Không
Có Chủ Nghĩa
Cao
Hành Kiện
Vừa xem
đến một thiên văn
chương của Á Huyền “Hình thành của vòng năm”, nói đến cái loại tranh
luận giữa
sự Tây hoá, truyền thống, và đất quê ngày nay đã vô ý nghĩa, tôi đã có
một mối
đồng cảm sâu sắc. Trước đó Lưu Tái-phục cũng có một thiên “Cáo biệt chư
thần”,
bàn đến thế kỉ này cho đến nay các quan quyền của văn học Trung quốc
đều tiến
hành dưới các mệnh đề ngoại lai, chưa từng nhẩy ra khỏi hình bóng của
người ta.
Chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện đại, cho đến
hàng loạt
chủ nghĩa choàng thêm các định ngữ như “tân” và “hậu”, “phê phán” và
“cách
mạng”, “xã hội” và “dân tộc” và “giai cấp”, đều hoành hành trên đầu của
văn
học, khiến cho văn học hiện đại Trung quốc vốn iếu mềm bị ép chỉ còn
thoi thóp.
Phê bình văn học lại càng như thế, đếm không hết những chủ nghĩa và
những định
nghĩa phồn tạp, đè lấn văn học đến nỗi thường khi chỉ thấy cờ hiệu, khó
thấy
tác phẩm. Các chủ nghĩa của phương Tây vốn tự thân đều có đất đai sinh
trưởng,
nguồn xa dòng dài, Lỗ Tấn chủ trương nắm lấy đem về cố nhiên là không
sai,
nhưng chủ nghĩa nắm về, ắt quá ư cực đoan. Huống chi có thể đều nắm về
được không?
Tôi cho là không tất nhiên phải chiếu theo con đường của văn học phương
Tây
hiện đại mà đi lại từ đầu chí cuối. Nắm về được bao nhiêu thì bấy
nhiêu, tác gia
bỗng chốc hoá ra đồ chơi của chính mình, còn cái chủ nghĩa nguyên gốc
kia đã ba
chân bốn cẳng dông mất, có biện chứng thêm nữa, đã chẳng tất iếu, lại
càng chẳng
nên giở bướng mà khiêng vác cờ hiệu của người khác.
Sáng
tác văn học từ trước tới
nay là con sóng trào của tâm huyết cá nhân tác gia, với chủ nghĩa chẳng
có bao
nhiêu quan hệ. Ví bằng đi diễn dịch một loại chủ nghĩa nào đó, khẳng
định là
tác phẩm ấy phải gặp tai ương. Quả thật, những tác gia khác nhau có
những quan
niệm văn học khác nhau cùng những phương pháp nghệ thuật khác nhau,
muốn để lại
cho đời những tác phẩm không kém có sức sống, thêm những quan niệm và
phương
pháp mới mẻ nhưng rồi ra cũng có một ngày hoá lỗi thời. Tuy có quan
điểm văn
học riêng, tôi cũng nhìn một cách tôn trọng hình thức cho đến cả kĩ xảo
nghệ
thuật. Văn học phương Tây, nhất là văn học hiện đại phương Tây có rất
nhiều
quan niệm và phương pháp giúp tôi khám phá rất lớn, nhưng không nhận
rằng lôi
thẳng về như thế là có thể dẫn tới những tác phẩm tốt. Do đó, tôi càng
xem
trọng tác phẩm, không nghĩ tới chuyện dán cho mình cái nhãn hiệu chủ
nghĩa.
Năm
1981, xuất bản xong cuốn
sách của tôi Hiện đại tiểu thuyết kĩ xảo sơ thám (Lược dò kĩ thuật của
tiểu
thuyết hiện đại), vốn nghĩ muốn mở đường cho mấy cuốn tiểu thuyết của
tôi không
hợp với quy cách đương thời ở Hoa lục, Vương Mông cùng vài tác gia khác
lại
nhân đó phát biểu mấy lá thư, bèn gây ra một trường phê phán “chủ nghĩa
hiện
thực hay chủ nghĩa hiện đại”, tôi liền thành ra thuộc phái Hiện đại.
Năm 1983,
kịch Xa trạm (Trạm xe) tại Bắc kinh bị cấm diễn, tôi lại thành ra người
của
phái Hoang đản. Năm 1985, vở kịch Dã nhân (Người rừng) có hương vị tìm
về cội
nguồn, tìm đến sử thi dân gian của dân tộc Hán là Hắc ám truyện (Truyện
đen tối),
may là đương thời Hồ Diệu-bang nắm quyền, về mặt văn hoá khá cởi mở,
không bị
biến thành phái nào hết. Năm 1990, kịch Đào vong (Chạy trốn) phát biểu,
bèn bị
xếp vào phái Phản động. Tai nạn của văn học Trung quốc là ở chỗ luôn có
vị quan
toà, từ đó ấn định ra hết khuôn này đến khuôn khác, cho chính sách,
phương châm,
lộ tuyến, nguyên tắc quy phạm, kiểu mẫu phải trái, trong luồng và ngoài
luồng,
thành ra cái lệ kẻ nào không nhập dòng liền bị phê phán, quét sạch,
thanh trừng,
đánh giết, tra nhốt, xiềng xích cùng huỷ diệt.
