|
Nhà văn và chủ nghĩa Cộng sản
George Steiner
Một trong
những khác biệt rõ rệt giữa chủ nghĩa Phát xít và chủ nghĩa Cộng sản:
Phát Xít không gợi hứng cho một nghệ phẩm vĩ đại nào. Nó chẳng lôi kéo
được một nhà văn hạng nhất vào quĩ đạo của nó, ngoại lệ may ra có
trường hợp Montherlant. (Erza Pound không phải là Phát Xít; ông sử dụng
những cơ hội và cờ biển của nó cho chủ thuyết kinh tế kỳ quặc của
mình.) Ngược lại, chủ nghĩa Cộng sản đã là một sức mạnh trung tâm trong
rất nhiều tuyệt phẩm của văn học hiện đại; và kinh nghiệm riêng của
từng người, khi tiếp cận chủ nghĩa Cộng sản, đã ảnh hưởng, về ý thức,
cũng như là về nghiệp văn, ở nhiều nhà văn lớn của thời đại chúng ta.
Tại sao có sự
khác biệt này? Chẳng nghi ngờ chi, chủ nghĩa Phát-xít quá đê hèn, chẳng
thể tác động tới lòng nhân hậu, vị tha, của trí tưởng tượng, vốn rất
cần cho nghệ thuật văn chương. Cộng sản ngay cả khi đã trở thành nọc
độc, nó vẫn là một huyền thoại về tương lai, một viễn ảnh giầu có về
nhân cách, đạo đức. Phát Xít là luật tối hậu của đám côn đồ; chủ nghĩa
Cộng sản thất bại bởi vì nó muốn áp đặt lên cái đa dạng mong manh của
nhân tính, và đưa ra một lý tưởng nhân tạo [đó là] từ chối cái con
người, là mình, vì mục đích lịch sử. Phát xít khủng bố thông qua sự
khinh miệt con người; Cộng sản khủng bố bằng cách đưa bổng tít con
người khỏi cõi sai lầm riêng tư, tham vọng riêng tư, tình yêu riêng tư,
mà chúng ta gọi là tự do.
Còn một khác
biệt đặc thù hơn nữa. Hitler và Goebbels là những đại gia về ngôn từ,
nhưng họ đều coi thường đời sống tinh thần. Những người Cộng sản, trái
lại, ngay từ phút đầu tiên, đã có một ý thức về những giá trị của trí
thức, nghệ thuật. Trong Marx và Engels, điều này thật hiển nhiên. Họ là
những nhà trí thức đến tận xương tận tuỷ. Lênin coi nghệ thuật là món
quà vô giá để chống lại nỗi sợ hãi. Ông run sợ, lẩn tránh nó, thừa nhận
những quyền năng u tối, mê hoặc của những gì dễ nhào nặn, và hình thức
âm nhạc, thay vì trí thức thuần lý. Trotsky là một tay văn nghệ
(littérateur), theo một nghĩa rạng rỡ nhất của từ này. Ngay dưới thời
Stalin, nhà văn và những tác phẩm văn học giữ một vai trò sinh động
trong chiến lược Cộng sản. Nhà văn bị bách hại, bị hành quyết chính bởi
vì văn chương được coi là sức mạnh quan trọng, đầy tiềm năng nguy hiểm.
Đây là điểm quyết định. Văn chương được đề cao, coi trọng, tuy theo một
đường hướng độc ác, ghê rợn, hiển nhiên là do sự bất tín nhiệm vào nó,
của Stalin. Tới thời kỳ băng tan, vai trò nhà văn trong xã hội Xô-viết
lại một lần nữa trở nên khúc mắc, và mang tính vấn nạn. Khó mà có thể
tin được một điều, một nhà nước Phát-xít bị chao đảo, vì một cuốn sách
nhỏ nhoi; nhưng Bác sĩ Zhivago
đã là một trong những cơn khủng hoảng
lớn lao trong cuộc sống gần đây của giới trí thức tại nước Nga Cộng
sản.
