Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
CHUYỂN NGỮ
|
Thứ Bảy 17/7/2004
Cây vĩ cầm cho Rothschild
Anton Pavlovich Tchekhov
Đó là một thị trấn nhỏ, còn tồi tệ hơn
một cái làng, trong
đó dân cư hầu như toàn ông già bà lão, chết hiếm tới mức khó chịu. Bệnh
viện và
nhà tù cần rất ít quan tài. Nói tóm lại, công việc ở đây rất chán. Giá
Iakov
Ivanovich làm nghề đóng quan tài ở trên tỉnh thì có lẽ lão đã có một
ngôi nhà
riêng hẳn hoi, và ở đó người ta gọi lão là ông Iakov Matveevich, chứ
không như
cái giống dân mách qué ở đây, gọi trống không cái tên Iakov, đã thế còn
đặt cho
lão cái biệt danh “lão Đồng”, hoạ có trời mới hiểu là gì. Iakov sống
nghèo khổ
như một gã mugic tầm thường, ngôi nhà gỗ cũ kỹ chật chội, trong đó cả
lão,
Marpha, cái bếp lò, cái giường đôi, đống quan tài và các thứ đồ đạc
khác đều
nhét vào một cái phòng duy nhất.
Iakov đóng những chiếc quan tài đẹp và
chắc chắn. Đối với
đám mugic và cánh đàn ông thị trấn, lão đóng quan tài theo kích cỡ của
bản thân
và chưa một lần nhầm lẫn, bởi vì có bói cũng không ra một người cao to,
chắc
khỏe như lão, kể cả trong nhà tù, mặc dù lão đã bẩy mươi tuổi. Đối với
đám
người có máu mặt và phụ nữ, những cỗ quan tài được đóng theo kích thước
của họ
mà lão đo rất kỹ bằng cái thước sắt. Còn quan tài đặt cho con trẻ lão
nhận một
cách miễn cưỡng, đóng chẳng theo một kích cỡ nào, và lúc nhận tiền công
bao giờ
cũng nói:
- Thật tình, tôi chả thích làm nhưng việc vặt vãnh thế này.
Ngoài nghề đóng quan tài, lão còn chơi đàn thuê để kiếm thêm
chút đỉnh. Ở thị trấn, trên các đám cưới, người ta hay gọi đội nhạc Do
thái tới
chơi. Đội nhạc do lão thợ thiếc Moise Ilich Sakhkes làm ông bầu và
thường thu
về cho mình già nửa số thu nhập. Vì Iakov kéo vĩ cầm rất hay, nhất là
những bài
hát Nga, nên Sakhkes thỉnh thoảng vẫn mời lão chơi trong đội nhạc của
mình và
trả cho lão năm mươi copek một ngày, không tính những món thưởng của
khách. Cứ
thoạt ngồi vào ban nhạc là bao giờ người Iakov cũng đẫm mồ hôi và mặt
thì đỏ
gay đỏ gắt; không khí nóng nực nồng nặc mùi tỏi đến ngạt thở, tiếng
violon rít
lên, tiếng contrebasse khàn khàn bên tai trái, còn bên tai phải là
tiếng sáo
nức nở của gã Do Thái tóc hung, gầy nhom, mặt chằng chịt những đường
gân xanh đỏ,
mang cái tên của Rothschild, một người giàu nổi tiếng. Và gã Do Thái
đáng
nguyền rủa này, kể cả những lúc vui vẻ nhất, vẫn cố tình thổi sáo thật
não
nùng. Không có một nguyên cớ rõ ràng nào, nhưng trong người Iakov cứ
dần dần
tích tụ sự ganh ghét và lòng khinh bỉ đối với dân Do Thái, đặc bịêt với
Rothschild; lão nhiếc móc, chửi mắng gã bằng đủ lời xấu xa, có lần còn
định tẩn
cả gã nữa. Rothschild giận giữ, làu bàu, nhìn lão, rít qua kẽ răng:
- Nếu không trọng cái tài của ông thì tôi đã ném ông qua cửa
sổ từ lâu rồi.