Tôi
phải nói là, bất kể về
chính trị hay văn học, tôi không thuộc phái nào hết, không lệ thuộc chủ
nghĩa
nào hết, trong đó bao gồm cả chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa ái quốc.
Tôi cố
nhiên có kiến giải của tôi về chính trị và quan điểm của tôi về văn học
nghệ
thuật, nhưng không tất iếu đóng đinh đến chết vào trong một cái khuôn
của một
loại chính trị hoặc nghệ thuật nào. Ngày nay trong cái thời đại mà hình
thái ý
thức phân chia, đổ vỡ và li tách này, cá nhân tưởng nên duy trì sự độc
lập về
tinh thần, thái độ có thể giữ tôi cho là chỉ có cách chất nghi
[1]. Tôi
đối với cái thời thượng hoặc trào lưu, cũng giữ cái thái độ như thế.
Bởi vì,
tôi đã có cái kinh nghiệm bảo cho biết rằng vận động của quần chúng và
thị hiếu
của đại chúng, cũng như cái gọi là tự ngã, đều không thể tôn sùng, càng
không
thể mê tín.
Tôi làm một tác gia lưu vong, chỉ có thể cứu mình trong sáng tác văn
học và
nghệ thuật. Đó không hề phải là bảo rằng tôi chủ trương cái gọi là văn
học
thuần tuý, là loại văn học tháp ngà hoàn toàn thoát li xã hội. Chính
ngược lại,
tôi đem sáng tác văn học làm một loại khiêu chiến của mạng sống cá nhân
đối với
xã hội, nào có sợ loại khiêu chiến đó kì thật nhỏ nhoi đến không đáng
nói, rốt
ráo ra là một cái thái độ.
Văn học
một khi thoát li cái
công lợi của hiện thực, mới thắng được cái tự do trọn vẹn. Văn học là
một thứ
xa xỉ mà loài người sau khi lo toan sinh tồn được rồi mới có; con người
sở dĩ
cần thiết hưởng thụ chút xa xỉ đó, ấy là một chút kiêu ngạo của tác giả
cũng
như của độc giả. Đó cũng là tính xã hội của văn học, đối với xã hội
hiện thực ý
vị của nó có gộp phần phơi bầy, phê bình, khiêu chiến, lật nhào, và
siêu việt.
Tuy
nhiên, đem cái tính xã
hội của văn học mà chỉ hạn chế vào trong cái khuôn chật hẹp của chức
năng chính
trị hoặc phép tắc luân lí, đem biến văn học thành sự tuyên truyền cho
chính trị
và thuyết giáo cho đạo đức, thậm chí thành cái công cụ của đấu tranh
phe đảng
chính trị, ắt đó là bất hạnh cho văn học. Văn học của đại lục
Trung quốc
cho đến nay còn chưa từ trong vòng đó giải thoát được. Văn học hiện đại
của
Trung quốc trong thế kỉ này bị đấu tranh chính trị làm cho mệt nhoài
chịu hết
nổi, từ cuối thế kỉ trước đến cuối thế kỉ này, tác gia Trung quốc rốt
cuộc
chiếm được cái cơ hội này, để bò ra khỏi cái hang ổ của “văn dĩ tải
đạo”, để có
thể đưa ra tiếng nói của cá nhân.
Văn học
từ nguồn cội vốn là
sự tình của cá nhân, chẳng ngại có thể một phen làm sự nghiệp của cá
nhân, cũng
có thể chỉ thoải mái tình tự phân phát hứng thú, hoặc làm ra điên dại
để nói
tiếng riêng trong lòng, đủ đầy với cái tôi, đương nhiên cũng có thể can
dự vào
chính trị đương thời. Điều quan trọng chỉ là chớ có cưỡng ép người
khác, dĩ
nhiên cũng không thể chấp nhận việc cưỡng bách thêm những hạn chế, bất
kể thứ
loại hạn chế đó mang loại danh nghĩa gì, quốc gia hay chính đảng, dân
tộc hay
nhân dân, lấy loại trừu tượng của ý chí tập thể mang nhiều quyền lực đó
thì đều
chỉ chèn chết văn học thôi.
Cá
nhân iếu mềm, một kẻ
tác gia, trơ trụi một thân, giáp mặt với xã hội, phát ra tiếng nói của
mình,
tôi coi đó mới là tính gốc của văn học, từ xưa tới nay, Trung quốc
ngoại quốc,
phương Đông phương Tây, chưa từng có bao nhiêu thay đổi. Còn như tác
gia bày tỏ
ra sao, phương pháp và kĩ thuật, còn là thứ iếu. Đầu tiên là có chuyện
cần nói,
rồi mới đến nói năng ra sao, tức là quan hệ hỗ tương của nội dung và
hình thức,
văn học chỉ có trước là xác nhận sự tất iếu của tồn tại tự thân, mới có
thể bàn
đến nghệ thuật từ đó mà đến.