Do trực giác,
hoặc do suy nghiệm, nhà văn luôn nhận ra vai trò đặc biệt của họ trong
ý thức hệ Cộng sản. Họ nghiêm trọng với chủ nghĩa Cộng sản, bởi vì nó
nghiêm trọng với họ. Từ đó, một lịch sử những liên hệ giữa chủ nghĩa
Cộng sản và văn chương hiện đại, là lịch sử của cả hai, với những sự vị
nể bắt buộc phải có.
Ông Jurgen
Ruhle là một trong những nhà văn, nhà trí thức chủ trì, đã kinh nghiệm
mùi vị chủ nghĩa Cộng sản, và sau đó đã từ bỏ thực tại Stalinist. Kể từ
khi chọn Đức quốc làm nơi trú ẩn, ông là một chuyên gia sử học, và quan
sát viên, về cuộc sống văn chương và kịch nghệ Cộng sản. Trong cuốn Văn
chương và Cách mạng, ông cho thấy tầm vóc một cuốn lịch sử, về
"nhà văn
và chủ nghĩa Cộng sản" trên toàn thế giới, từ 1917 tới 1960. Thực là
một công trình bao la, đồ sộ: văn chương Nga từ Blok tới Zhivago; thơ
ca Pablo Neruda, tiểu thuyết của Erskine Caldwell; từ lập trường chính
trị của Thomas Mann tới sự phê phán Lỗ Tấn. Với phần niên biểu, và thư
mục tác giả, Văn chương và Cách mạng
vừa là tiểu luận phê bình, vừa là
sách tham khảo. Chỉ nhìn qua mục lục và những minh họa, thấy rõ một
điều, gần như tất cả những nhà văn lớn lao của thời đại chúng ta
(Proust, Joyce và Faulkner là những ngoại lệ đáng kể), đều dính dáng
với chủ nghĩa Cộng sản, ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời và trong
nghệ thuật.
Phần đầu là về
định mệnh văn chương Nga dưới thời Lenin, Zhdanov và Khrushchev. Mảnh
đất quen thuộc nhưng đồ sộ. Một lần nữa chúng ta quan sát những thiên
tài, và kết cuộc cay đắng của bộ ba cách mạng: Blok, Yessenin,
Maiakovsky. Ruhle đặc biệt chú ý tới đề tài cuốn tiểu thuyết cồng kềnh,
gần như bị bỏ quên của Gorky, "Klim
Samgin". Ông tin rằng, Gorky đã
không thể hoàn tất tác phẩm, vì đã nhận ra mâu thuẫn giữa cuộc sống cá
nhân và tổ chức Cộng sản; mâu thuẫn này đẩy rất nhiều nhà văn Xô-viết
tới im lặng hoặc cái chết. Ruhle tiếp tục bàn về những ký sự gia cuộc
nội chiến, Isaac Babel và Sholokhov. Ở đây, một lần nữa, cách đọc của
ông thật là sắc bén: ông cho thấy Sholokhov luôn luôn là một nhà văn
miệt vườn, với nhãn hiệu bài-trí thức cổ lỗ, và đã thành công, cùng một
lúc vừa là tiếng nói của tình tự quốc gia và tình cảm dành cho chế độ
Stalin. Ông đưa ra một bản kết toán đáng tin cậy về những thoái bộ u
uẩn, và những táo bạo, nhờ vậy mà Ehrenburg còn toàn mạng qua mùa đông
và thời kỳ băng tan. Bên dưới những câu chuyện kể bề bộn về người và
việc, vọng lên chủ đề khốc liệt về lưu đầy, hành quyết, và tự sát.
Sau cùng, tới
Pasternak. Ruhle nhận ra ở tác giả này, tiếng nói thực của Nga, và cùng
với nó, viễn ảnh vượt lên trên mọi tàn bạo của nhất thời. Ông đồng ý
với (nhà phê bình Mỹ) Edmund Wilson, khi tìm thấy ở trong nhân vật Lara
và Zhivago một thách đố không thể trả lời được, đối với chủ nghĩa duy
lịch sử, và định mệnh thuyết chối từ-cuộc đời của ý thức hệ Cộng sản.
