Phép lạ bí ẩn
Jorge Luis
Borges
Và
Thượng đế làm anh ta chết đi suốt một trăm
năm, và rồi Người cho sống lại và nói:
"Mi ở
đây bao lâu rồi?"
"Một
ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.
Koran, II
261
Lời người dịch:
Vào một buổi sáng tháng Tư, có một người, khi nhìn những đoàn quân tiến
vào
thành phố, đã vui mừng thốt lên, như vậy là ta sẽ chẳng bao giờ phải
viết nữa.
Trước đó có một người, thay vì đếm những giờ phút cuối cùng của đời
mình, mơ Đức
Phật trở lại với thế gian này.
Đọc Borges,
tôi bỗng nhớ đến họ. Và xin tặng bản chuyển ngữ cho những ai đã từng
được Thượng
Đế ban cho một phép lạ bí ẩn, như nhân vật trong truyện...
NQT
Đêm
14 tháng Ba, 1939, trong căn phòng ở
Zelternergasse, Prague, Jaromir Hladík mơ một trận đấu cờ dai dẳng. Anh
là tác
giả Những kẻ thù, một bi kịch chưa hoàn tất, Minh xác Vĩnh cửu, và một
nghiên cứu
những nguồn gốc Do-thái không trực tiếp của Jacob Boehme. Đối thủ không
phải
hai cá nhân, mà là hai gia đình nổi tiếng. Cuộc đấu đã bắt đầu từ bao
thế kỷ
trước. Không ai còn nhớ giải thưởng trị giá bao nhiêu, nhưng nghe nói
lớn kinh
khủng, và có lẽ vô cùng. Quân cờ, bàn cờ được bố trí ở trong một cái
tháp bí mật.
Jaromir (trong giấc mơ) là đứa con đầu lòng của một trong hai gia đình
tranh
đua. Giờ giấc cho nước cờ tới đã được đóng cứng trên mọi mặt đồng hồ,
và không
thể trì hoãn. Người mơ thấy mình chạy dài trên cát, dưới mưa, và không
còn nhớ
được những quân cờ cũng như luật chơi. Tới đó, anh tỉnh dậy. Ngưng
luôn, tiếng ầm
ầm của mưa và tiếng đồng hồ khủng khiếp. Một tiếng động nhịp nhàng,
tách bạch với
những tiếng người ra lệnh, từ Zeltnergasse vang lên. Rạng đông, những
binh đoàn
thiết giáp tiên phong của Đệ Tam Reich đang tiến vào thành phố Prague.
Vào
ngày 19, nhà cầm quyền nhận được lời tố
cáo Jaromir Hladík; buổi chiều cùng ngày, anh bị bắt. Anh được đưa tới
một
doanh trại mầu trắng và được khử trùng, ở phía bờ đối diện Moldau. Anh
không thể
biện bạch, dù chỉ một trong những lời cáo buộc của Gestapo: họ mẹ anh
là
Jaroslavski, máu anh là Do thái, nghiên cứu của anh về Boehme nặng chất
Do
thái, chữ ký của anh, trong thống kê chót, cổ võ sự chống đối
Anschluss. Vào
năm 1928, anh đã dịch Sepher Yezirah cho một nhà xuất bản của Hermann
Barsdorf;
nhằm mục đích thương mại, bản danh mục thái quá của cơ sở này càng
cường điệu
thêm tiếng tăm của người dịch. Danh mục ở trong tay điều tra viên
Julius Rothe,
một trong những viên chức quyết định số phận Hladík. Trừ những kẻ ở
trong môi
trường chuyên môn riêng biệt, có viên chức nào mà không cả tin; chỉ cần
hai hoặc
ba tĩnh từ kiểu Gothic là đủ thuyết phục Julius Rothe về tầm quan trọng
của
Hladík, và ông ta ra lệnh tử hình, pour encourager les autres (1). Cuộc hành quyết được ấn định vào ngày 29
tháng Ba, vào lúc 9 giờ sáng. Sự chậm trễ (độc giả sẽ nhận ra tầm quan
trọng của
nó sau đây) một phần là do nhà cầm quyền mong muốn tiến trình hành động
không
có tính cá nhân, và thật từ từ, như cây cỏ.