Sau đó gã bật khóc. Chính vì thế người ta mời lão Đồng rất
hãn hữu, chỉ trong trường hợp vắng mặt một nhạc công Do Thái nào đó.
Iakov không bao giờ có được tâm trạng
sảng khoái bởi lão
luôn phải chịu những thất thu ghê gớm. Ví dụ, chủ nhật và những ngày lễ
làm
việc là có tội, còn thứ hai - húy nhật, chính vì thế trong một năm,
muốn hay
không, phải có tới gần hai trăm ngày ăn không ngồi rồi. Thiệt hại mới
lớn làm
sao! Này nhé, có những đám cưới lại không cần nhạc, hay Sekhkes không
mời Iakov,
thế là thiệt rồi. Cảnh sát trưởng hai năm liền ốm đau, tàn tạ và Iakov
mong chờ
lão chết từng ngày, ấy vậy mà lão lại lên tỉnh chữa bệnh rồi ngoẻo luôn
ở đó.
Này nhé, thiệt hại có khi lên tới cả mươi rúp, nếu như buộc phải đóng
một cái
quan tài đắt tiền có hoa văn phủ nhũ. Những tính toán thua lỗ thường
dày vò
Iakov vào ban đêm; lão đặt chiếc vĩ cầm lên chăn, và khi đủ mọi ý nghĩ
vớ vẩn
len vào đầu, lão lại bật giây đàn, cây vĩ cầm phát ra những âm thanh
trong bóng
tối khiến lão nhẹ lòng hơn.
Ngày mùng sáu tháng năm năm ngoái
Marpha bỗng nhiên lăn ra
ốm. Bà thở nặng nhọc, uống nhiều nước và đi đứng loạng choạng, thế mà
buổi sáng
vẫn tự mình nhóm lò, thậm chí còn đi kín nước. Tới chiều bà nằm một
chỗ. Iakov
chơi đàn suốt ngày, tối mịt mới xem đến quyển sổ ghi chép những thất
thu hàng
ngày, và vì buồn chán lão làm bản tổng kết cả năm. Tổng cộng mất tất cả
hơn
nghìn rúp. Điều đó làm lão sốc tới mức vứt toẹt quyển sổ xuống sàn và
di di
chân lên. Sau đó lão lại vớ lấy cái bàn gảy và tính toán rất lâu, thở
dài căng
thẳng. Mặt mũi lão đỏ gay và đẫm mồ hôi. Lão nghĩ hơn nghìn rúp thất
thu đó nếu
đem gửi nhà băng thì mỗi năm lãi suất cũng chẳng được là bao - có 40
rúp. Có
nghĩa 40 rúp này cũng là một mất mát nữa. Nói tóm lại, dù có xoay xở
như thế
nào, thì ở đâu cũng độc thấy mất mát, không hơn.
- Iakov! - Marpha bất
ngờ gọi lão. - Tôi chết đến nơi rồi.
Lão nhìn bà vợ. Mặt bà đỏ rực vì nóng, sáng rỡ và sung sướng
khác thường. Lão Đồng quen nhìn thấy mặt bà nhợt nhạt, len lét thảm
hại, giờ
đây lão thấy lúng túng. Hình như bà lão đốc chứng chết thật và tỏ ra
sung sướng
vì cuối cùng đã vĩnh viễn rời khỏi cái nhà này, thoát khỏi đống quan
tài và
khỏi Iakov... Bà nhìn lên trần, đôi môi động đậy, nét mặt của bà thật
hạnh
phúc, như thể bà đã nhìn thấy cái chết, người giải thoát cho bà, và
đang thầm
thì với nó.