Thật hiển nhiên, nếu Pasternak có thể giữ riêng cho đôi tình nhân một
tình yêu nổi loạn, riêng tư, ngay trong lòng Liên-bang Xô-viết, điều
này chứng tỏ tinh thần Nga vẫn còn sống ở bên dưới lớp băng, là kỷ luật
đảng. Pasternak là một trong những người đầu tiên đọc bài thơ vĩnh biệt
mà Yessenin viết bằng máu của mình. Ông biết những dòng tuyệt bút nổi
tiếng, trước khi tự tử, của Maiakovsky. Nhưng bằng đức hạnh của sự can
đảm, và sự kín đáo, ông đã sống sót. Và trong Bác sĩ Zhivago, là bản
cáo trạng chống lại sự rẻ rúng đời sống cá nhân của chế độ Xô-viết,
điều những bạn thơ của ông đành phải ám chỉ nó, bằng cái chết bi thảm
của họ.
Sự thực còn có
nhiều, ở đây. Và Ruhle đã diễn tả thật tuyệt. Nhưng do gần đây không ở
trong Liên-bang Xô-viết, ông đã không nhận ra, thế giới hình ảnh, cảm
nghĩ, của đôi tình nhân Lara-Zhivago thật xa vời đối với thế hệ trẻ
ngày nay. Chính đám người cầm quyền, "đám già", đã sợ hãi cuốn sách, và
tìm đủ mọi cách để làm cho nó im luôn. Tôi tự hỏi không biết những
người trẻ tuổi có tìm ra được một điều gì trong Bác sĩ Zhivago, nhưng
chắc họ chỉ coi đây là một câu chuyện thần tiên làm mủi lòng người đọc,
hay một mẩu giả tưởng về lịch sử, xa xưa như Anna Karenina.
Phần hai của
cuốn sách mới vô vàn quí giá. Nó bàn, bằng một giọng quyền uy, tới mớ
bòng bong là những liên hệ giữa chủ nghĩa Cộng sản và văn học Đức. Thật
chẳng có gì là quá đáng khi nói, chẳng có một nhà văn Đức thế giá nào
không chọn một thế đứng phân minh - hoặc đồng tình, hoặc thù nghịch -
đối với chủ nghĩa Cộng sản. Hình như có một sự đồng cảm sâu xa, ngầm,
nào đó, giữa chủ nghĩa duy lịch sử, và chủ nghĩa lý tưởng mang tính hệ
thống, là ý thức hệ Cộng sản, và tinh thần Đức mà nó nảy sinh từ đó.
Thường xuyên, như Ruhle chỉ ra, cực hữu và cực tả ở Đức đều gặp nhau
trên mảnh đất chung, là tinh thần toàn trị. Hiệp ước [bất tương
xâm,1939] Hitler-Stalin, mặc dù chỉ là trò mạt cưa mướp đắng, và chết
non,
nhưng qua nó, là một ẩn dụ về một liên hệ chân thực.
Ruhle còn đưa
ra trường hợp Johannes Becher, chàng nhạc sĩ Orpheus của chủ nghĩa
Stalinism, và Egon Erwin Kisch, một trong những ký giả tài ba nhất cho
tới nay, đã từng phục vụ lý tưởng Marxist. Ông tặng chúng ta một cách
đọc nhậy cảm tác phẩm của Anna Seghers; những tiểu thuyết gần đây của
bà cho thấy, một nghệ sĩ thứ thiệt, phải uốn éo ra sao khi cố ăn khớp
với những nửa-sự thực xám xịt, của "hiện thực xã hội chủ nghĩa". Ông
chiếu sáng vai trò của những ý tưởng Mác-xít trong tiểu thuyết lịch sử
của Heinrich Mann và Lion Feuchtwanger. Ông đề nghị, trong một chương
với tài liệu tỉ mỉ, rằng sự bất đồng giữa [hai anh em] Heinrich Mann và
Thomas Mann là đại diện cho một biện chứng pháp rộng lớn: sự đối đầu
của tư tưởng Đức, với những cám dỗ đối nghịch nhưng liên hệ, một mặt,
với chủ nghĩa quốc gia cánh hữu; mặt khác, với chủ nghĩa quốc tế cấp
tiến.
