Ông chủ và gã hầu
John Maxwell Coetzee
[1]
Nhưng hãy trở lại với gã đồng hành mới của
tôi. Tôi thích gã
biết bao, và đã dày công dạy gã tất cả những điều cần thiết để gã trở
thành một
người hữu dụng và khéo léo, nhất là để gã có thể nói chuyện với tôi và
hiểu
tôi. Gã là tên học trò sáng dạ nhất trên đời.
Daniel
Defoe, Robinson Crusoe
Boston
là một
thị trấn đẹp bên bờ biển Lincolnshire,
gã hầu của chàng viết. Ở đây có tháp chuông nhà thờ cao nhất nước Anh,
dân hoa
tiêu thường lấy đó làm mốc dẫn đường cho tàu thuyền. Quanh thị trấn là
một vùng
đầm lầy, vạc nhiều vô kể. Đó là một loài hung điểu, chúng thường cất
tiếng kêu
nặng nề, trầm thống, vang rền như tiếng vọng một khẩu súng, đến nỗi
cách xa hai
dặm còn nghe thấy.
Vùng
đầm lầy này còn
là nơi cư ngụ của nhiều loài chim khác,
gã hầu của chàng viết, nào là vịt trời, mòng két, vịt trời Bắc Cực. Và
để bắt
lũ chim này, những người dân vùng đầm lầy (thường gọi là Fen-men) nuôi
và thuần
hóa những con vịt mà họ gọi là vịt mồi.
Fens
là những dải đầm lầy dài. Những
dải đầm lầy như vậy có ở khắp mọi nơi, châu Âu và thế giới, nhưng ở
những nơi
khác chúng không được gọi là Fens. Fen là một
từ tiếng
Anh, một từ không di cư.
Những
con vịt mồi
vùng Lincolnshire
đó được nuôi trong những ao riêng, gã hầu của chàng viết. Người ta
thuần hóa
chúng bằng cách tự tay cho chúng ăn. Rồi khi mùa tới chúng được gửi ra
nước
ngoài, đến Hà Lan và Đức. Ở đó chúng gặp những con chim khác cùng loài,
và khi
chứng kiến cảnh lũ chim Hà Lan và Đức kia sống khốn khổ thế nào bởi
những dòng
sông xứ đó đóng băng vào mùa đông còn đồng ruộng thì bị tuyết phủ dày,
chúng
bèn mách bảo đám đồng loại đáng thương kia -
bằng một thứ ngôn ngữ mà bọn kia có thể hiểu -
rằng ở nước Anh quê
chúng, mọi sự đều khác: vịt nước Anh sống ở những bờ biển ê hề thức ăn,
thủy
triều thoải mái ùa vào vào các dòng sông; có hồ, có suối, có cả ao lộ
thiên lẫn
ao có mái che; lại có những thửa ruộng đầy ắp lúa mì mà những người mót
lúa để
lại; và không hề có băng tuyết, có chăng thì chỉ rất ít.
Bằng
cách mời chào ấy
- được diễn đạt bằng ngôn ngữ của loài
vịt - những con vịt mồi đã dụ dỗ được cơ man nào là bọn chim này và bắt
cóc
chúng, nếu có thể nói vậy, gã hầu của chàng viết. Chúng đưa lũ chim từ
Hà Lan
và Đức băng qua biển, về Anh, về những cái ao ở vùng đầm lầy Lincolnshire.
Dọc đường chúng vẫn không thôi quàng quạc và cạp cạp với bọn kia bằng
ngôn ngữ
của loài vịt rằng đấy chính là những cái ao mà chúng đã kể, rằng ở đây
từ rày
về sau, bọn kia sẽ được sống yên bình.
Và
trong khi chúng
đang bận rộn với lũ chim mới đến thì
những người dân đầm lầy, chủ của những con vịt mồi kia, liền rón rén
lại gần
những chỗ nấp dựng bằng sậy trên đầm lầy rồi bí mật vãi từng vốc lúa mì
lên mặt
nước; lũ vịt mồi liền sà xuống những hạt lúa nọ, kéo theo sau cả bầy
khách
phương xa. Cứ thế suốt hai ba ngày liền, chúng vừa không thôi mời gọi
rằng ở
nước Anh người ta sống thoải mái đến nhường nào, vừa dẫn đám khách vào
những
lối đi ngày mỗi hẹp, mỗi lúc một gần tới chỗ người ta đã giăng lưới sẵn.
Thế
rồi chủ những con
vịt mồi liền thả chó ra, bọn chó này
đã được huấn luyện tuyệt hảo để bơi đuổi theo lũ chim, vừa bơi vừa sủa.