Trời hửng sáng, từ cửa sổ nhìn thấy rõ bình minh đang cháy
rực. Nhìn bà vợ già, Iakov không hiểu sao nhớ ra rằng cả cuộc đời chưa
một lần
lão vuốt ve bà, chưa từng thương xót bà, chưa bao giờ nghĩ tới việc mua
cho bà lấy
một tấm khăn choàng nhỏ, mà chỉ la mắng bà, chửi bới vì thua lỗ, nhào
tới bà
với những nắm đấm. Thật ra thì chưa bao giờ lão đánh vợ cả, nhưng mỗi
lần dọa
nạt như thế cũng đã đủ làm cho bà sợ rúm cả người. Ngoài ra, lão còn
không cho
bà uống trà, sợ tốn kém, và bà chỉ uống nước trắng. Chính vì vậy nên
lão hiểu
được vì sao nét mặt bà giờ đây thật kỳ lạ, sung sướng và lão cảm thấy
khiếp
hãi.
Chờ cho sáng hẳn, lão mượn ngựa của
hàng xóm và chở Marpha
tới bệnh viện. Ở đó không nhiều bệnh nhân lắm, vì thế lão không phải
đợi lâu,
chỉ mất có ba tiếng. Và thật quá may cho lão, lần này tiếp bệnh nhân
không phải
là quan đốc, vì bản thân ngài cũng bị ốm, mà là viên y tá Maksim
Nikolaich,
người mà cả thị trấn kháo nhau rằng mặc dù là tay bợm rượu và thích gây
gổ, song
còn biết việc hơn đốc tờ.
- Xin chào ngài, - Iakov vừa dìu vợ vào phòng khám, vừa chào
hỏi. - Xin được thứ lỗi, chúng tôi tới quấy quả ngài, Maksim Nikolaich,
vì việc
vặt này. Chả là bà xã chúng tôi vừa mới bị ốm. Nói thế nào nhỉ, bạn
đời, như
người ta thường gọi, dạ, xin lỗi ngài về cách nói năng...
Cau đôi lông mày bạc và vuốt cái ống nghe, viên y tá bắt đầu
khám cho bà già. Marpha ngồi trên ghế đẩu người gập xuống, gầy gò, mũi
nhọn với
cái miệng há ra, nhìn nghiêng trông bà giống như con chim đang khát
nước.
- Rồi... Xong rồi - viên y tá chậm
chạp nói và thở dài. -
Bội nhiễm, mà cũng có thể sốt nóng. Hiện đang có dịch thương hàn ở
thành phố.
Biết làm sao được? Bà già sống thế cũng là đủ rồi, lạy trời... Bà ấy
bao nhiêu
tuổi vậy?
- Thiếu một tuổi tròn bẩy mươi, thưa
ngài Masim Nikolaich.
- Biết làm sao? Bà già sống đủ rồi. Đã
đến lúc được về với
Chúa.
- Dạ, ngài dạy thật chí lý, Masim
Nikolaich, - Iakov nói,
mỉm cười nhũn nhặn, - xin được đa tạ lòng tốt của ngài, nhưng chúng tôi
cũng
xin phép được trình bầy, mọi loài sâu bọ đều muốn sống cả ạ.
- Chứ lại à! - Viên y tá nói với cái
giọng như thể sự sống chết
của bà già phụ thuộc cả vào lão. - Thôi, thế này nhé, ông bạn, đắp khăn
nhúng
nước lạnh lên đầu bà ấy và cho bà ấy uống chỗ thuốc bột này, ngày hai
lần. Còn
bây giờ xin tạm biệt.
Căn cứ vào nét mặt của viên y tá,
Iakov hiểu rằng việc của
vợ lão hỏng rồi và chẳng có thuốc bột nào có thể cứu nổi. Lão hiểu rất
rõ rằng
Marpha sẽ chết rất nhanh, chỉ nay mai thôi. Lão khẽ nắm khuỷu tay viên
y tá,
nháy mắt và nói thầm:
- Masim Nikolaich, hay đặt giác hút
cho bà ấy?
- Không có thời giờ, không có thời
giờ. Làm ơn đưa bà ấy ra
ngoài. Đi ngay cho. Tạm biệt.
- Xin ngài
làm ơn,
làm phúc, - Iakov van nài, - Tự ngài cũng biết đấy, nếu như bà ấy bị
đau bụng
hay đau cái gì bên trong cơ, lúc đó mới dùng đến thuốc bột, thuốc nước,
đằng
này bà ấy lại bị cảm! Trong trường hợp bị cảm thì việc đầu tiên là phải
rút bớt
máu, Maksim Nikolaich.