Trong
văn học sử của
hiện đại phương Tây thế kỉ 20, từng chủ nghĩa và trào lưu môn phái đắp
đổi,
dường như ngẫu nhiên tương phản, hình thức và phương pháp chừng như
thành ra
động lực diễn biến của văn học. Đó cũng là bởi các quốc gia phương Tây
đã hoàn
thành trước cái diễn biến của chủ nghĩa tư bản hiện đại, nên sự tự do
phát biểu
của tác gia đã thành ý thức công cộng. Đương nhiên cũng còn có từng
thời phát
sinh sự áp bách của quyền lực chính trị đối với tác gia, ví dụ như chủ
nghĩa Phátxít
ở Đức, ở Tây ban nha, như chủ nghĩa cộng sản cực quyền ở Ngasô, tác gia
bất đắc
dĩ chỉ còn cách lưu vong. Điều đó tiến thêm một bước thúc đẩy thành sự
quốc tế
hoá của trào lưu tư tưởng văn học hiện đại phương Tây. Tác gia từ trong
ý thức
dân tộc quốc gia giải thoát ra, hoàn toàn lấy thân phận cá nhân mà đối
mặt với
thế giới, chỉ dựa vào chính mình để viết trong trách nhiệm với ngôn
ngữ, nghệ
thuật của ngôn ngữ ắt ở vào vị trí đầu; cách nói như thế nào liền tự
nhiên thay
thế cho việc nói cái gì.
Chính
trong cái ý nghĩa
đó mà tôi coi trọng ngôn ngữ, nhưng tôi không thể thừa nhận rằng nghệ
thuật của
ngôn ngữ lại bao gồm cả văn học. Đến khi vì bản thân mình chiếm được
cái tự do
bày tỏ, tôi mới dốc lòng vào ngôn ngữ. Tôi có lúc còn chơi văn giỡn chữ
nữa, nhưng
cái đó không thể nào là mục đích cuối cùng trong sáng tác của tôi. Chơi
văn
giỡn chữ đối với tác gia thường khi lại là một cái hố sụp, nếu đằng sau
sự du
hí kia không thể truyền đạt cái ý nghĩa thường khó truyền đạt, ví bằng
chơi
giỡn càng thông minh, càng đẹp đẽ, cũng bỗng nhiên chỉ là một thứ hình
thức
ngôn ngữ rỗng tuếch. Tôi sở dĩ kiếm tìm phương thức bày tỏ mới, ấy chỉ
bởi vì
ngôn ngữ của quy tắc thông thường hạn chế tôi, không có cách nào tôi có
thể bày
tỏ và truyền đạt được những cảm thụ của mình mười phần xác thiết. Tôi
cố gắng
theo đuổi cách có thể càng bày tỏ được cái cảm thụ của riêng cá nhân
tôi.
Các
tác gia phương Tây
là [Marcel] Proust, [James] Joyce và phái Tiểu thuyết Mới ở Pháp đã
giúp tôi
rất nhiều khám phá; họ đối với việc theo dõi í thức và tiềm thức cũng
như cho
tới việc kiến tạo góc độ kể chuyện cũng xui khiến tôi nghiên cứu những
sai biệt
giữa Hán ngữ và ngôn ngữ phương Tây. Sau đó tôi phát hiện ra rằng có
tính không
định hình trong Hán ngữ: chủ ngữ và tân ngữ [vị ngữ] có thể đổi chỗ một
cách tự
do; động từ không nhân xưng; không có hình thái lệ thuộc vào thời gian;
chủ ngữ
có thể tỉnh lược; cho đến những câu không có đại từ nhân xưng được sử
dụng một
cách phổ biến. Vốn những thứ đó từ sách Mã thị văn thông cho tới nay
theo khuôn
sáo của ngữ pháp phương Tây mà soạn ngữ pháp cho Hán ngữ đều phải nên
viết lại.
Từ biết bao cơ chế kết cấu của Hán ngữ có thể dẫn tới việc mở ra những
phương
pháp bày tỏ càng tự do hơn; riêng tôi xưng là có ngữ pháp của dòng ngôn
ngữ có
manh mối là từ đó.
Đem
so sánh Hán ngữ với
ngôn ngữ phương Tây mang tính phân tích, nhân xưng chủ ngữ cùng với
hình thái
thời gian [động từ biến đổi theo các thì] không bị hạn chế nhiều nhặt
gì, khi
bày tỏ hoạt động ý thức của con người thì sự sử dụng ngôn ngữ sống động
cả mười
phần, mà có lúc còn quá linh hoạt, đến nỗi thường dễ tạo thành khuyết
điểm về
tư duy và sự hàm hồ về ý nghĩa. Tôi một mặt tìm kiếm một loại Hán ngữ
có thể
bày tỏ cái cảm thụ của con người hiện đại một cách phong phú và thân
thiết, đã
viết ra một tràng những tiểu thuyết trung thiên và đoản thiên, cho mãi
tới cuốn
Cấp ngã lão gia mại ngư can (Mua cần câu cho cha tôi), mới nhìn ra manh
mối.
Hiện thực, hồi ức, và tưởng tượng, trong Hán ngữ đều phơi bày ra cái
tính hiện
thời của vĩnh hằng với quan niệm siêu việt ngữ pháp, nên cũng thành ra
vượt cả
quan niệm thời gian của dòng ngôn ngữ, suy ngẫm và cảm giác, ý thức và
tiềm
thức, tự thuật và đối thoại và độc thoại nội tâm, nào có sợ gì là cái
dị hoá
của ý thức tự ngã; tôi bằng vào những quán sát bình tịnh đó, mà vừa
không chọn
dùng các phân tích tâm lí và phân tích ngữ nghĩa trong tiểu thuyết của
phương
Tây, vừa thống nhất những dòng chảy tuyến tính trong ngôn ngữ. Cuốn
tiểu thuyết
trường thiên của tôi là Linh sơn về hình thức và kết cấu là do loại
ngôn ngữ tự
thuật đó dẫn đạo mà ra.