Hoảng
hốt đến cùng cực bởi cái sinh vật khủng khiếp này, lũ chim chực bay
lên, nhưng
lưới giăng kín ở bên trên buộc chúng phải sà xuống nước, thế là chúng
buộc phải
bơi dưới tấm lưới nếu không muốn bỏ mạng. Nhưng lưới càng lúc càng thít
chặt
như một cái túi, và bọn chủ vịt mồi đã chực sẵn ở miệng túi để túm cổ
lôi ra
từng con một. Bọn vịt mồi được vuốt ve khen ngợi. Còn những vị khách
của chúng
thì bị người ta đập chết ngay tại chỗ, vặt lông đem bán hàng trăm con,
thậm chí
hàng ngàn con.
Tất
cả những sự kiện
này về Lincolnshire
đã được gã hầu của chàng chép lại bằng nét chữ rõ, nhanh, với những
ngòi bút mà
gã vót mỗi ngày bằng chiếc dao nhỏ trước khi sang trang mới.
Ở Halifax
- gã
hầu của chàng viết - có một dụng cụ hành hình mà tới thời Vua James mới
bị dẹp
bỏ; nó vận hành như thế này: người ta kê đầu kẻ bị kết án lên chiếc đà
ngang
hay cái lỗ máy chém; sau đó đao phủ bật cái chốt giữ thanh dao nặng.
Thanh dao
trượt xuống dọc theo một cái khung cao bằng cánh cửa nhà thờ và cứa đứt
đầu kẻ
kia, gọn như dao của anh hàng thịt.
Nhưng
ở Halifax
người ta đồn rằng nếu từ lúc cái chốt bật ra cho đến lúc thanh dao rơi
xuống mà
kẻ bị kết án có thể bật dậy chạy xuống đồi, bơi qua sông mà đao phủ
không bắt
lại kịp, gã sẽ được tha mạng. Nhưng suốt ngần ấy năm cỗ máy đứng lù lù
ở Halifax,
điều đó chưa bao giờ xảy ra.
Chàng
(lúc này không
phải gã hầu của chàng mà chính chàng)
đang ngồi trong căn phòng của mình bên cảng Bristol
và đọc những điều trên. Chàng đã già đi, hầu như có thể nói giờ đây
chàng đã là
một ông già. Da mặt chàng, vốn gần như đen sạm vì mặt trời nhiệt đới
trước khi
chàng làm một chiếc ô bằng lá cọ hay lá palmetto để che nắng, nay đã
nhợt nhạt
hơn nhưng vẫn còn rám nâu như giấy da thuộc; trên mũi chàng có một vết
bỏng vì
nắng chẳng bao giờ lành.
Chiếc
ô vẫn còn đó
trong phòng chàng, dựng ở một góc, nhưng
con vẹt đã về đây cùng chàng thì không còn nữa. Robin tội nghiệp! Nó
thường đậu
trên vai chàng và kêu toáng lên, Robinson Crusoe tội nghiệp! Ai sẽ cứu
chàng
Robin tội nghiệp? Vợ chàng chịu không thấu lời than van của con vẹt từ
sáng đến
tối: Robin tội nghiệp. Em sẽ vặn cổ nó, nàng nói, nhưng nàng không đủ
can đảm
để làm vậy.
Khi
trở về Anh quốc
từ hòn đảo của chàng cùng con vẹt, chiếc
ô và cái hòm đầy châu báu, có một dạo chàng sống cuộc đời bình lặng với
người
vợ cũ ở cơ ngơi chàng mua tại Huntington bởi chàng đã thành người giàu
có, lại
càng giàu hơn sau khi cho in cuốn sách kể lại những cuộc phiêu lưu của
chàng.
Song những năm tháng sống trên đảo, sau đó là những năm chu du cùng với
gã hầu
của chàng là Thứ Sáu (Thứ Sáu tội nghiệp, chàng tự than vãn, quạc quạc,
vì con
vẹt chẳng bao giờ muốn kêu tên Thứ Sáu, nó chỉ kêu tên của chàng) đã
khiến
chàng cảm thấy cuộc sống của một địa chủ thật buồn tẻ. Và, nói thật,
cuộc sống
vợ chồng cũng khiến chàng thất vọng đau đớn. Chàng ngày một năng lui
tới chỗ
tàu ngựa, đến chỗ những con ngựa của chàng mà, may thay, không biết nói
huyên
thuyên mà chỉ hí lên dịu dàng khi chàng đến để tỏ ra chúng biết chàng
là ai,
sau đó lại im lặng.