Viên y tá đã gọi bệnh nhân tiếp theo.
Một mụ đàn bà dẫn một
đứa trẻ bước vào phòng.
- Ra ngoài đi, đi đi... - Lão cau có
nói với Iakov. - Đừng
làm vướng tôi.
- Thôi thì ít nhất ông cũng đặt cho bà
ấy một con đỉa vậy!
Được thế chúng tôi sẽ suốt đời cầu nguyện cho ông!
Viên y tá nổi đóa, gắt lên:
- Cứ lải nhải mãi! Đồ ngu...
Iakov cũng tức điên, mặt đỏ tía, nhưng
lão không nói một
lời, chỉ đỡ Marpha dậy và dìu bà ra khỏi phòng khám. Mãi tới lúc ngồi
vào trong
xe ngựa lão mới nhìn cái bệnh viện một cách nghiệt ngã và nhạo báng,
nói:
- Người ta tống bọn bay vào cả đây, lũ
nghệ sĩ! Đám nhà giàu
chúng bay đặt giác hút, còn người nghèo thì tới một con đỉa cũng không
cho.
Quân bạo chúa!
Khi về tới nhà, Marpha đứng một lúc,
tay vịn vào bếp lò. Bà
sợ rằng nếu như đi nằm thì thể nào Iakov cũng sẽ lại than vãn về tiền
nong,
thua lỗ và chửi mắng bà cứ nằm đấy, chả chịu làm việc. Còn Iakov nhìn
bà ngán
ngẩm và nhớ ra rằng ngày mai là ngày lễ Thánh Ioan, ngày kia là ngày lễ
Thánh
Nikolai Ban Phép Lạ, sau đó là chủ nhật, còn sau nữa, thứ hai - húy
nhật. Cả
bốn ngày không được làm việc, mà Marpha có thể sẽ chết vào một trong
những ngày
này; nghĩa là quan tài phải đóng ngay ngày hôm nay. Lão cầm lấy cái
thước sắt,
tiến tới bên vợ để lấy số đo của bà. Sau đó bà đi nằm, còn lão làm dấu
thánh
rồi bắt tay vào việc.
Khi đóng xong cỗ quan, lão Đồng đeo
kính và ghi vào quyển sổ
của mình: “Quan tài cho Marpha Ivanovna - giá 2 rúp 40 copek”.
Và lão thở hắt ra. Trong thời gian đó
bà già vẫn nằm, mắt
nhắm nghiền. Nhưng tới chiều, lúc chạng vạng, bỗng nhiên bà gọi chồng.
- Mình còn nhớ chứ, Iakov? - Bà vừa
hỏi, vừa nhìn lão vui
vẻ. - Mình còn nhớ cách đây năm mươi năm Chúa đã cho chúng ta một đứa
trẻ tóc
vàng? Mình với tôi khi đó thường hay ra ngồi ở bờ sông, cùng hát...
dưới một
cây liễu, - và bà cười cay đắng, nói thêm: - Con gái bé bỏng chết mất
rồi.
Iakov căng óc, nhưng không thể nào nhớ
nổi, cả đứa bé, lẫn
cây liễu.
- Bà nằm mơ đấy thôi, - lão nói.
Ông mục sư tới ban phép Mình Thánh và
xức dầu cho bà. Sau
đấy Marpha bắt đầu lảm nhảm những câu khó hiểu và tới gần sáng thì chết.
Các bà già hàng xóm
tới tắm rửa, khâm liệm và đặt bà vào áo
quan. Để khỏi phải chi phí cho người trợ tế, Iakov tự đọc lấy thánh
thi, còn về
phần mộ thì lão không phải trả một đồng nào, vì người gác nghĩa địa là
cha đỡ
đầu của lão. Bốn mugíc khiêng quan tài tới nghĩa địa cũng không lấy
tiền, vì
quý trọng Marpha. Đi sau quan tài là những bà già, những người hành
khất, hai
người tàn tật. Những người gặp trên đường đều làm dấu thánh một cách
sùng kính.
