừa hiểu (compréhensive) vừa giải
(explicative) được. Hiểu: miêu tả những liên hệ thiết yếu, nhờ vậy hiểu
ra rằng
sự tiến triển (le devenir) tạo nên cơ cấu. Giải: trong
cảm nhận những cơ cấu rộng lớn hơn, chúng làm
rõ sự tiến triển của những cơ cấu phần (partiel) (3); mặt khác, đối với
một tìm
tòi theo kiểu này, nghiên cứu những trạng thái thực hay lý thuyết của
cơ cấu
hòa nhập tạo ra dụng cụ mang tính ý niệm hoàn toàn đặc thù.
Để
kết thúc phần giới thiệu, chúng ta hãy xác định một điều,
Lukacs không bao giờ sử dụng từ "cơ cấu có nghĩa hòa nhập" (structure
significative cohérente) và chỉ nói tới trong hai tác phẩm đầu Những
hình thức
(Formes), trong Lịch sử và Ý thức Giai cấp về Toàn thể, (Histoire et
Conscience
de Classe de Totalité).
Ngay
từ năm 1910, 13 năm trước khi xác định trong Lịch sử và
Ý thức giai cấp ý niệm cơ cấu động-nghĩa, Lukacs, sau khi đã xuất bản
bằng
tiếng Hung, một tác phẩm - theo sự hiểu biết của chúng tôi, cuốn sách
này chưa
từng được dịch ra những ngôn ngữ Tây-Âu - vào năm kể trên ông đã được
công
chúng Đức biết tới qua cuốn Linh hồn và những Hình thức (L' Âme et les
Formes).
Vì nhiều lý do theo chúng tôi, cuốn này đánh dấu một thời điểm cơ yếu
trong
lịch sử tư tưởng đương thời. Trước tiên là bởi vì, sau bao nhiêu năm
tháng miệt
mài với triết học đại học, Lukacs lại tìm thấy ở trong tác phẩm này
truyền
thống lâu dài của triết học cổ điển, bằng cách chú trọng vào vấn đề:
những liên
hệ giữa đời người và những giá trị tuyệt đối. Đây là một biến động trí
thức quan
trọng, vì truyền thống này hình như hoàn toàn bị bỏ quên.
Những
tân tín đồ của Kant, Hegel hay tân-Mác xít xã hội-dân
chủ thực sự đã lại mở ra, tác phẩm của những triết gia cổ điển: Kant,
Hegel và
Marx, rũ nó ra khỏi bức màn bụi bặm uyên bác, qua đó họ chỉ là những lý
thuyết
gia nhiều ít có chiều sâu, nhưng do tác phẩm quá đa dạng nên có vẻ như
đã mất
mọi giao tiếp thực sự và tức thời với cuộc sống hàng ngày, và với những
vấn đề
mà nó gợi lên.
Vả
chăng, suy tưởng triết học hình như giản lược dần phạm vi
của nó vào tri thức luận, vào triết học của những khoa học và vào lịch
sử triết
học. Thực sự là môn học sau chót này đang đạt tới độ uyên bác chưa từng
có
được, trong những công trình của những đại học lớn.
Sự
uyên bác, Lukacs không thiếu, và một cách đọc ông, cho dù
lơ đãng, chứng tỏ, ông chẳng ham làm một bực thầy đại học. Nhưng theo
Pascal,
nếu dấu hiệu cho thấy một con người lương thiện, đó là biết tới cùng
con số lớn
nhất những phạm vi, những môi trường, nhưng luôn luôn tỏ ra không phải
là một
chuyên viên, Lukacs đã đạt đến độ cao nhất của đòi hỏi nghiêm ngặt này.
Bởi vì
chính là sự uyên bác khác thường đã cho phép ông không bao giờ phải tỏ
ra điều
này. Cũng vậy, tư tưởng của Kant vốn đã bị những tân-tín đồ đại học của
ông làm
méo mó, cuốn sách của Lukacs, như sau đây chúng ta
thấy, đem lại ý nghĩa đích thực của tư tưởng
đó, mà chẳng tham chiếu quá nhiều Kant. Cũng vậy, người ta chỉ nhận ra
một vài
tham chiếu Hegel, thật hiếm hoi ở trong một cuốn sách rất ư là Hegel,
đó là Lý
thuyết Tiểu thuyết. (còn tiếp)
Chú
thích của người dịch:
(1)
Bài viết được in trong cuốn Lý thuyết Tiểu thuyết, bản
tiếng Pháp, nhà xb Gonthier, tủ sách Méditations. Lý thuyết về Tiểu
thuyết được
viết năm 1916, bằng tiếng Đức. Bản tiếng Pháp: 1963.
Chú
thích của tác giả:
(2)
Trích từ Thời Mới, Temps Modernes, số 195, tháng Tám,
1962.
(3)
Điều này giải thích một con số rất lớn những nghiên cứu
mang tính nội hàm, cụ thể, cực kỳ sắc bén mà người đọc gặp, trong những
bản
viết của Hegel.