Nhân
tiện, xin nói một
câu, ở đại lục có một nhà ngôn ngữ học trẻ tuổi tên là Thân Tiểu-long
có một
nghiên cứu đáng cho những tác gia dùng Hán ngữ để sáng tác phải chú ý,
bởi vì
hiện nay rất nhiều lí luận văn học đều xây dựng trên cơ sở của ngôn ngữ
phương
Tây mang tính phân tích, bỏ quên những đặc điểm về kết cấu của Hán ngữ.
Hán ngữ
bị Âu hoá đã tràn lan đến thành tai hoạ, có lúc thậm chí còn khiến đọc
không
nổi. Vấn đề đó từ vận động tân văn hoá thời Ngũ tứ cho tới nay một mạch
vẫn tồn
tại; tôi cho là vấn đề việc hấp thu ngôn ngữ phương Tây cùng với việc
Âu hoá
Hán ngữ nên phải tách bạch ra. Tôi chẳng phải nhất luật phản đối sự
dùng ngôn
ngữ phương Tây để làm phong phú Hán ngữ hiện đại; nói đến chuyện trách
nhiệm
đối với ngôn ngữ, tôi ra sức noi theo cách kết cấu cố hữu của Hán ngữ,
không
viết ra cái loại Trung văn mà nghe không hiểu được, tức là chơi giỡn
ngôn ngữ,
làm cho những câu bày tỏ theo lối thường không thể truyền đạt được nội
dung,
lại còn hi vọng rằng vẫn làHán ngữ hiện đại tinh ròng, ấy là ranh giới
tôi tự
quy định cho mình. Tuy vậy, tôi không chơi ngôn ngữ theo lối máy vi
tính, bởi
vì rốt ráo ra tôi không phải là một bộ máy về ngôn ngữ.
Hán
ngữ hiện đại không
còn hồ nghi gì còn đang chờ phát triển; các tác gia khác nhau tự nhiên
là có
những cống hiến khác nhau. Tôi rất là vui đọc ngôn ngữ của Thương Cầm,
những
câu kết cấu phức tạp của ông như hát liền một hơi mà thành, không hề có
một chữ
nào bị chuế. Thơ của Hạ Vũ tôi biết là nhờ Trịnh Sầu-dư khen ngợi với
tôi, bà
có lúc chân thật giản dị mà xúc động đến kinh người, lại có lúc ngôn
ngữ tinh
ma mà tràn đầy tiết tấu. Trong số các nhà tiểu thuyết cách tân ngôn
ngữ
có Vương Mông, ông mênh mông tự tại, bén nhọn mà hóm hỉnh đều gồm đủ.
Nhà thơ
như Dương Luyện, đối với ngôn ngữ và văn thể có rất nhiều thử nghiệm
đặc biệt
thấy ở tập thơ trường thiên mang tên OH của ông. Còn có những tác gia
dùng khẩu
ngữ sống động cùng phương ngôn để viết, tôi cho là đều có công đóng góp
vào
việc làm giàu cho Hán ngữ hiện đại. Tôi khi biến đổi hình thức của câu,
tìm
những phương thức bày tỏ mới, cũng coi trọng khẩu ngữ và phương ngôn
như thế.
Các tác phẩm văn học Hán ngữ ví như viết xong chỉ thành văn tự cung ứng
cái đọc
giải trí mà mất đi cảm xúc về ngôn ngữ, thì hoá ra trò chơi lãng phí
trí lực
của đầu óc, hoặc là thứ văn của tiểu thuyết phiên dịch trúc trắc, ắt là
đọc
không vô. Lấy khẩu ngữ và phương ngôn đưa vào ngôn ngữ văn học cũng là
một loại
sáng tạo. Nói đến ngôn ngữ văn học hiện đại, không phải chỉ có Roland
Barthes
cùng với khuynh hướng của chủ nghĩa giải cấu (deconstructionism). Tác
gia nước
Pháp là Louis-Ferdinand Céline dùng khẩu ngữ tươi rói cùng tiếng nói
thông tục
sáng tác ra cứu giúp cho văn học tiên phong đã giúp cho tôi có được một
thứ
khải thị riêng khác. Văn học có mang tính hiện đại hay không vốn không
phải ở
việc hành văn có mắc mỏ hay không, còn như hiện đại tính là gì tôi cho
là điều
còn phải bàn. Cuốn Linh sơn và mấy vở kịch của tôi như Bỉ ngạn (Bờ
kia), Sinh
tử giới (Mép bờ sống chết), ấy là tôi toan tính dùng hai mặt để mở rộng
sức
biểu hiện của Hán ngữ hiện đại mà một phen ra sức.