Ở
đảo, hồi Thứ Sáu
chưa đến, chàng đã quen sống một cuộc
sống lặng lẽ, giờ đây chàng cảm thấy thế giới này quá nhiều lời. Nằm
trên
giường bên vợ, chàng cảm thấy như có một trận mưa sỏi trút lên đầu, rào
rào lạo
xạo không dứt trong khi chàng chỉ muốn một điều duy nhất là được ngủ.
Thế
nên khi vợ chàng
trút linh hồn, chàng để tang nhưng
không buồn khổ. Chàng chôn cất nàng, đợi một thời gian cho phải phép
rồi thuê
căn phòng này ở khu The Jolly Tar (Thủy Thủ Vui Nhộn) bên cảng Bristol,
chỉ
mang theo chiếc ô lấy từ hòn đảo đã khiến chàng nổi tiếng cùng con vẹt
chết bám
trên song và vài vật dụng cần thiết; quyền cai quản cơ ngơi ở
Huntington, chàng
để lại cho con trai. Và từ đó chàng sống một mình ở đây, ngày lại ngày
thơ thẩn
trên các kè sông và bến nổi, miệng ngậm tẩu đăm đắm nhìn ra biển về
phía tây
bởi mắt chàng còn tốt lắm. Bữa ăn chàng sai mang lên tận phòng bởi
chàng chẳng
còn hứng thú gì việc giao du với thiên hạ, chàng đã quen với sự cô đơn
trên đảo
rồi.
Chàng
không đọc gì,
chàng không còn thú đọc nữa; nhưng bằng
việc ghi chép lại những chuyến phiêu lưu, thói quen viết đã hình thành
ở chàng;
đó cũng là một thú giải trí vui vui. Buổi chiều trong ánh nến chàng lấy
giấy
ra, vót ngòi bút rồi viết một hai trang về gã hầu của chàng, kẻ vẫn gửi
những
bản tường thuật cho chàng về chuyện những con chim mồi vùng
Lincolnshire và về
cỗ máy hành hình ở Halifax mà người ta có thể thoát chết nếu trước khi
lưỡi dao
đáng sợ rơi xuống người ta có thể bật dậy chạy xuống đồi, và về nhiều
thứ khác
nữa. Đi tới đâu gã cũng gửi những bản tường thuật, ấy là việc hàng đầu
của gã,
anh bạn luôn bận rộn của chàng.
Trong
khi tha thẩn
dọc bức tường bến cảng mà nghĩ ngợi về cỗ
máy ở Halifax, chàng - Robin, kẻ mà con vẹt thường gọi là Robin tội
nghiệp -
thả một hòn sỏi rồi lắng nghe. Một giây, không tới một giây, nó chạm
mặt nước.
Ân sủng của Chúa thì nhanh, nhưng cái lưỡi dao to gộc bằng thép tôi
kia, nặng
hơn một hòn sỏi và tra mỡ bò, chẳng lẽ nó không thể nhanh hơn sao? Có
bao giờ
ta tránh nó được? Và giống người nào có thể lăng xăng chạy suốt từ đầu
nọ tới
đầu kia vương quốc, từ cảnh chết này tới cảnh chết kia (đập đầu, cắt
cổ) và gửi
hết bản tường thuật này tới bản tường thuật nọ?
Một
người của công
việc, chàng thầm nghĩ. Cứ để gã là người
của công việc, là nhà buôn hạt giống hay da thuộc chẳng hạn; hoặc là
nhà sản
xuất và cung cấp ngói lợp ở bất cứ nơi nào có nhiều đất sét, như ở
Wapping
chẳng hạn, và phải đi lại nhiều để lo việc làm ăn. Cứ cho gã giàu có,
cho gã
một cô vợ yêu thương gã, không lắm mồm và đẻ con cho gã, chủ yếu là con
gái;
cho gã hạnh phúc vừa phải; thế rồi hãy khiến cho hạnh phúc của gã đột
ngột chấm
dứt. Một mùa đông nọ dòng Thames dâng cao, lò nung gạch, cửa hàng hạt
giống hay
xưởng thuộc da đều bị lũ cuốn trôi; gã hầu của chàng bị khánh kiệt,
những chủ
nợ bâu vào gã như ruồi như quạ, gã phải bỏ nhà, bỏ vợ con, phải cải
trang và
mai danh ẩn tích, nương náu ở khu ổ chuột tồi tàn nhất của Beggars
Lane. Và tất
cả điều đó - sóng nước, sạt nghiệp, trốn chui trốn nhủi, không xu dính
túi, áo
quần tổ đỉa và nỗi cô đơn - hãy để cho tất cả trở thành hồi ảnh[2] về
vụ đắm
tàu và hòn đảo nơi mà chàng - Robin tội nghiệp - đã bị tách lìa khỏi
cuộc đời
suốt hai mươi sáu năm cho đến khi chàng hầu như hóa điên (mà thật ra,
ai dám
nói chàng đã không điên, ở mức độ nào đó?).