Như trong phần
bàn về văn chương Xô-viết, bên dưới những dòng kể những cuộc đời cá
nhân, là đề tài thường xuyên, về cái chết tàn bạo. Những tiếng nói của
thi ca Đức, bi kịch, và phê bình lần lượt bị bóp nghẹt bằng lưu đầy, ám
sát, hay tự sát. Lật từng trang lịch sử của sự huỷ diệt - Ossietzky,
Muhsam, Kornfeld, Theodor Wolff, Friedell, Toller, Hasenclever, Ernst
Weiss, Stefan Zweig - người ta nhận ra, văn chương thực sự là một trong
những chọn lựa nguy hiểm nhất.
Sau những khảo
sát bậc thầy, về văn chương Đức, cuốn Văn
chương và Cách mạng đưa ra
một cái nhìn về phần còn lại của văn chương thế giới. Tốc độ [ở đây] có
phần gây chóng mặt. Chỉ trong ba chục trang, Ruhle bàn tới ảnh hưởng đa
dạng của chủ nghĩa Cộng sản lên Camus, Sartre, Gide, Malraux, Eluard,
Céline, và Aragon. Hai chục trang tiếp theo tóm tắt những nhà văn Ý -
Silone, Pavese, Malaparte, Moravia, Carlo Levi. Không đầy bốn chục
trang dành cho những trò ve vãn rất phức tạp, với chủ nghĩa Marx và
những giấc mơ Cộng Sản, của những nhà văn Mỹ như Dos Passos, Upton
Sinclair, Steinbeck, Hemingway, và James T. Farrell. Những chương ngắn
cuốn người đọc qua Mỹ châu La-tinh, và Á châu. Không thể tránh được,
nửa sau cuốn sách chỉ là những danh mục, tên tuổi ngày tháng, tựa sách
- hữu dụng như một chỉ dẫn, tham chiếu vội, nhưng làm sao chu toàn nổi
tính nghiêm trọng, và đa dạng của đề tài.
Trong hai
chương chót, là về những kẻ bỏ đảng và những kẻ nổi loạn bên trong trại
(camp) văn chương Cộng Sản. Ông bàn về cuốn "Bóng tối giữa ngọ" của
Koestler, "1984" của Orwell,
và những trang hồi ký đầy chất thống hối
của Gide, và Stephen Spender. Sau cùng ông ghi nhận sự nổi dậy chống
lại chủ nghĩa Stalin của những nhà văn trẻ Balan và Hungary vào năm
1956. Trong thời kỳ tiếp theo vụ đàn áp tại Hungary, Tibor Dery đã bị
kết tội cầm đầu "một tổ chức thù nghịch đối với nhà nước". Một câu
chuyện tiếu lâm "thê lương" đã được truyền tụng, giữa người dân
Budapest: Cái tổ chức đó là gì vậy? Trả lời: nhân dân Hungary. Kết thúc
chương sách, tác giả nhắc nhở chúng ta, rất nhiều nhà văn vẫn còn ở
trong nhà tù tại Xô-viết, và những vệ tinh của nó, hay trong nhà tù
Trung quốc. Liên minh giữa văn chương và chủ nghĩa Cộng sản vừa thân
thiết, vừa bi đát.
Cuốn sách có
những nét rất mạnh, như là một ký sự muốn bao gồm mớ tư liệu lớn lao,
rải rác, đưa chúng vào một trật tự trong sáng, rõ ràng. Nhưng có nhiều
phiến diện ở trong đó. Thường là do ngắn gọn, (khó mà có gì mới, hoặc
mang tính khám phá, trong một hai trang về một nhà văn quan trọng.)