(4)
Hiểu một cơ cấu, là nắm bắt bản chất và ý nghĩa những
phần tử khác nhau, và tiến trình tạo nên nó, tuỳ thuộc vào những liên
hệ của
chúng với tất cả những phần tử khác, và tiến trình tạo nên toàn thể
(ensemble).
Những miêu tả của Lukcacs: a/ về Những Hình Thức của Tiểu Luận, của Chủ
Nghĩa
Lãng Mạn, và của Bi Kịch, trong Linh Hồn và Những Hình Thức; b/ Tiểu Thuyết, trong Lý Thuyết
Tiểu thuyết; c/ Triết học cổ điển Đức hay là
về Cuộc Cách mạng Vô sản trong Lịch sử và Ý thức Giai cấp - đều là
những miêu
tả mang tính nội hàm (descriptions compréhensives).
Giải một sự
kiện xã hội, là lồng nó vào trong miêu tả nội hàm một tiến trình cơ cấu
hóa
năng động bao trùm lên nó. Lấy một thí dụ, ngay trong những nghiên cứu
(recherches) của chúng ta: ý niệm của Lukacs về viễn ảnh bí đát là dụng
cụ
chính trong việc hiểu, cảm những bản viết của Racine, sự cảm hiểu
chuyển động
"Janséniste" - như là cơ cấu năng động - ngược lại, có một giá trị
giải thích được so với những bản viết này; cũng vậy miêu tả nội hàm
lịch sử quí
tộc pháp đình (l'histoire de la noblesse de robe) có một giá trị giải
thích
được đối với sự hình thành chủ thuyết Jansénisme, miêu tả nội hàm sự
phát triển
cơ cấu những tương quan giai cấp trong toàn xã hội Pháp từ thế kỷ 16
tới 18, có
một giá trị giải thích được so với tiến trình năng động tạo nên sự tiến
triển
(le devenir) của Quí Tộc Pháp Đình vv...
Lucien
Golmann
Dẫn
vào những bản viết đầu tay của G. Kukacs
(tiếp
theo, II).
Thật
rõ ràng, Linh hồn và Những Hình Thức chỉ bàn về sự liên
hệ giữa hồn người và tuyệt đối, và những "hình thức" biểu hiện những
hình thái khác biệt đặc thù của liên hệ này.
Trong
những điều kiện nào, đời người có thể thực
(authentique)? Đâu là những hoàn cảnh,
những nhân tình thế thái (attitudes) làm nó mất cái thực? Liệu có những
giá trị
trung gian, giữa thực và không thực, thật và giả? Lầm lẫn có thể đẻ ra
những
"hình thức" có giá trị, chỉ nói về mặt thẩm mỹ, hay triết học? Cuốn
sách của Lukacs chỉ nêu lên những vấn đề này, và hơn nữa, không phải
trên bình
diện suy tưởng lý thuyết đại cương mà như luận đề, "nhân" ("à
l'occasion") một số những thành tựu lớn lao về văn học và triết học:
Montaigne, Platon, Kierkegaard, Stefan George, Charles-Louis Philippe,
và hơn
hết (tuy rằng không được nêu tên một cách rõ ràng) Kant, Pascal và
Racine.
Theo
nghĩa đó, có thể cùng với Linh hồn và Những Hình Thức,
bắt đầu tại Âu-châu sự tái sinh triết học theo sau đệ nhất thế chiến,
mà sau
này được đặt dưới cái tên chủ nghĩa hiện sinh. Không nghi ngờ chi,
Lukacs vẫn
luôn luôn nằm trong dòng triết học cổ điển, và không bao giờ chấp nhận
những vị
thế tương tự như những tư tưởng gia Jaspers hay Heidegger đã chấp nhận
sau đó.
Nhưng ông là người đầu tiên của thế kỷ 20 nêu
lên những vấn đề trấn ngự tư tưởng triết học và,
kể từ sau cái chết
của Hegel, chúng, nhiều hoặc ít, đã biến mất khỏi ý thức âu-châu (đừng
quên là,
Kierkegaard, chỉ được dịch ở đầu thế kỷ, vẫn gần như vô danh).
Tuy
nhiên, phải nhấn mạnh một điều, cuốn sách của Lukacs
không phải là một sáng tạo bất ngờ, không có những tiền thân: tác giả
của nó có
được sự xứng đáng - hay là cơ may - ở vào đúng chỗ gặp gỡ của ba dòng
thác lớn
của tư tưởng đại học Đức vào thời đại của ông: tân-chủ nghĩa Kant
(néo-Kantisme), những ý niệm về ý nghĩa và hiểu cảm (compréhension) của
Dilthey
và của hiện tượng luận Husserlienne, được đưa ra ánh sáng; một phần
nào, hoàn
cảnh này đã cho phép ông tìm lại truyền thống của chủ nghĩa lý tưởng cổ
điển,
khi định nghĩa ý nghĩa, signification, bằng liên hệ giữa linh hồn và
tuyệt đối,
entre l'âme et l'absolu, trong khi đó, do từ bỏ liên hệ này, ba dòng
thác lớn
vừa nói ở trên đã cắt lìa với truyền thống triết học.