Hoặc
hãy cho gã là
người thợ làm yên ngựa có nhà, có cửa
hàng và xưởng thợ ở Whitechapel, có một nốt ruồi trên cằm và một cô vợ
yêu gã,
không lắm mồm và đẻ con cho gã, chủ yếu là con gái và mang lại cho gã
nhiều
hạnh phúc, cho tới khi bệnh dịch ập xuống thành phố, đó là năm 1665 khi
mà trận
hỏa hoạn lớn ở London chưa xảy ra. Bệnh dịch ập xuống London: mỗi ngày,
từ giáo
xứ này qua giáo xứ nọ, số người chết tăng dần, cả người giàu lẫn kẻ
nghèo, bởi
bệnh dịch không phân biệt tình cảnh của người này với người kia, toàn
bộ mớ của
cải của tay thợ làm yên ngựa này cũng không thể cứu được gã. Gã gửi vợ
con về
quê rồi âm thầm lập kế hoạch chạy trốn cho chính mình, nhưng rồi gã lại
chẳng
làm gì. Gã mở hú họa Kinh thánh ra và đọc: Mi sẽ không sợ nỗi khủng
khiếp của
bóng đêm; không sợ tên bay vào ban ngày, không
sợ bệnh dịch lảng vảng trong bóng tối, không
sợ tai ương hoành
hành lúc giữa trưa. Ngàn lần sẽ rơi bên cạnh mi, vạn lần sẽ rơi bên
phải mi,
nhưng sẽ không rơi trúng mi.
Nhờ
tín hiệu chỉ dẫn rõ ràng này, gã vững lòng ở lại thành London
bệnh dịch và bắt tay viết những bản tường thuật. Tôi gặp một đám người
ngoài
đường, gã viết, và chính giữa đám đông đó, một người đàn bà đột nhiên
chỉ tay
lên trời. Nhìn kìa, bà ta kêu lên, một thiên thần áo trắng đang múa
thanh kiếm
lửa! Và đám người nhìn nhau đồng tình, Ừ, đúng vậy, họ nói: một thiên
thần cầm
kiếm! Nhưng tay thợ làm yên ngựa không nhìn thấy thiên thần, cũng không
thấy
kiếm. Gã chỉ nhìn thấy một đám mây có hình thù kỳ lạ, một phía bị mặt
trời
chiếu sáng hơn phía kia.
Đó
là một hóa
thân[3]! Người đàn bà gào lên khắp nơi; nhưng
dù cố lắm gã cũng chẳng nhìn thấy hóa thân nào. Gã viết vậy trong bản
tường
thuật.
Một ngày khác, gã hầu của chàng, vốn là thợ làm yên ngựa
nhưng đang chẳng có việc gì làm, đi dạo dọc bờ sông ở Wapping và thấy
một thiếu
phụ đứng trước cửa nhà gọi một người đàn ông đang chèo một chiếc thuyền
đánh cá
nhỏ: Robert! Robert!, thiếu phụ gọi. Gã nhìn thấy người đàn ông chèo
thuyền vào
bờ, lấy ra khỏi thuyền một bao tải, đặt lên một tảng đá bên bờ sông rồi
lại
chèo thuyền đi. Thiếu phụ đi xuống sông, nhận chiếc bao tải vác lên
nhà, vẻ sầu
khổ hằn sâu trên mặt.
Gã
hầu của chàng liền
làm quen và bắt chuyện với người đàn
ông. Robert kể rằng ông ta là chồng của thiếu phụ và chiếc bao tải là
lương
thực cả tuần cho vợ con, cả thịt, bánh mì và bơ; nhưng ông không dám
lại gần họ
bởi vì tất cả bọn họ đều bị dịch hạch; điều đó làm ông đau đớn. Và tất
cả -
hình ảnh người chồng Robert và người vợ giữ liên hệ với nhau bằng những
tiếng
gọi qua sóng nước, và chiếc bao tải để lại trên bờ - tự nó đã nói lên
tất cả,
nhưng đồng thời nó cũng là hồi ảnh về nỗi cô đơn của chính chàng,
Robinson trên
đảo hoang, trong những giờ tuyệt vọng đen tối nhất đã cất tiếng gọi qua
sóng
nước gửi tới những người thân yêu ở nước Anh với hy vọng họ sẽ cứu
chàng, cũng
như những lần khác chàng đã bơi ra chiếc tàu chìm để kiếm thức ăn.