Hết
cả hồn vía, đó là phản ứng đầu tiên của
Hladík. Anh biết mình chắc chắn không khiếp sợ, bởi cái giá treo cổ,
đoạn đầu
đài, hay một con dao, nhưng bị xử bắn do một đội hành quyết là điều anh
không
thể chịu nổi. Thật vô ích, khi anh cố tự thuyết phục chính mình, chết,
chỉ riêng
chuyện đó thôi, là một hành động đáng sợ, nhằm nhò chi ba trường hợp lẻ
tẻ. Anh
tưởng tượng đến mệt nhoài, hết chết cách này tới cách khác. Cứ như thế
anh tham
dự hoài hoài, tiến trình cái chết của anh, từ rạng đông không ngủ tới
loạt đạn
huyền bí. Trước ngày chết ấn định bởi Julius Rothe, anh đã chết hàng
trăm lần,
tại những sân bắn mà hình dáng, góc cạnh của chúng thách đố luôn cả môn
hình học;
bị bắn gục bởi hết đám lính này tới đám lính khác, con số người tham dự
cũng
thay đổi, kẻ này lúc bắn gần, kẻ khác lúc bắn xa. Anh đối diện những
cuộc hành
quyết tưởng tượng, khiếp đảm thực sự (và có lẽ, can đảm thực tình).
Cảnh tượng
này mỗi lần kéo dài chừng vài giây đồng hồ. Khi vòng tròn khép kín,
Jaromir lại
thấy mình trở lui hoài hoài với buổi đêm run rẩy, của cái chết ban mai.
Rồi anh
suy ngẫm ra một điều, thực tại vốn không trùng hợp với những dự đoán
của con
người về nó. Với luận lý riêng, anh suy ra rằng, dự đoán một tình
huống, là
ngăn chặn cho nó đừng xẩy ra. Tin tưởng nơi huyền thuật yếu ớt, anh làm
phép:
như vậy chúng sẽ không xẩy ra, những tình huống tối tăm độc địa. Lẽ dĩ
nhiên,
cuối cùng anh cũng đành phải lo sợ, những hoàn cảnh thê lương này mang
tính
tiên tri. Trong đêm tối thương tâm, anh cố nắm chút thời gian trơn
tuột. Anh hiểu
rằng, thời gian, tự nó cũng chúi về buổi mai 29. Anh lớn tiếng suy
luận: Lúc
này, ta hiện đang ở trong đêm 22. Trong khi đêm còn dài (còn 6 đêm sẽ
tới), ta
bất khả xâm phạm, tuyệt đối an toàn, bất tử. Giấc ngủ đêm như những
giếng tối
sâu mà anh tự mình có thể trồi lên. Có những khoảnh khắc, anh nôn nóng
loạt đạn
dứt khoát, tốt cũng vậy, mà xấu cũng xong, nó sẽ giải thoát anh khỏi
nỗi thôi
thúc vô ích của bao điều tưởng tượng. Vào ngày 28, khi ánh dương quang
cuối
cùng chấp chới trên song sổ cao, ý nghĩ về vở bi kịch Những kẻ thù bứt
anh khỏi
những âu lo tuyệt vọng.
Hladík
đã quá 40. Ngoại trừ một số ít bạn bè,
và rất nhiều thói quen, ba bốn điều viết lách là cuộc đời anh. Như tất
cả các
nhà văn, anh đo lường sự thành tựu của kẻ khác bằng những gì họ đã hoàn
tất,
yêu cầu họ đo lường anh bằng những điều anh nghiên cứu, hoạch định. Tất
cả những
cuốn sách anh xuất bản, đã để lại nơi anh một mớ tình cảm hỗn độn, về
nỗi niềm
ăn năn, thống hối. Những nghiên cứu về tác phẩm của Boehme, Ibn Ezra,
và Fludd
cơ bản chỉ là sản phẩm mang tính ứng dụng vậy vậy; dịch bản Sepher
Yezirah, sản
phẩm của sự cẩu thả, mệt mỏi, đoán mò. Minh xác Vĩnh cửu, theo anh, ít
khuyết
điểm hơn: tập đầu là những quan niệm của con người về vĩnh cửu, từ Hiện
Hữu bất
di bất dịch của Parmenides tới Quá Khứ có thể sửa đổi được của Hinton.