Đối
với sự theo đuổi
ngôn ngữ trong đó có lúc lại khiến tôi không tránh khỏi phải hoài nghi
về khả
năng của ngôn ngữ. Rốt cuộc ngôn ngữ có khả năng trọn vẹn diễn tả cảm
xúc chân
thật của con người hay không? Kinh nghiệm của riêng tôi tỏ rõ, càng móc
trọn
tâm tư để tới cùng tận sức biểu hiện của ngôn ngữ, ngược lại càng xa
rời cảm
xúc chân thật. Ngôn ngữ chỉ là công cụ bày tỏ của con người, bản thân
nó vốn
không tạo thành mục đích. Từ Ludwig Wittgenstein cho tới nay, ngôn ngữ
học
đương đại phương Tây bao nhiêu là loại nghiên cứu, cố nhiên đào sâu
thêm sự
hiểu biết của con người đối với ngôn ngữ, nhưng thế giới hiện thực bao
gồm luôn
cả sự tồn tại của tự thân con người vẫn ở bên ngoài ngôn ngữ. Đem văn
học biến
thành thứ phụ tuỳ cho ngôn ngữ học, thì thứ văn học xây dựng trên sự
phân tích
ngữ nghĩa ngày càng thành ra một nẻo đường chết của văn học đương đại.
Do đó
tôi có lúc lại cố ý phá hoại ngôn ngữ, điều đó trong vở kịch của tôi
mang tên
Đối thoại dữ phản cật (Đối thoại và hỏi vặn) càng thấy rõ. Trong các
công án
của Thiền tông, tính chất phi luận lí ý ở ngoài lời (ý tại ngôn ngoại)
lại khai
mở cho tôi là có thể giữ một thái độ khác đối với ngôn ngữ. Tôi bèn
quay lại ở
chỗ giữa hai thứ đó; do vậy, tôi tuy mười phần coi trọng ngôn ngữ,
nhưng lại
không chấp trước vào ngôn ngữ . Nhìn lại ở chỗ văn học đương đại mê
luyến vào
cái ma chướng của ngôn ngữ mà quên lối về còn có lúc may lúc rủi phản
hồi bị
lối phân tích ngôn ngữ nhốt ở trong ngoặc của cái thế giới chân thật
kia.
Những
kẻ sĩ hiểu biết
trong số các tác gia ở Pháp gần đây bắt đầu kêu gọi trở về lại với thứ
chân
thật đó; gần hai mươi năm nay, nguy cơ của văn học phương Tây thường
nằm ở chỗ
lạc lối trong hình thức ngôn ngữ. Đối với hình thức mà khăng khăng canh
tân ví
bằng đánh mất liên hệ với thế giới chân thật, thì văn học ắt mất đi
sinh mệnh
của mình. Tôi coi trọng hình thức, lại càng coi trọng chân thật. Chân
thật ấy
không chỉ giới hạn vào hiện thực bên ngoài, mà càng nằm ở cái cảm xúc
tươi rói
của con người sinh hoạt trong hiện thực. Văn học dựa vào ngôn ngữ chính
vì bày
tỏ và truyền đạt thứ chân thật đó, mà lại còn trợ giúp cho tưởng tượng
và hư
cấu.
Các
tác gia ở Trung
quốc đại lục, Đài loan, Hương cảng cho đến lưu vong kiều cư ở
phương Tây,
một sớm vượt thoát hoặc trốn thoát hoặc tự mình giải thoát được những
hạn chế
đủ thứ quàng ép trên đầu của văn học, chỉ đối mặt dùng Hoa ngữ mà sáng
tác,
cũng giống như các tác gia phương Tây gặp phải các khốn khó nghi hoặc
hiện ra ở
nghệ thuật ngôn ngữ. Văn học đương đại Trung quốc vội vội vàng vàng
theo các
thứ phương pháp của văn học hiện đại phương Tây mà rập lại một lần nữa
từ đầu
chí cuối, thực sự đã mang lấy cái nghiệp nhập vào cái trào lưu của văn
học thế
giới đương đại; cái khủng hoảng của văn học đương đại phương Tây cũng
bày ra
như thế trước mặt văn học Trung quốc hoặc văn học Hoa ngữ theo nghĩa
rộng. Vấn
đề cũ tựa hồ như có thể kết thúc, vấn đề mới lại ở chỗ nào?
Đầu
mối của vấn đề cũng
có thể khởi bàn từ văn học phương Tây. Văn học hiện đại Trung quốc nằm
dưới cái
bóng của phương Tây trong lịch sử từ một thế kỉ cho đến nay là một cái
sự thật;
tác gia Trung quốc như quả muốn phát xuất tiếng nói ít nhiều không
giống với
người ta, ắt là không thể không hiểu rõ những gì người khác đã từng làm
qua.
Tôi đối với văn học hiện đại phương Tây có hứng thú chính là vì nó đem
lại cho
tôi một vài tham chiếu, khiến cho tránh khỏi rơi vào chỗ lập lại con
đường
người khác đã đi qua. Sáng tác văn học sở dĩ có cái thú chính là ở chỗ
cá nhân
còn có cái độc lập và cái không lập lại. Tạo thành nguyên tắc nói ra dễ
dàng,
con người sự thật thường thường sống trong cái bóng của kẻ khác, đặc
biệt đương
khi bạn ở trong lúc thưởng ngoạn tác gia nào đó hoặc tác phẩm nào đó.