Iakov lấy làm hài lòng vì đã thu xếp công việc ổn thỏa, hết lòng, lại
không tốn
kém, không làm mất lòng ai. Khi từ biệt Marpha lần cuối, lão sờ chiếc
quan tài,
bụng nghĩ: “Cỗ quan tốt thật!”.
Nhưng trên đường từ
nghĩa địa về nhà bỗng nhiên một nỗi buồn
ghê gớm choán lấy lão. Iakov thấy mình không được khoẻ: hơi thở nóng và
nặng,
hai chân bủn rủn, khát nước. Đã thế đủ mọi ý nghĩ cứ len vào đầu. Lại
nghĩ tới
việc cả đời chưa một lần thương xót Marpha, chưa một lần âu yếm bà. Năm
mươi
hai năm sống chung dưới một mái nhà, vậy mà chưa một lần lão nghĩ tới
vợ, không
để ý, như thể bà là con mèo hay con chó. Thế mà chính bà hàng ngày nhóm
lò, nấu
nướng, kín nước, bổ củi, nằm cùng một giường với lão, khi lão từ những
đám cưới
trở về say khướt, bao giờ bà cũng sùng kính đỡ lấy cây vĩ cầm, treo lên
tường,
giúp lão đi ngủ. Bà làm tất cả những việc đó một cách thầm lặng, dáng
vẻ rụt
rè, lo lắng. Trên đường lão gặp Rothschild đang đi tới. Thằng Do Thái
vừa cười,
vừa cúi chào.
- Thế mà cháu cứ đi tìm bác mãi! - gã
nói. - Ông Moisei
Ilich gửi lời chào bác và mời bác tới ngay chỗ ông ấy.
Iakov chẳng còn bụng
dạ nghĩ tới việc đó. Lão chỉ muốn khóc.
- Để tao yên! - Lão
nói và đi tiếp.
- Thế là thế nào? -
Rothschild lo lắng, chạy lên phía trước.
- Ông Moissei Ilich giận chết! Ông ấy bảo phải đến ngay!
Iakov khó chịu bởi
thằng Do Thái thở hổn hển, mắt hấp háy,
mà sao mặt nó lại nhiều tàn nhang màu hung đỏ thế. Nhìn chiếc áo khoác
màu xanh
lá cây với những mụn vá sẫm màu và cả cái thân hình mảnh khảnh, yếu ớt
của nó
mà phát tởm.
- Sao mày cứ thọc vào
chuyện của tao thế hả, đồ tỏi lép? -
Iakov hét lên. - Đừng có bám lấy tao!
Thằng Do Thái cũng
nổi xung, quát lại:
- Xin ông bé cái
miệng đi cho, kẻo tôi cho ông bay qua bờ
giậu bây giờ!
- Xéo ngay cho khuất
mắt tao! - Iakov gào lên và nắm tay xấn
tới. - Không sao sống nổi với loài sâu bọ này!
Rotsild chết lặng vì sợ hãi, ngồi thụp
xuống, hai tay quơ
quơ trên đầu như thể đỡ đòn, sau đó nó bật dậy, ba chân bốn cẳng chạy
mất hút.
Trên bờ sông nó nhảy tưng tưng, hai tay vung vẩy, và thấy rõ cái lưng
dài, còm
nhom của nó cứ giật lên. Đám trẻ con mừng rỡ gặp dịp, chạy theo nó, la
hét:
“Thằng Do Thái! Thằng Do Thái!”. Đàn chó cũng đuổi theo nó, sủa váng
lên. Có ai
đó cười hô hố, sau đó huýt sáo, đàn chó nhâu nhâu sủa dữ hơn... Sau đó
chắc có
một con cắn Rothschild, bởi vọng lại tiếng thét đau đớn, tuyệt vọng của
nó
Iakov dạo trên bãi chăn gia súc, sau
đấy, không mục đích, lão
đi ra phía ngoài thị trấn. Đám trẻ con la lên “Lão Đồng kìa! Lão Đồng
kìa!”. A
mà con sông đây rồi. Ở đó những con giẽ giun và những con vịt trời kêu
chí
chóe. Trời nắng gắt, mặt nước phản chiếu ánh sáng làm chói cả mắt.