Nhưng cũng thường là do nhận định chủ quan của Ruhle, và điều này dẫn
tới việc đơn giản hóa vấn đề. Suốt cuốn sách, ông cố đưa ra một mẫu mã,
về sự hấp dẫn khởi đầu, mang tính lý tưởng, tiếp theo đó là sự ghê tởm,
khi sáng mắt ra. Nhà văn bị lôi kéo bởi những mục đích cao cả của chủ
nghĩa Cộng Sản, anh ta khám phá ra sự thực, về tính thư lại của đảng,
và những đàn áp Stalinist; anh ta từ bỏ đảng. Những ông thần Đỏ đã làm
anh ta thất vọng. Nhưng trên thực tế, mẫu mã này chỉ có thể áp dụng cho
một số giới hạn, những nhà văn, và không thể cho những nhà văn quan
trọng nhất. Vì cố bám vào nó, Ruhle đã vặn vẹo một số sự kiện. Dưới đây
là vài thí dụ.
Trường hợp
Malraux là một thử nghiệm khả năng của nhà phê bình về những cám dỗ mà
chủ nghĩa toàn trị dâng hiến cho thiên tài thi ca. Nhận định của Ruhle
về việc Malraux tới, rồi lui khỏi chủ nghĩa Cộng Sản, là hoàn toàn
thiếu sót. Mặc dù ông ta đã chiến đấu lần lượt trong việc liên minh với
tả và sau đó là hữu phái, chuyển từ Binh đoàn Quốc tế qua nội các De
Gaulle, Malraux chưa bao giờ theo một chương trình chính trị nhất quán.
Bất cứ địa bàn nào mà ông ta nhẩy vô, là để tìm điều: trong chính trị
có chủ nghĩa anh hùng, sự hung bạo, và lòng trung thành kiểu hội kín.
Một cách ngắn gọn, chính trị của ông ta là mỹ học; dạng thức của hành
động chính trị, đã lôi kéo ông ta, chứ không phải nội dung. Chìa khóa
giải mã toàn sự nghiệp chính trị của Malraux có thể tìm thấy qua nhận
xét của Walter Benjamin, rằng những kẻ muốn chính trị là một nghệ thuật
(fine art), sẽ luôn luôn kết cuộc ở tư thế thượng lưu, hay toàn trị -
hoặc tả hoặc hữu. Ruhle đã không nhìn ra điều này, ông cũng quên tham
chiếu Benjamin, trong khi đây là một, trong tất cả những nhà phê bình
Mác-xít độc đáo, sâu thẳm nhất.
Hãy lấy trường
hợp Orwell. "1984" không phải
là một ngụ ngôn về chế độ toàn trị của
Stalin, Hitler, và Mao Trạch Đông như Ruhle khẳng định. Luận chiến về
câu chuyện ngụ ngôn không nhất tuyến (unilinear). Phê phán của Orwell
cùng lúc là về nhà nước cảnh sát và xã hội tiêu thụ tư bản; với sự ngu
si về những giá trị và những khuôn sáo của nó. "Tân ngữ" ("Newspeak"),
ngôn ngữ của cơn ác mộng Orwell vừa là một thứ tiếng lóng về chủ nghĩa
duy vật biện chứng, vừa là một thứ lảm nhảm về quảng cáo thương mại, và
truyền thông đại chúng. Sức mạnh bi đát của 1984 là do sự từ chối nhìn
sự vật đen ra đen, trắng ra trắng, của Orwell. Cái xã hội thủ đắc của
riêng chúng ta đã làm ông hoảng sợ. Ông thấy ở trong đó có những mầm
mống của sự phi nhân có thể so sánh với những bệnh gốc của chủ nghĩa
Stalin. Orwell từ Catalonia [nội chiến Tây Ban Nha 1936-39] trở về, với
một niềm tin u ám, khắc kỷ, vào chủ nghĩa xã hội nhân đạo; Đông hay
Tây, chẳng bên nào chấp nhận nó, nếu có chăng là trong một phạm vi thật
là giới hạn. Coi 1984 là một
sách vận động (pamphlet), trong chiến
tranh lạnh trí thức, là đọc sai và giảm giá nó. Câu chuyện ngụ ngôn
thực về xã hội Xô-viết, là ở trong tác phẩm Trại Loài Vật của ông.