Kinh
nghiệm của tôi là rán sức kéo xa khoảng cách. Samuel Beckett từ suy tư
hướng
tới cái hoang đản, còn tôi lại từ sinh hoạt trong hiện thực cũng phát
hiện ra
lần nữa cái hoang đản ở tôi nên có thứ tính cách của hiện thực, tôi
không hề
coi rằng hoang đản và hiện thực có chút nào trái khoáy. Beckett lấy cái
hoang
đản mà phú cho nó cái sắc thái của bi kịch, còn tôi thì chẳng thà quay
về với
hỉ kịch. Loại kịch tiên phong như thế ở phương Tây bài trừ lối tả thực,
còn tôi
trong kịch thực nghiệm lại thường dựa vào cuộc sống hiện thực. Kịch
tiên phong
của phương Tây quyết liệt tuyên xưng phản kịch, còn tôi trái lại quay
ngược về
khởi nguồn của kịch truyền thống Trung quốc, vãn hồi trở lại cái kịch
tính và
tính sân khấu mà kịch đương đại thường bỏ rơi, hơn nữa, lại còn cố gắng
từ phép
làm kịch đến phương pháp biểu diễn đi tìm cách thực hiện những khả năng
mới cho
tính kịch và tính sân khấu.
Tôi
phải thừa nhận là
văn học hiện đại đương đại Tây phương đối với tôi có sức kích thích lớn
lao
vượt xa so với văn học Trung quốc cùng thời kì. Từ Vận động Ngũ tứ cho
đến nay
nền tân văn học bị nhốt vào các hạn chế của hoàn cảnh xã hội và chính
trị Trung
quốc, nói chung trên đầu văn học bị quàng ép biết bao nhiêu là thứ
tranh luận
khốn khó quấy nhiễu không ngừng, mà khiến cho không còn rảnh rỗi để
chăm lo tới
những vấn đề của bản thân văn học. Mấy thứ tranh luận quàng ép vào bản
thân văn
học đó đối với bản thân của riêng sáng tác văn học vốn không có quan hệ
gì và
nên chấm dứt cho rồi. Hôm nay, tác gia Trung quốc, hay nói cho xác
thiết hơn,
tác gia Hoa ngữ vượt trên những hạn chế của hình thái chính trị và ý
thức có
thể tụ họp một nhà như thế này, ít nhiều cũng là một dấu hiệu tốt lành.
Ngày
nay đã không còn
là một thời đại đóng cửa để cầy ruộng đọc sách nữa, phương Đông phương
Tây cho
đến văn hoá các dân tộc của thế giới chảy liền với nhau, nói về mặt kĩ
thuật đã
không còn trở ngại gì lớn nữa. Một tác gia theo đuổi việc sáng tác chỉ
có trách
nhiệm với văn viết của chính mình, còn đối với văn hoá mà mình có hứng
thú của
nhân loại từ xưa đến nay, có thể tha hồ hấp thu, tiêu hoá vào trong
sáng tác
của mình. Còn nói về thái độ sáng tác, tôi cho rằng tác gia Trung quốc
cũng như
phương Tây đã chẳng còn bao nhiêu là hai dạng. Thực ra, rất nhiều tác
gia đều
mang theo chút nuôi dưỡng thâm sâu của văn hoá dân tộc, thì trong tác
phẩm tự
nhiên là có cái phản ánh của nó, điều đó so với việc cố ý tự dán cho
mình cái
nhãn hiệu văn hoá dân tộc, để vui lòng người khác, dùng để chào hàng,
là hai
chuyện khác hẳn nhau. Tác gia lưu vong của Balan là Witold Gombrowicz
nói rất
hay, rằng Balan là ở nơi người của ông. Có lúc ông còn đem cả mánh lới
của tiểu
thuyết trinh thám Mĩ dùng trong tác phẩm của ông, mà vẫn khiến người ta
tự
nhiên cảm thấy cái cô đơn và lạnh lẽo của Đông Âu. James Joyce trong
tác phẩm
Ulysses tuy lấy bối cảnh quê hương nhưng chẳng ai lại cho rằng đó chỉ
là một bộ
tiểu thuyết miêu tả cuộc sống ở Ái-nhĩ-lan mà thôi. Hai vị đó đều không
một lần
về lại cố hương.
Lưu
vong ở phương Tây
đối với tôi chẳng phải là điều tồi tệ, trái lại còn cung cấp cho tôi
rất nhiều
tham chiếu. Cuốn Linh sơn và
cuốn Sơn hải kinh truyện tôi
hoàn thành ở
nước
ngoài đã kết liễu cho tôi cái gọi là mối sầu cố hương. Cuốn trước khơi
từ cảm
xúc đối với hiện thực văn hoá Trung quốc, cuốn sau là những suy tư và
khảo sát
đối với khởi nguyên của văn hoá Trung quốc, đều mất nhiều năm tâm huyết
để viết
ra. Con người một sớm lìa khỏi cái gọi là tổ quốc có một thứ khoảng
cách, viết
ra văn càng tĩnh càng lạnh. Văn hoá Trung quốc đã chan hoà trong dòng
máu của
tôi, chẳng cần dán trên mình nhãn hiệu thương mãi. Văn hoá Trung quốc
mặt trái
và mặt phải, tôi đã tự làm công cuộc trang trải. Điều quan trọng với
một tác
gia là phải vượt thoát ra, có sáng tạo gì, thì chẳng cần dựa vào việc
xoay sở
biến cái di sản của tổ tông đem ra bán để sống qua ngày. Công cuộc văn
học kia,
nói thêm lần nữa, từ trước tới giờ, đều nhờ vào việc làm của cá nhân,
không
giống với sự nghiệp phúc lợi của công chúng, được dựa vào các giới của
xã hội
gồm luôn sự hiệp lực của chính phủ mà hoàn thành. Mà ngược lại, bất kể
sự can
dự mang hình thức nào của ý chí tập thể cũng chỉ đều càng tác động càng
nát
bấy. Tác gia vốn không phải là đại biểu cho văn hoá dân tộc, cũng không
phải là
người phát ngôn cho đại chúng nhân dân, còn như bất hạnh mà mắc vào
thành đại
biểu hoặc phát ngôn nhân, thì tác gia ấy ắt chẳng thể tránh khỏi mặt
mũi chẳng
ra gì.