Iakov men
theo con đường hẹp dọc bờ sông và nhìn thấy từ bến tắm một bà béo tốt,
má đỏ
hây, đi lên, lão thoáng nghĩ: “Rõ thật, một con rái cá!” . Cách bến tắm
không
xa bọn trẻ con đang câu tôm bằng mồi thịt. Nhìn thấy lão chúng gào lên
một cách
độc địa: “ Lão Đồng! Lão Đồng!”. A mà cây liễu to lớn, già nua với cái
hốc
tướng đây rồi, và trên cây sao mà lắm tổ quạ... Bỗng nhiên trong trí
nhớ của
lão hiện lên hình ảnh một đứa trẻ tóc vàng, như sống thật, và cả cây
liễu mà
Marpha đã nói tới. Đúng rồi, nó đây rồi, chính là cây liễu đó - nó vẫn
còn
xanh, nhưng im lặng và buồn bã... Nó đã già quá rồi, cây liễu khốn khổ!
Lão ngồi dưới gốc cây và bắt đầu nhớ
lại. Ở bờ bên kia, nơi
hiện đang là cánh đồng cỏ ngập nước, trước đây là một cánh rừng bạch
dương bạt
ngàn, còn trên quả đồi trọc nổi rõ phía chân trời, ngày xưa là một rừng
thông
già xanh ngăn ngắt. Trên sông xà lan xuôi ngược. Còn bây giờ tất cả
bình địa,
bằng phẳng, và bên bờ bên kia còn mỗi cây bạch dương non trẻ, cân đối,
giống
như một cô nương, đứng trơ trọi một mình. Trên sông chỉ thấy ngỗng và
vịt,
không giống với cảnh xà lan đi lại. Có cảm tưởng khác với ngày xưa, đến
ngỗng
cũng trở nên ít hơn. Iakov nhắm mắt và trong óc tưởng tượng của lão
từng đàn
ngỗng lớn nối tiếp nhau bơi qua bơi lại.
Lão không sao hiểu nổi, tại sao lại
như thế, tại sao có đến
bốn, năm mươi năm lão không ra sông lấy một lần, mà giá có ra tới đây
thì chắc
gì lão đã để ý tới nó? Vậy mà đây là một con sông thật lớn, hoàn toàn
không
phải loại vớ vẩn; trên sông có thể lập những khu đánh bắt cá để bán cho
đám
thương gia, cho những công chức và các hàng ăn ở trên bến và sau đó
tiền thu
được đem gửi vào nhà băng; có thể dong duổi trên thuyền từ trang ấp này
tới
trang ấp khác và chơi đàn, mọi người đua nhau mời lão đi biểu diễn và
sẽ trả
tiền; cũng có thể thử vài chuyến xà lan - làm việc này còn tốt hơn chán
vạn
nghề đóng quan tài; và cuối cùng, có thể nuôi ngỗng, mổ thịt, tới mùa
đông
chuyển lên Moskva. Trời đất, mỗi con ngỗng quèn một năm cũng cho tới cả
chục
rúp. Thế mà lão đã bỏ qua, chẳng làm một việc gì như thế cả. Những tổn
thất mới
lớn làm sao! Ôi chao là thiệt hại! Mà nếu như làm tất cả cùng một lúc,
cả đánh
cá, kéo vĩ cầm, chở xà lan và giết ngỗng, thì sẽ kiếm được bội tiền!