Cùng một sự
ngần ngại, trước tính khúc mắc mắc của sự thực, đã ảnh hưởng Ruhle, khi
ông nhận định Lorca. Mặc dù khẳng định đầy tin tưởng của ông, những
hoàn cảnh về cái chết của Lorca vẫn chưa có chi là rõ ràng. Đây là một
trường hợp trả thù cá nhân hơn là khủng bố chính trị. Thêm một thí dụ,
là về nhà văn trẻ Balan, Hlasko. Điều "khúc mắc" ở đây, đó là không
phải ông ta nhìn ra một xứ sở Ba Lan Cộng Sản đang bị bóp nghẹt, cho
nên
tìm tự do tại Tây phương, nhưng ông nhận thấy "thế giới tự do" cũng
không thể chịu nổi. Văn chương là một tìm kiếm, săn đuổi đa đoan, phức
tạp; nó không nằm gọn vào những vòng đai Cộng sản, hoặc chống-Cộng, mà
Ruhle tìm đủ mọi cách để áp đặt.
Những chuyện
kể trên thì cũng thường thôi. Cái dở nhất, tệ hại nhất, trong Văn
chương và Cách mạng, là Ruhle từ chối, không chịu phân biệt giữa
chủ
nghĩa Mác-xít, và chủ nghĩa Cộng Sản, hay nói rõ hơn, giữa chủ nghĩa
Cộng Sản như một viễn ảnh đạo đức, và một chủ nghĩa Cộng Sản như là
thực tại chính trị thư lại. Trong nước Nga Stalinist và những xứ sở vệ
tinh của nó, sự phân biệt này bị xói mòn. Nhưng ở nơi khác, với những
nhà văn Tây phương rơi vào ảnh hưởng Mác-xít, điều này là cốt tủy.
Ruhle luôn luôn gộp những nhà văn có thể coi là Cộng sản và những người
đã rút ra - từ lý thuyết Mác-xít về lịch sử, và nhận định Mác-xít về
hành xử xã hội - một chất liệu cho nghệ thuật của riêng họ. Người ta
không thể đánh đồng Howard Fast và Romain Roland. Sự khác biệt thật là
lớn lao.
Nghiêm ngặt mà
nói, có ít nhà văn thế giá, bên ngoài Liên-bang Xô-viết, đã dâng hết
nghệ thuật của họ, nhằm phục vụ Đảng Cộng Sản hay chính sách Xô-viết.
Becher, Aragon, Anna Seghers, danh sách không được dài. Hiển nhiên,
không có trong danh sách, hầu hết những nhà thơ, tiểu thuyết gia, kịch
tác gia quan trọng, những người mà Ruhle quan tâm tới. Điều mà
Feuchwanger và Heinrich Mann gặt hái được từ chủ nghĩa Marx, là ý nghĩa
về những sức ép vật chất, và trọng lực của sự kiện lịch sử. Sartre đã
rút từ chủ nghĩa Marx, vừa hỗ trợ, vừa mâu thuẫn sáng tạo, cho viễn ảnh
mang tính cá nhân về khủng hoảng, và lịch sử. Với Sean O'Casey, chỉ là
sự bi phẫn nhắm vào cối xay gió, nặng chất vô chính phủ, của sự nhạy
cảm Ái nhĩ lan, chống lại bất công xã hội. Với Malaparte, chủ nghĩa
Cộng sản là một cái gì giống như một câu chuyện tiếu lâm, chiếc mặt nạ
của một anh chàng lãng mạn tuy tàn bạo, nhưng bi thương, trầm trọng. Ở
Pablo Neruda, ý thức hệ Cộng sản là hứa hẹn, cho một hoang tưởng mang
tính trả thù, rửa hận. Mỗi trường hợp mỗi khác.