Vở
kịch Đào vong (Chạy
trốn) có thể nói rằng dẫn khởi từ sự kiện Thiên an môn; vốn là có một
kịch viện
ở nước Mĩ iêu cầu tôi lấy bối cảnh của hiện thực Trung quốc, rút ra mà
viết
thành vở kịch có tính cách triết học chính trị, nhưng lại không có anh
hùng;
người Mĩ kia iêu cầu tôi sửa lại, tôi bèn rút vở kịch về, lại tự mình
lo trả
cho phí tổn phiên dịch. Tôi sáng tác tự có điều tôi muốn nói, không
nghĩ tới
chuyện phải cho hợp khẩu vị của ai. Tác gia trơ trọi một thân, giáp mặt
xã hội,
lấy tiếng nói cá nhân mà nói chuyện hoặc bày tỏ, tôi cho rằng tiếng nói
như thế
mới càng chân thật.
Văn
học đã từng lấy tự
ngã mà tôn sùng gần như địa vị của Thượng đế, đó chẳng phải là không có
lí do.
Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, nếu thực muốn coi bản thân mình
chính là
Thượng đế, nếu chẳng phát điên giống như Nietzsche kia, thì cũng khó
trốn tránh
cái vận mệnh của ngẫu tượng, rồi ra cũng ngã nhào tan thây nát xương.
Nietzsche
đã điên mà cũng đã chết rồi. Còn tự ngã theo kiểu Nietzsche ngày nay
thời đại
này cũng đã giải cấu. Cá nhân bành trướng tới vô hạn đến cái hậu hiện
đại này
chỉ lo chuyện tiêu phí đã là một huyền thoại khá xa vời, nói chung cũng
trở lại
gốc gác ở sự tự luyến của thời kì thanh xuân của con người. Siêu nhân
của
Nietzsche với việc bảo rằng đó là đầu mối của văn học hiện đại, chẳng
bằng nói
rằng đó là chung kết sau chót của chủ nghĩa Lãng mạn một thế kỉ trước.
Tự ngã
của Kafka ngược lại mới là chân dung xác thiết hơn của con người hiện
đại. Sau
ông là nhà thơ Bồ-đào-nha Fernando Pessoa sau khi chết đi mới được phát
biểu
trên mười vạn câu thơ, đối với tự ngã mổ xẻ phân tích mới lâm li rốt
ráo.
Tự
ngã ở thế giới, nhỏ
bé đến không đáng nói, nhưng tự ngã đã đó lại phong phú vô hạn, con
người trước
muôn ngàn thế giới to lớn, cái cảm cái biết tìm đến gốc soi đến đáy
cũng đến từ
cái tự ngã ấy thôi. Vấn đề hiện đại quay về đến chủ thể nhận biết,
thông qua
tấm gương tự ngã soi chiếu thế giới, sự chân thật của văn học chính là
cái chân
thật của cái cảm biết đó, còn như cái thế giới bên ngoài cái cảm biết
ấy ắt là
sự việc bên ngoài của văn học. Văn học hiện đại đối với sự xác nhận về
chủ thể
của cảm biết, dùng để thay thế cho kẻ tự thuật toàn tri toàn năng kia,
thông
thường cũng tức là tác giả, đem cái kẻ trước vốn không đặt câu hỏi về
giá trị
của luân lí phải trái gác sang một bên, đối với việc tra hỏi về tự ngã
lại dẫn
tới sự phân liệt về nhân cách. Một văn học sử của phương Tây thế kỉ 20,
không
ngại đưa ra một kết luận đơn giản, đối với tôi mà nói, tức là lấy cái
tính hiện
đại và hậu hiện đại đó thay thế cho quan niệm giá trị của truyền thống
ngày một
đổ vỡ. Từ cuối thế kỉ trước, sự phát hiện đối với tự ngã ấy lại đi đến
không
tránh khỏi mối hoài nghi đối với tự ngã. Bây giờ lại là một cuối thế kỉ.
Cái
ác chẳng phải chỉ
đến từ kẻ khác, cái tự ngã này vốn chưa từng chẳng là địa ngục, thì mối
hoài
nghi đối với tự ngã càng thêm sâu sắc. Vở kịch gần nhất của tôi Dạ du
thần
(Thần đi đêm), nếu như nói tóm tắt cái chủ đề thì là không thể chiến
thắng cái
ác. Không hề có chút nào bối cảnh Trung quốc, còn như nếu muốn tìm ra
một sự
khác biệt với tác gia phương Tây, e rằng đó là một thứ thái độ tĩnh
quan. Tôi
đối với xã hội và tự ngã đều chọn lựa một thái độ tổng quát như thế,
đương
nhiên cũng có thể nói rằng xuất phát từ truyền thống văn hoá của Trung
quốc
thâm căn cố đế khác với tác gia phương Tây thông thường chọn lối phân
tích và
thể nghiệm tâm lí. Quan niệm vô vi của triết học Lão Trang và quan niệm
xuất
thế của nhà Phật lại quá ư tiêu cực, tôi rốt ráo muốn làm một chút gì,
tôi
chẳng phải Đạo giáo cũng chẳng phải Phật giáo, cái nắm giữ chỉ là một
loại thái
độ quán tỉnh [soi xét], tôi đối với ngôn ngữ tự thuật của tiểu thuyết
và trình
diễn kịch có cái gọi là lí luận mang tính tam trùng [2] cũng đến từ cái
thái độ
ấy.