Tập thứ
nhì, (cùng với Francis Bradley), phủ nhận điều, tất cả những sự kiện
trong vũ
trụ cấu thành một chuỗi thời gian, bằng cách lập luận rằng, con số kinh
nghiệm
khả hữu của con người thì không vô cùng, và chỉ một lần "lập lại" đủ
chứng minh, thời gian là một ảo tưởng... Bất hạnh thay, những luận cứ
chứng
minh ảo tưởng này, thì cũng ảo tưởng như rứa. Hladík có thói quen vượt
qua
chúng theo kiểu bối rối, nhuốm chút dè bỉu. Anh cũng đã viết một chuỗi
thơ Biểu
Hiện; và nhà thơ chưng hửng, chúng có trong thi tập xuất bản vào năm
1924, và
thi tập nào xuất hiện sau đó cũng đều thừa hưởng chúng. Trong nỗi nôn
nóng cứu
rỗi chính mình, thoát ra khỏi quá khứ mập mờ, và não nề, tất cả đều
trông mong
vào vở bi kịch thơ, Những kẻ thù. (Hladík coi trọng thể kịch thơ, bởi
vì nó làm
cho khán giả không quên phi thực tại, vốn là một điều kiện cần thiết
của nghệ
thuật.)
Tác
phẩm tôn trọng tính đồng nhất của bi kịch
(thời gian, nơi chốn, hành động). Nó mở ra tại Hradcany, trong một thư
viện của
Nam tước Roemerstadt, vào một trong những buổi chiều cuối cùng của thế
kỷ 19.
Trong cảnh một, hồi một, một người lạ tới thăm Roemerstadt. (Đồng hồ gõ
7 tiếng,
sự thôi thúc của những tia mặt trời khi lặn, rực rỡ trên những ô cửa
kính,
không gian có tiếng nhạc Hungary quen thuộc, tha thiết.) Cuộc thăm
viếng kéo
theo những cuộc thăm viếng khác; Roemerstadt không quen biết những
người tới
làm phiền ông, nhưng ông lại có cảm giác khó chịu là ông đã nhìn thấy
họ, trước
đó: có lẽ trong một giấc mơ. Tất cả đều xun xoe, bợ đỡ, nhưng thật hiển
nhiên -
trước tiên là đối với khán giả vở bi kịch, và sau đó, đối với chính Nam
tước -
họ là những kẻ thù bí mật, thề huỷ hoại ông. Roemerstadt tỏ ra cơ trí
hơn, hoặc
đã thoát khỏi những âm mưu lằng nhằng của họ. Trong cuộc đối thoại,
người yêu của
ông, Julia de Weidenau, được nhắc tới, và một tay Jaroslav Kubin nào
đó, có thời
đã từng cầu hôn cô. Kubin bây giờ đã mất trí, và nghĩ anh ta là
Roemerstadt...
Nguy hiểm trùng trùng. Roemerstadt, vào cuối hồi hai, đã bắt buộc phải
giết một
trong những kẻ âm mưu. Hồi ba và là cuối cùng, bắt đầu. Những sự phi lý
cứ thế
tăng thêm: diễn viên, có vẻ như đã đóng xong vai, lại xuất hiện; người
đàn ông
bị Roemerstadt giết, trở lại, một lát thôi. Người nào đó ghi nhận, thời
gian
trong ngày không tiến triển: đồng hồ gõ 7 tiếng, mặt trời hướng tây hắt
lên những
ô cửa sổ cao, nhạc Hungary tha thiết trong không khí. Xướng ngôn viên
thứ nhất
của vở kịch tái xuất hiện và nhắc lại những từ anh ta đã nói trong cảnh
một, hồi
một. Roemerstadt nói chuyện với anh ta, chẳng một chút kinh ngạc. Khán
giả nhận
ra rằng, Roemerstadt là anh chàng Jaroslav Kubin khốn khổ. Vở bi kịch
chưa từng
xẩy ra: chỉ là vòng mê sảng Kubin hoài huỷ sống đi sống lại.