Chú
thích:
[1]Nguyên
văn: He and
his man. Dĩ nhiên, có thể dịch là Ông
ta và người của ông ta, Chàng và người của chàng, v.v... Tuy nhiên theo
chúng
tôi, nội hàm của cái tựa này không đơn giản như vậy. Nếu đọc Robinson
Crusoe
bằng nguyên bản tiếng Anh, ta sẽ biết Thứ Sáu được Robinson gọi là ‘my
Man”,
“người của tôi”, nhưng chính xác hơn có lẽ là “gã hầu (gã đầy tớ, phụ
tá,
v.v...) của tôi”. Nhưng, “his man” trong câu chuyện của Coetzee còn có
một nội
hàm khác: ấy là một “kẻ khác của tôi, chưa được và cần phải được định
danh”.
Nội hàm này, theo chúng tôi, không thể được chuyển tải bằng cách dịch
trực
nghĩa ra tiếng Việt “người của ông ta”, “người của chàng”... Do đó,
chúng tôi
quyết định chọn cách dịch như trên, với sự định danh rõ ràng “he” và
“his man”
theo ngữ cảnh trong câu chuyện Robinson và Thứ Sáu của Defoe, còn ẩn
nghĩa thứ
hai của Coetzee, độc giả có thể tự nắm bắt trong quá trình đọc.
[2]
Nguyên văn: let
all of this be a figure of the
shipwreck... Trong bài diễn từ này, Coetzee lặp lại nhiều lần cụm từ a
figure
of. Theo chúng tôi, cụm từ này có thể có những nghĩa sau: biểu tượng
(cho cái
gì đó), tượng trưng (cho cái gì đó), hình ảnh (của cái gì đó), ẩn dụ
(về điều
gì đó), hiện hình (dưới/trong dạng gì đó). Trong ngữ cảnh này và một
vài ngữ
cảnh khác, chúng tôi tạm chọn cách dịch a figure of
là hồi ảnh (về...), bởi câu chuyện là xâu
chuỗi những sự kiện tưởng tượng của Robinson về gã hầu, và khi đó
Robinson như
hồi tưởng lại những gì mà chính chàng đã trải nghiệm. Ở một số ngữ cảnh
khác,
chúng tôi dịch a figure of là ẩn dụ (về...) hoặc tượng trưng (cho...).
[3]
Nguyên văn: It is
an allegory! Allegory thường được dịch
là phúng dụ hoặc ẩn dụ, nhưng ở ngữ cảnh này, người đàn bà nhìn thấy
“một thiên
thần cầm kiếm lửa” trong khi thật ra đó chỉ là “một đám mây có hình thù
kỳ lạ”,
nên chúng tôi cho rằng bà ta muốn ám chỉ sự hóa thân của thần linh.
Ông chủ và gã hầu (2)
John Maxwell Coetzee
Một
bản tường thuật
khác về thời kỳ khốn khổ này. Một người
đàn ông không chịu nổi những cơn đau hành hạ ở vùng bẹn và dưới thắt
lưng,
những biểu hiện của bệnh dịch hạch, đã gần như phát rồ, ở truồng tô hô
lao ra
đường về hướng Harrow Alley ở Whitechapel, nơi mà người thợ làm yên
ngựa - gã
hầu của chàng - chứng kiến cảnh ông ta dậm chân, nhảy cào cào và làm
hàng nghìn
động tác kỳ quặc khác, trong khi vợ con ông ta chạy theo gọi ông về
nhà. Kiểu
dậm chân và nhảy cào cào này là hồi ảnh
về chính sự dậm chân và nhảy cào cào của chàng sau thảm họa đắm tàu,
khi chàng
đã hết hơi tìm dấu vết đồng đội trên bãi cát mà chẳng thấy gì ngoài hai
chiếc
giày lệch đôi và hiểu rằng chỉ mỗi mình chàng dạt vào một hòn đảo hoang
vu,
rằng chàng sẽ chết và chẳng mong gì được cứu.
(Nhưng
chàng còn hát
thầm điều chi nữa, chàng ngạc nhiên tự
hỏi, chàng trai khốn khổ này, ngoài sự chàng bị bỏ rơi? Chàng gọi gì
qua những
đại dương, những tháng năm, từ ngọn lửa riêng của chàng?)