Hơn nữa, có
một sự phân biệt thật rõ nét, giữa những người mất ảo tưởng, về chủ
nghĩa Cộng sản, và những người thực sự đoạn tuyệt với Đảng Cộng sản.
Trong hầu hết trường hợp, việc đoạn tình đoạn nghĩa với Đảng đẩy họ tới
sự im lặng, hoặc tới Hollywood. Mặt khác, sự rút khỏi chủ nghĩa Marx có
vẻ như là một tiến trình sinh động, sức tưởng tượng của nhà văn tuy
thương tổn, nhưng vẫn còn sống. Từ đó, trong cuộc đời của những nhà văn
như Camus, Steinbeck, hay Silone, chủ nghĩa Marx đã giữ một vai trò
giải phóng. Ngay cả khi đã ngoảnh mặt đi, họ vẫn giữ cho tài năng của
mình, những tinh tế về tầm nhìn; và những thói quen phản kháng đạo đức.
Và bởi vì
Ruhle từ chối phân biệt giữa những giáo huấn của Marx và Hegel, và thực
tế Cộng Sản, ông đã không nhận ra ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng Mác-xít
trên mỹ học Tây phương và lý thuyết văn học. Dù hiển nhiên, hay là tiềm
ẩn, cái nhìn toàn thể, đương thời của chúng ta về nghệ thuật đều thấm
nhuần nhận thức Mác-xít, về bối cảnh xã hội và tính năng động lịch sử.
Bên dưới một văn phong đầy thơ tính, ngay cả những nhà phê bình mới
cũng mắc nợ truyền thống Mác-xít, một sự thể hiện nào đó, về môi trường
kinh tế, xã hội. Thực ra, với mỹ học nhiều hơn là với văn chương hiện
thời, chủ nghĩa Mác-xít đã có một đóng góp vững vàng nhất của nó. Ruhle
ít chú ý đến ba nhà phê bình, cùng với Lukacs, đã đem đến cho Tây
phương điều được coi như là mầu mỡ nhất, xum xuê nhất, tức là quan điểm
Mác-xít về nghệ thuật. Họ là Walter Benjamin, Lucien Goldmann, và
Edmund Wilson.
Trước khi gấp
cuốn sách tuy đầy tính thông tin, nhưng với một cái nhìn một chiều, còn
một câu hỏi rộng lớn hơn không thể không đặt ra: rằng chủ nghĩa Mác-xít
hay Cộng sản thiết yếu gì tới sự thể hiện tài năng sáng tạo của từng cá
nhân chúng ta? Phải chăng đây chỉ là tình cờ, ngẫu nhiên? Phải chăng là
một thiếu sót, một món nợ nếu chúng ta bỏ qua một danh tác, trong đó
thể hiện cuộc đối đầu giữa văn chương và chủ nghĩa Cộng sản? Bỏ sang
một bên thơ ca Nga thời kỳ 1917-1925, theo tôi, có một vài tác phẩm.
Hai trong số
những tác phẩm tiêu biểu nhất của tiểu thuyết hiện đại, là Phận Người
của Malraux, và "Bóng
tối giữa ngọ" của Koestler. Đây là những tác phẩm
bắt nguồn thẳng từ tác động của phong trào Cộng Sản lên cuộc đời và trí
tưởng tượng của nhà văn. Hơn nữa, chúng còn có giá trị, bởi vì chúng
nhận ra trong chủ nghĩa Cộng sản tranh đấu (militant), có sự hiện hữu
của cả hai, điều cao thượng, và cái ác. Nếu, trong tiến trình của Đảng,
có kẻ nào nhận ra sự độc ác, xảo quyệt, tàn nhẫn xóa sạch mọi giá trị
tư riêng, lại có người tìm thấy sự hy sinh, can đảm, và một niềm tin
mãnh liệt về khả năng của con người sống và chết vì lý tưởng. Không có
chủ nghĩa Mác-xít và niềm tin vào ý thức hệ của Đảng, Bertolt Brecht,
nhà soạn kịch số một của thời đại đã không tìm ra tiếng nói và văn
phong của mình. Hý viện Ba Xu (The
Three-Penny Opera), Mahagonny, và Mẹ
Đảm (Mother Courage) là những vở kịch kinh điển với âm điệu hiện
đại.