Nhưng tất
cả những việc đó ngay cả trong mơ lão cũng không nghĩ ra, cuộc đời trôi
qua
chẳng ích lợi, chẳng vui thú gì, trôi qua vô tích sự, chẳng ra đâu vào
đâu;
phía trước không còn tương lai, mà ngoái lại đằng sau thì chẳng có gì
hết,
ngoài những mất mát, những mất mát lớn đến nỗi chỉ nghĩ tới thôi đã
thấy ớn
lạnh cả người. Mà tại sao con người ta lại không có thể sống như thế
nào đó, để
khỏi phải chịu những thiệt hại, mất mát nhỉ? Thử hỏi, vì sao người ta
lại chặt
cả cánh rừng bạch dương và đồi thông đi như thế? Vì sao những bãi thả
gia súc
quý như vậy lại bị bỏ hoang? Tại sao người ta luôn làm những việc chẳng
cần
thiết? Vì sao Iakov cả đời lúc nào cũng luôn miệng chửi bới, gầm gừ,
xấn xổ đấm
đá, bắt nạt vợ mình? Thử hỏi, cần gì phải doạ nạt, lăng mạ một thằng Do
Thái?
Vì sao mọi người lại cứ cản trở nhau, không cho nhau sống? Chính điều
này gây
biết bao tổn thất! Những tổn thất khủng khiếp! Nếu không có sự ganh
ghét, đố kỵ
và độc ác, mọi người có thể mang lại cho nhau những lợi ích lớn đến
nhường nào.
Cả buổi tối và suốt đêm lão toàn mơ
thấy đứa trẻ sơ sinh,
cây liễu, cá, những con ngỗng bị đập chết, Marpha nhìn nghiêng giống
như con
chim khát nước, khuôn mặt nhợt nhạt, thảm hại của Rothschild, và những
bộ mặt
các kiểu từ mọi phía kéo đến nói về sự thiệt hại. Lão trở mình hết bên
nọ sang
bên kia và năm lần tỉnh dậy để kéo đàn.
Đến sáng lão gắng hết sức đứng dậy để
tới bệnh viện. Cũng
vẫn Masim Nikoliaich yêu cầu đắp khăn lạnh lên đầu, uống thuốc bột, và
qua nét
mặt cùng giọng nói của viên y tá, Iakov hiểu rằng việc của lão đã hỏng
và không
một thứ thuốc bột nào có thể cứu giúp được. Trên đường về nhà lão nghĩ
cái chết
chỉ mang lại ích lợi mà thôi: khỏi phải ăn, chẳng cần uống, lại không
phải đóng
thuế, không làm mếch lòng ai, và bởi vì con người nằm dưới đất không
phải một,
hai năm, mà hàng trăm, hàng nghìn năm, do đó, nếu tính hết, thì cả một
nguồn
lợi lớn. Cuộc sống đem lại cho con người sự thiệt thòi, còn cái chết
lại cho nó
những lợi lộc. Ý nghĩ này, tất nhiên, có lý, song dù sao nó cũng xúc
phạm và
thật cay đắng: vì sao lại tồn tại trên đời một trật tự lạ lùng vậy,
cuộc sống
mà con người chỉ được hưởng một lần duy nhất, lại trôi qua chẳng chút
ích lợi
gì?
Chết lão không tiếc, nhưng khi về tới
nhà, nhìn thấy cây vĩ
cầm, tim lão thắt lại và lão bắt đầu thấy tiếc. Cây đàn này không mang
xuống mồ
được, giờ đây nó sẽ đơn côi và sẽ không tránh khỏi số phận của những
cây bạch
dương, của rừng thông già. Mọi thứ trên thế giới này đã mất đi và sẽ
còn mất
nữa! Iakov bước ra, ngồi trên bậc cửa nhà, ôm riết cây đàn vào ngực.
Trong khi
vẫn nghĩ tới cuộc sống mất mát, chẳng chút lợi lộc, lão bắt đầu kéo
đàn, bản
thân cũng không hiểu tại sao, nhưng tiếng đàn của lão vang lên rầu rĩ
và cảm
động. Những giọt nước mắt lăn trên má lão. Và lão càng nghĩ thì tiếng
hát của
cây đàn càng buồn thảm.
Thanh chốt cửa kẹt lên vài tiếng và
Rothschild xuất hiện
trong cổng. Nó mạnh bạo đi được nửa sân, nhưng khi nhìn thấy Iakov, đột
nhiên
nó khựng lại, cả người co quắp, và chắc vì sợ hãi, nó không nói, mà chỉ
làm
những động tác như thể muốn ra hiệu bằng mấy ngón tay báo giờ cho lão.