Cách
đó một năm,
chàng - Robinson - đã trả 2 đồng guinea cho
một người đi biển để mua một con vẹt mà theo lời ông ta kể lại thì ông
ta đã
mang nó về từ Brazil.
Con vẹt này tuy không lộng lẫy như con vẹt yêu quý (trước đây – ND) của
chàng
nhưng vẫn tuyệt đẹp với bộ cánh xanh, chiếc mỏ đỏ, và nếu tin lời người
đi biển
thì nó rất háu nói. Và quả thực, khi về nhà vẹt ta luôn đậu trên chiếc
song
dành cho nó trong phòng khách, với một sợi dây xích buộc ở chân đề
phòng nó bay
mất, và kêu lên: Poll tội nghiệp! Poll tội nghiệp!, cứ như vậy lặp đi
lặp lại
tới lúc chàng phải nhốt nó vào lồng. Có điều, không thể bày cho nói một
từ nào
khác, như Robin tội nghiệp! chẳng hạn, hẳn vì nó đã quá già rồi.
Chàng
Poll tội nghiệp
phóng mắt qua khung cửa hẹp tới những
đợt sóng biển, và qua những đợt sóng biển tới những vồng xám nổi lên
trên Thái
Bình Dương: Đó là hòn đảo gì vậy, mà lạnh lẽo, mà u buồn, nơi mà ta đã
dạt đến?
Chàng Poll tội nghiệp tự hỏi. Trong giờ ta lâm nạn, người đã ở đâu, hỡi
vị cứu
tinh của ta?
Một
người đàn ông ngủ
trước thềm cửa một nhà dân ở
Cripplegate (lại một bản tường thuật nữa từ gã hầu của chàng) bởi ông
ta đã say
xỉn và đêm đã khuya. Những chiếc xe chở xác lê bánh (chúng ta vẫn đang
ở vào
năm dịch hạch) và những người hàng xóm đặt người đàn ông lên xe cạnh
những xác
chết; họ nghĩ rằng ông đã tắt thở. Rồi chiếc xe lăn tới nghĩa địa ở
Mountmill,
và người đánh xe, mặt che kín mít để tránh lây bệnh, xốc người đàn ông
định ném
vào hố chôn. Thế là ông ta tỉnh dậy và chống cự trong cơn hoảng loạn.
Tôi đang
ở đâu? - Người đàn ông hỏi. Ngươi bị chôn tới nơi rồi, cùng với lũ
người chết -
Người đánh xe nói. Tức là tôi đã chết rồi ư? - Người đàn ông hỏi. Và đó
cũng
lại là một hồi ảnh về tình cảnh của chàng lúc ở trên hoang đảo.
Một
vài người dân
thành London
vẫn tiếp tục công việc của họ; họ cho rằng mình khỏe mạnh và sẽ qua
khỏi cơn
dịch. Nhưng họ đều bị nhiễm dịch hạch trong máu: nếu bệnh nhập vào tim,
họ sẽ
chết ngay lập tức như bị sét đánh vậy, gã hầu của chàng viết. Và đó là
một ẩn
dụ về tự thể đời sống, toàn thể đời sống. Một sự chuẩn bị cần thiết.
Chúng ta
cần chuẩn bị cho cái chết một cách thích đáng, nếu không chúng ta sẽ bị
quật
ngã tại chính nơi chúng ta đang đứng. Cũng như chàng, Robinson, phải
nhận ra
điều đó khi một ngày kia chàng đột nhiên phát hiện ra một dấu chân
người trên
hòn đảo của chàng. Đó là một dấu vết, và vì thế, một tín hiệu, về một
bàn chân,
về một con người. Nhưng đó còn là một tín hiệu cho nhiều thứ khác nữa.
Tín hiệu
ấy nói cho mi biết rằng mi không cô độc; và còn nữa: Dù mi có dong buồm
đến
đâu, dù mi có ẩn náu ở chốn nào, người ta cũng sẽ lần ra mi.
Gã
hầu của chàng
viết: trong năm dịch hạch nhiều người vì
kinh hoảng đã bỏ lại tất cả, nhà cửa, vợ con để chạy càng xa thành London
càng tốt. Khi nạn dịch qua đi, họ đều bị mọi người nguyền rủa vì sự
trốn chạy
hèn nhát. Nhưng, gã hầu của chàng viết, chúng ta đã quên rằng cần phải
dũng cảm
như thế nào để chống lại dịch hạch. Đó không đơn giản là lòng dũng cảm
của
người lính siết chặt vũ khí trên tay mà tấn công kẻ thù: đó còn như thể
tấn
công chính Thần chết trên lưng con ngựa tái nhợt của hắn.