Hladík chẳng
bao giờ tự hỏi chính mình, vở bi hài kịch của những lầm lẫn như vậy, là
vô lý,
hay đáng yêu; có dụng tâm, hay chỉ là tuỳ tiện. Anh trực giác ra rằng,
một âm
mưu như vậy là phát minh thích hợp nhất để che giấu những khiếm khuyết,
và để
biểu tỏ những điểm mạnh của anh, và nó còn cho anh khả năng cứu rỗi,
(một cách
biểu tượng) ý nghĩa căn bản cuộc đời anh. Anh đã hoàn tất hồi nhất và
một cảnh
hay là hai, của hồi ba. Tính vần luật của tác phẩm cho phép anh liên
tục suy
nghĩ về nó, chỉnh lại khổ thơ mà không cần bản thảo ở trước mặt. Anh
nghĩ tới
hai hồi còn phải làm, và cái chết cận kề. Trong bóng đêm, anh khẩn cầu
Thượng Đế.
Nếu, một cách nào đó, con hiện hữu, nếu con không phải là một trong
những lập lại
của Người, và sự lầm lạc; con hiện hữu như là tác giả của Những kẻ thù.
Để hoàn
tất vở bi kịch này, nó có thể sử dụng để biện minh con, biện minh
Người, con cần
một năm nữa. Xin hãy cho con năm đó. Người mà tất cả những thế kỷ, tất
cả thời
gian đều thuộc về Người. Đó là đêm cuối cùng, hãi hùng hơn tất cả,
nhưng chỉ mười
phút sau, giấc ngủ như biển đen sâu thẳm đã nhận chìm anh.
Gần
rạng đông, anh mơ thấy tự giấu mình, ở một
trong những gian, tại thư viện Clementine. Một người thủ thư đeo kính
đen hỏi
anh: Anh kiếm gì? Hladík trả lời: Thượng Đế. Người thủ thư bảo anh:
Thượng Đế ở
một trong những con chữ, của một trong những trang, của một trong
400,000 bộ, của
Clementine. Cha tôi, và những người cha của những người cha của tôi, đã
tìm kiếm
con chữ này. Tôi trở nên mù cũng chỉ vì tìm nó. Ông gỡ cặp kính, và
Hladík nhìn
thấy mắt của ông đã chết. Một độc giả bước vào, mang trả cuốn atlas.
Cuốn atlas
này vô dụng, ông ta nói, và đưa nó cho Hladík, anh mở ra theo ngẫu
nhiên. Trong
một thoáng bàng hoàng, anh nhìn thấy bản đồ xứ Ấn độ. Đột nhiên hết sức
tự tin
về mình, anh chạm vào một trong những con chữ nhỏ bé nhất. Một giọng
như có ở
khắp nơi, nói: Thời gian cho tác phẩm của mi đã được chấp thuận. Hladík
giật
mình thức giấc.
Anh
nhớ ra rằng, những giấc mơ của con người
thuộc về Thượng Đế, và Maimonides đã viết, những từ trong giấc mơ thì
linh hiển,
khi chúng được nói ra một cách rành rẽ, rõ ràng, bởi một người mà không
ai nhìn
thấy. Anh mặc quần áo. Hai người lính vào sà lim và ra lệnh cho anh đi
theo họ.
Từ
bên trong cửa, Hladík đã mường tượng mê
cung với những lối đi, những cầu thang, và những dẫy nhà nối với nhau.
Thực tại
tồi tệ hơn: họ đi xuống một sân trong, bằng thang sắt hẹp chỉ một người
đi lọt.
Một vài người lính - mặc đồng phục, khuy áo mở banh - đang xem xét một
chiếc xe
gắn máy, và bàn cãi về nó. Viên đội nhìn đồng hồ của anh ta: 8 giờ 44.