- Lại đây, đừng sợ, - Iakov dịu dàng
nói và dỗ nó lại gần. -
Lại đây nào.
Rothschild nhìn lão ngờ vực, tiến thêm
mấy bước và dừng lại
cách lão một sazen[1].
- Xin bác đừng đánh cháu! - Nó nói,
hơi chùng người xuống. -
Ông Moisêi Ilich lại phái cháu tới mời bác. Ông bảo đừng có sợ, cứ đến
nhà ông
Iakov và bảo không có bác là không xong. Thứ năm này có một đám cưới...
Vâng,
phải! Ngài Sapovalov gả con gái cho một người tử tế. Mà đám cưới to lắm
nhé,
u-u![2] - Gã Do Thái nói thêm, hấp háy một bên mắt.
- Bác không thể... - Iakov phều phào,
thở nặng nhọc - Bác
không được khỏe, anh bạn ạ.
Rồi lão tiếp tục kéo đàn, những giọt
nước mắt rỏ xuống cây
vĩ cầm. Rothschild nghe chăm chú, đứng nghiêng người về phía lão, hai
tay
khoanh trước ngực. Nỗi sợ hãi, nghi ngại trên nét mặt nó dần dần biến
thành nỗi
sầu muộn, đau khổ. Nó trợn ngược mắt, dường như đang chịu đựng một
khoái cảm
đớn đau, thì thào: “Vakhkhkh!..”. Và những giọt nước mắt từ từ chảy dài
trên má
nó, nhỏ xuống chiếc áo khoác màu lá cây.
Sau đó Iakov nằm cả ngày, buồn bã. Đến
tối, lúc ông mục sư
tới làm lễ rửa tội, hỏi lão có nhớ một tội lỗi nào nào thật đặc biệt mà
lão đã
mắc phải lúc sinh thời. Iakov cố căng cái trí não đã trở nên yếu ớt,
chợt nhớ
lại khuôn mặt bất hạnh của Marpha, tiếng thét tuyệt vọng của thằng Do
Thái bị
chó cắn, lão thều thào:
- Cây vĩ cầm cho thằng Rothschild.
- Được rồi, - Ông mục sư đáp.
Hiện cả thành phố đều thắc mắc không
biết thằng Rothschild
kiếm đâu ra cây vĩ cầm tốt thế? Nó mua hay đánh cắp được, cũng có thể
nó kiếm
được từ hiệu cầm đồ? Nó đã bỏ ống sáo từ lâu, và hiện giờ chỉ kéo vĩ
cầm. Dưới
cần đàn tuôn chảy những âm thanh não nùng giống như những âm thanh của
cây sáo
trước đây, nhưng khi nó thử chơi lại những gì mà Iakov đã chơi lúc ngồi
ở bậc
cửa, thì tiếng đàn của nó u sầu, thê lương tới mức khiến tất cả những
người
nghe đều phải khóc. Cả bản thân nó, cuối cùng thể nào nó cũng trợn
ngược mắt và
thều thào: “Vakhkhkh!”. Bài hát mới đó được người ta ưa thích đến nỗi
những
thương gia và các viên chức giành giật nhau mời Rothschild về nhà và
bắt nó
chơi đi chơi lại cả chục lần liền.
Đào Tuấn Ảnh dịch từ nguyên bản tiếng
Nga
[Trích e_Văn]
_____________________
Chú thích của người dịch:
[1] Sazen bằng 2,134m
[2] Trong nguyên bản, Rothschild nói
năng không rõ ràng,
mạch lạc, tiếng Nga ngọng. Miêu tả sự khiếm khuyết của Rothschild, tác
giả muốn
nhấn mạnh tới sự thay đổi trong tâm lý của Iakov. Khi Iakov còn sống,
những
khuyết tật của Rothschild làm ông khó chịu, nhưng trước lúc ông chết,
những
khuyết tật đó làm cho ông thương xót, ân hận vì đã xử tệ với nó, song
cái chính
là ông đã nhìn thấy tài năng và sự nhạy cảm âm nhạc của nó, tâm hồn
nó...
|