Chúng được xếp vào kho danh mục của tình tự chung, nhưng chúng đã được
bắt rễ từ chủ nghĩa Cộng sản cá nhân của Brecht, và trong khung cảnh
lịch sử là sự thất bại của phong trào Cộng sản Đức. Đông Bá linh là
thành phố mà Brecht cả đời luôn hướng tới, dù ê ẩm tới cỡ nào.
Cũng tương tự
như vậy, một số thơ ca tuyệt vời của Aragon đã không thể tách ra khỏi
cái nhìn-thế giới, và kho từ ngữ về chủ nghĩa Cộng sản. Điều này đúng,
với Bác sĩ Zhivago, tuy có vẻ
ngược ngạo, nhưng dứt khoát [là như vậy].
Người ta không thể nào nhìn ra tác phẩm thường xuyên tự mâu thuẫn, mang
tính suy tư, và tản mạn này, nếu không nhận ra một điều: tác giả của
nó, Pasternak đã đắm đuối ở trong những đau thương, và hoài vọng về
Cách Mạng Nga. Trong nhiều chiều hướng, cuốn tiểu thuyết là một biện
minh, một cái cớ (pretext) cho cách mạng; một cuộc cách mạng hướng nội,
toàn diện hơn cả cuộc cách mạng đưa đến xã hội Xô-viết.
Ở nơi khác,
yếu tố Mác-xít và Cộng sản trong nghệ phẩm thường chỉ là chất sơn mờ
nhạt hay là một mã (code) tiện lợi để biểu lộ chủ nghĩa cấp tiến cá
nhân. Rõ nhất là ở những kịch phẩm của O'Casey, hay những bài thơ của
Eluard. Thường xẩy ra trường hợp, người nghệ sĩ muốn phục vụ những yêu
cầu hiện tại của ý thức hệ Đảng, cuối cùng bị hiểu lầm là chống đối,
lật đổ: người ta còn nhớ trường hợp Picasso, vì muốn vinh danh cái chết
của Stalin, đã sản xuất ra được một bức tranh, một anh chàng thanh niên
lơ mơ, mộng mị, với bộ ria thời Victoria.
Sau cùng là
câu hỏi hắc búa nhất về liên hệ giữa nghệ thuật và chủ nghĩa toàn trị,
như tên gọi của nó. Lịch sử dậy chúng ta, một chế độ vương quyền, hoặc
là Augustan Rome, hay Renaissance Florence, hay cung đình Louis XIV,
đều có thể đẻ ra văn chương, nghệ thuật lớn. Những bạo chúa và những
thi sĩ thường xứng hợp với nhau (ngay cả ở Stalin, vẫn có những dấu vết
kỳ quặc của liên hệ này - như cách đối xử của ông với Bulgakov và
Pasternak). Nhưng đâu là cực điểm của chủ nghĩa chuyên chính, một khi
nghệ thuật trở thành đầy tớ, hay rơi vào im lặng? Đâu là lằn ranh giữa
nghệ sĩ như là con thuyền chở đạo, của xã hội anh ta, và [như là] cái
loa tuyên truyền ở đầu ngõ? Đâu là sự khác biệt giữa bài thơ xưng tụng
mà Andrew Marvell dành cho Cromwell, và những tán tụng mà Becher dành
cho Stalin và Ulbricht? Nếu cuốn sách của Rhule không đưa ra một câu
trả lời, ít nhất nó cũng chiếu sáng bản chất vấn đề. Nhưng cái đề tài
hấp dẫn, khẩn cấp này vẫn còn cần phải bàn tiếp.
[Nhà Văn và
Chủ Nghĩa Cộng Sản, The Writer and Communism, viết năm 1961, in lại
trong Ngôn ngữ và Câm lặng, 1967.]
Nguyễn Quốc
Trụ chuyển ngữ
|
|