Tiếp
theo sự sụp đổ của
chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu đến chủ nghĩa dân chủ xã hội ở Tây Âu bị
nguy
ngập, thì chủ nghĩa tự do của truyền thống phương Tây cũng lần nữa mắc
vào sự
khiêu chiến nghiêm trọng của chủ nghĩa chủng tộc. Bao nhiêu là hình
thái ý thức
chống đỡ cho tinh thần của giới trí thức phương Tây cũng thi nhau tan
rã, so
với khủng hoảng tư tưởng của cuối thế kỉ trước lại càng nghiêm trọng
chính đang
kéo dài tại phương Tây, hậu quả rõ ràng là chủ nghĩa dân tộc chật hẹp
hoặc theo
bản năng khắp nơi đều cất đầu. Từ hơn một thế kỉ nay, quan niệm tôn
sùng lí
tính rằng xã hội tiến bộ không ngừng cũng có điểm đáng ngờ. Một phần tử
trí
thức Trung quốc sống tại phương Tây không ôm ấp một chủ nghĩa nào, cũng
không
thể chỉ dựa vào truyền thống văn hoá của Trung quốc để tìm cái nương
tựa, còn
có thể duy trì sự độc lập tinh thần của cá nhân hay chăng?
Tôi
chỉ có hoài nghi,
hơn nữa đối với nhất thiết các quan niệm giá trị đều hoài nghi rộng
khắp, chỉ
riêng một thứ không hoài nghi là cuộc sống, bởi vì chính tôi là một sự
tồn tại
sống động. Cuộc sống vốn có ý nghĩa vượt khỏi luân lí, tôi nếu như bảo
rằng còn
có chút giá trị, cũng chỉ ở cái tồn tại này, tôi khó có thể chấp nhận
sự tự sát
hoặc giết người về mặt tinh thần, trước khi cái chết tự nhiên kia đến.
Tôi
lấy sự sáng tác văn
học làm phương thức tự cứu, hoặc có thể nói rằng đó cũng là một phương
thức
sống của tôi. Tôi sáng tác là vì mình, không mưu cầu mua vui cho kẻ
khác, cũng
không toan tính cải tạo thế giới hoặc người khác, bởi vì ngay cả bản
thân tôi
cải biến còn không xong. Quan trọng là, đối với riêng tôi mà nói, chỉ
là tôi
nói xong, viết xong, chỉ thế mà thôi.
Văn
học có thể vượt
trên hình thái ý thức [ý hệ] đã thành chuyện mười phân rõ mười; văn học
trên
phán đoán luân lí cũng đã có Baudelaire và Dostoievski đi trước rồi.
Văn học
chỉ rời không khỏi giá trị về thẩm mĩ, còn như bi kịch, hỉ kịch, ý thơ,
quái
đản, hoạt kê cùng u mặc, đều là những gì tác gia ban cho. Một số tác
gia hiện
đại và đương đại tuy xua đuổi phán đoán luân lí ra khỏi tác phẩm, nhưng
không
thể miễn trừ sự đánh giá về thẩm mĩ của chủ quan. Điều đó vốn là một
chút quyền
lực sau chót của tác gia, cũng là lí do văn học tồn tại. Là một tác gia
tôi
gắng sức đem vị trí của mình đặt lại giữa phương Đông và phương Tây,
làm một cá
nhân, tôi lo toan sống ở bờ mép của xã hội, trong cái thời đại mà xác
thịt diễu
cợt tinh thần này, tạm mượn lời của Lưu Tiểu-phong, đối với tôi mà nói
thì là
một thứ chọn lựa khá tốt, còn như sau này có kế tục làm được hay không
tôi cũng
không biết.
Paris, ngày 15 tháng 11 năm 1993
Nguyễn
Tiến-văn dịch
Nguồn:
bài này nguyên
văn là lời phát biểu tại hội nghị 40 năm văn học Trung quốc do hệ thống
Liên
hiệp báo tổ chức tại Đài loan. In lại trong sách mang cùng nhan đề, Một
hữu chủ
nghĩa do Đại địa Đồ thư Hữu hạn Công ti tài Hương cảng xuất bản năm
1995. Bản
in lần thứ ba năm 2000; trang 8 – 17
[1]
Chất nghi: chất
chính hồ nghi: tìm sự thật, đặt câu hỏi, tìm cách xác minh về những gì
còn
hồ nghi, tới người biết hơn mà định phải trái nên chăng trong tinh thần
cầu
thị: tìm về sự thật – ND
[2]
Tức là ngôi vị của
đại từ nhân xưng dùng liên kết và hỗ tương – ND