Ngay cả lúc phong độ nhất, con vẹt yêu quý của hai người
cũng không nói một lời nào không phải do chủ của nó dạy. Thế thì bằng
cách nào
mà kẻ này, gã hầu của chàng - vốn cũng là một thứ vẹt và không được yêu
quý lắm
- lại có thể viết hay như, hoặc thậm chí hay hơn ông chủ của y? Bởi kẻ
này, gã
hầu của chàng, dùng bút rất khéo, điều đó không thể phủ nhận. Như thể
tấn công
chính Thần chết trên lưng con ngựa tái nhợt của hắn. Ngược lại, chàng
chỉ khéo
léo trong việc tính toán và làm sổ sách như đã học ở môn kế toán chứ
không phải
trong việc chữ nghĩa. Chính Thần chết trên lưng con ngựa tái nhợt của
hắn –
chàng không thể nghĩ ra những từ như vậy. Chỉ khi chàng phó mặc hoàn
toàn cho
gã hầu của chàng thì mới xuất hiện những từ như vậy.
Và
những con vịt mồi:
chàng, Robinson, đã biết gì về những
con vịt mồi? Không biết gì hết, cho tới khi gã hầu của chàng gửi cho
chàng
những bản tường thuật. Những con vịt mồi ở vùng đầm lầy Lincolnshire,
cỗ máy
hành hình lớn ở Halifax: Những lời kể về chuyến chu du vòng quanh đảo
Anh mà gã
hầu của chàng hình như đã thực hiện, một hồi ảnh về chuyến du lịch của
chàng
quanh hòn đảo của mình trên chiếc thuyền tự đóng, chuyến du lịch chỉ ra
rằng có
một phía khác xa hơn của hòn đảo, rậm rạp, tối tăm, khô cằn, phía mà về
sau
chàng không bao giờ trở lại mặc dù những nhà thuộc địa tương lai, nếu
đến được
hòn đảo ấy, hẳn họ sẽ khai phá và cư ngụ trên đó; và đấy cũng là một ẩn
dụ về
phía tối của linh hồn và của ánh sáng.
Và
khi đám
đạo văn và bọn bắt chước nhảy xổ vào câu chuyện
trên đảo của chàng và cung cấp cho đại chúng câu chuyện bịa đặt về cuộc
đời của
một kẻ bị bỏ rơi trên đảo, chàng thấy bọn chúng không hơn gì một lũ ăn
thịt
người, bọn xô vào ăn thịt chàng, tức là cuộc đời chàng; và chàng cũng
chẳng
thèm nghĩ tới việc nói ra điều này nữa. Khi tôi chống lại bọn ăn thịt
người,
cái lũ muốn đánh đập, nướng thịt và nuốt sống tôi, chàng viết, tôi đã
nghĩ rằng
mình đang chống lại chính sự việc đó. Tôi không hề biết rằng, chàng
viết, bọn
ăn thịt người này chỉ là một hình ảnh tượng trưng
cho một thứ lòng tham còn ma quỷ hơn, thứ gặm
mòn chính bản chất
của sự thật.
Nhưng,
nghĩ ngợi thêm
chút nữa, thì một nỗi đồng cảm với lũ
bắt chước đó từ từ dâng lên trong lòng chàng. Bởi với chàng bây giờ
dường như
chỉ có vài ba câu chuyện trên thế giới; và nếu như lớp trẻ bị cấm cướp
bóc của
người xưa, họ sẽ phải im lặng mãi mãi.
Chàng
đã kể về cuộc
thám hiểu hoang đảo của mình như vậy,
rằng một đêm chàng đã thức dậy trong nỗi kinh hoàng và tin chắc rằng
quỷ sứ
trong bộ dạng một con chó lớn đang đè lên người chàng ở trên giường.
Thế là
chàng vùng dậy, cầm con dao mổ vịt, chém sang trái huơ sang phải để tự
vệ trong
khi con vẹt tội nghiệp ngủ bên cạnh chàng kêu lên khiếp sợ. Phải nhiều
ngày sau
đó chàng mới nhận ra rằng không phải chó cũng chẳng phải quỷ sứ đã đè
lên
chàng, ấy chỉ vì chàng đã chìm vào một cơn bóng đè và bởi không thể cựa
quậy
chân, chàng đã cho rằng một sinh vật nào đó đang ngủ đè lên chân chàng.
Và bài
học rút ra từ trường hợp này là: dường như mọi khổ đau, kể cả chứng
liệt rung,
đều đến từ quỷ sứ, là tự thân quỷ sứ; rằng mối tai họa gây ra bởi dịch
bệnh có
thể xem là hình ảnh tượng trưng cho mối tai họa gây ra bởi quỷ sứ, hoặc
gây ra
bởi một con chó trong hình ảnh tượng trưng cho quỷ sứ và ngược lại, tai
họa
được tượng trưng bằng một căn bệnh như trong câu chuyện dịch hạch của
người thợ
làm yên ngựa; và rằng bởi vậy không kẻ nào viết chuyện về một trong hai
- về
quỷ sứ hoặc về dịch hạch - lại có thể bị kết án một cách bộp chộp là kẻ
giả mạo
hay thằng ăn cắp.
Khi
nhiều năm trước
đây chàng quyết định viết lại câu chuyện
trên đảo của mình, chàng nhận ra rằng câu chữ không đến với chàng và
quản bút
không tuân theo chàng, ngay những ngón tay chàng cũng cứng đờ và rời
rã. Nhưng
ngày qua ngày, cứ từng bước, từng bước, chàng làm chủ được việc viết
lách, cho
tới khi chàng cùng Thứ Sáu thám hiểm lên phương Bắc băng giá thì những
trang
văn của chàng cũng thoát ra nhẹ nhàng từ quản bút, hầu như không cần
suy nghĩ.
Khả
năng viết dễ dàng
này, tiếc thay, đã bỏ rơi chàng. Mỗi
khi ngồi vào chiếc bàn viết nhỏ kê trước cửa sổ nhìn ra cảng Bristol,
bàn tay chàng có vẻ thật vụng về và quản bút lạ lẫm với chàng hơn bao
giờ hết.
Liệu
gã, cái kẻ khác
kia, gã hầu của chàng, có thấy việc
viết lách dễ dàng hơn không? Những câu chuyện về vịt trời, cỗ máy hành
hình và
thành London trong thời
gian dịch
hạch được viết thật trôi chảy; nhưng đó cũng từng là những câu chuyện
của chính
chàng. Có thể chàng đã đánh giá sai người đó, người đàn ông nhỏ thó
linh hoạt
với bước đi nhanh nhẹn có nốt ruồi trên cằm. Có thể lúc này, cũng như
chàng,
trong một căn phòng thuê đâu đó trên vương quốc rộng lớn này, gã đang
ngồi một
mình, nhúng rồi lại nhúng ngòi bút, đầy nghi hoặc, do dự và suy đi tính
lại.
Phải
phác họa chân
dung họ thế nào, người đàn ông này và
chàng? Ông chủ và nô lệ ư? Anh em, anh em sinh đôi ư? Chiến hữu ư? Hay
kẻ thù?
Chàng phải tìm cho kẻ đồng hành vô danh này cái tên nào, kẻ từng ở bên
chàng
qua các buổi tối hay thậm chí thâu đêm, kẻ chỉ vắng mặt vào ban ngày
khi chàng,
Robin, đi dọc các bến thuyền để tuần tra xem có thuyền nào mới cập bến
không,
còn gã hầu của chàng rong ruổi khắp vương quốc và cũng tiến hành những
cuộc du
khảo của y?
Liệu
trong cuộc du
hành của mình người đàn ông này có tới Bristol
không? Chàng khao khát được gặp mặt người đó, bắt tay người đó, đi dọc
bến tàu
với gã và lắng nghe gã kể về cuộc viếng thăm phía bắc tối tăm của hòn
đảo hoặc
những cuộc phiêu lưu của gã trong việc viết lách. Nhưng chàng sợ rằng
sẽ không
có cuộc gặp nào, không phải trong cuộc đời này. Nếu phải lựa chọn một
hình ảnh
cho hai người, gã hầu của chàng và chàng, chàng sẽ viết rằng họ như hai
con tàu
dong buồm về hai hướng khác nhau, một về hướng tây và một về hướng
đông. Hoặc
đúng hơn, chàng và gã như những thủy thủ làm nhiệm vụ kéo dây buồm, một
kẻ trên
con tàu chạy hướng tây, một kẻ trên con tàu chạy hướng đông. Tàu của họ
chạy
ngang qua nhau, cách nhau một tiếng gọi. Nhưng mặt biển thì dữ dội,
thời tiết
giông tố; nước bắn vào mắt họ, tay họ nóng rẫy vì dây chão, và thế là
họ đi qua
nhau nhưng đều bận rộn đến nỗi thậm chí không thể vẫy tay nhau.
Đinh
Bá Anh và Trần
Tiễn Cao Đăng
dịch từ bản tiếng Anh