Họ phải
đợi tới 9 giờ. Hladík thấy mình chẳng đáng chi, hơn là đáng thương hại;
anh ngồi
trên đống gỗ. Anh nhận ra ánh mắt những người lính tránh né anh. Để cho
việc chờ
đợi dễ dàng hơn, viên đội mời anh một điếu thuốc. Hladík không hút
thuốc. Anh
nhận chỉ vì lịch sự, hoặc vì tủi nhục. Trong khi châm thuốc, anh thấy
tay mình
run run. Trời có mây. Những người lính xì xầm nói chuyện, như thể anh
đã chết.
Một cách vô ích, anh cố nhớ một người đàn bà, và qua người này, Julia
de
Weidenau là một biểu tượng...
Đội
hành quyết được tập hợp, và mọi chú ý hướng
về họ. Hladík đứng dựa vào tường doanh trại, đợi loạt đạn. Một người
nào đó tỏ
ý lo ngại, bức tường sẽ dính máu. Kẻ bị kết án được lệnh bước tới phía
trước
vài bước. Thật phi lý, Hladík nhớ lại những sắp xếp sơ khởi của một
người thợ
chụp hình. Một giọt mưa nặng nề rớt, trên thái dương Hladík, rồi lăn
dần xuống
má. Viên đội hô mệnh lệnh cuối cùng.
Vũ
trụ vật chất dừng lại.
Súng chĩa
vào Hladík, nhưng những người được lệnh bóp cò đều bất động. Cánh tay
viên đội
trở thành thiên thu, trong cử động chưa kịp hoàn tất. Trên phiến đá lát
sân, một
con ong để bóng im của nó. Gió ngưng, như trong một bức tranh. Hladík
cố kêu một
tiếng, một từ, cố nhấc tay. Anh nhận ra mình liệt cứng. Không một âm
thanh
thoát ra từ thế giới đứng dừng.
Anh nghĩ: Ta
đang ở địa ngục. Ta đã chết.
Anh nghĩ: Ta
điên rồi.
Anh nghĩ: Thời
gian ngưng.
Rồi anh suy
nghĩ, trong trường hợp như vậy, ý nghĩ của anh, cũng phải tới một điểm
ngừng.
Anh nóng lòng xét nghiệm khả năng này: anh nhắc lại (mà không mấp máy
môi) Bài
Thơ bí ẩn thứ Tư của Virgil. Anh tưởng tượng những người lính đằng xa
cùng chia
sẻ với anh nỗi nôn nóng; anh mong được liên lạc với họ. Anh sững sờ khi
thấy
mình không một chút mệt mỏi, không choáng váng vì sự bất động hoài huỷ.
Sau một
thời gian dài, không biết là bao lâu, anh rơi vào giấc ngủ. Khi tỉnh
dậy, anh
nhận ra thế giới vẫn bất động, tê cóng. Giọt mưa vẫn đọng trên má anh;
bóng con
ong vẫn dừng trên mặt phiến đá; khói từ điếu thuốc anh ném bỏ vẫn chưa
tan. Một
"ngày" khác đã qua, trước khi anh hiểu được.
Anh
đã xin Thượng Đế cho anh một năm để hoàn
thành tác phẩm: Quyền năng vô hạn của Người đã bảo đảm điều này. Vì
anh, Thượng
Đế đã hoàn thành một phép lạ bí ẩn: Sự thắng thế, dẫn đầu của đối thủ
Đức sẽ giết
anh, ở một giờ giấc nhất định, nhưng trong tư tưởng của anh, một năm đã
qua đi,
giữa lệnh bắn của viên đội, và cuộc hành quyết. Hoang mang, anh đi tới
ngỡ
ngàng; từ ngỡ ngàng tới cam phận, từ cam phận tới lòng tri ân bất ngờ.
Anh
đâu có tài liệu chi, ngoài hồi ức của
riêng mình. Đám rong chơi tài tử, vốn đã quên những chương đoạn mơ hồ,
phù phiếm,
họ không thể tưởng tượng, anh đã từng có được một sự nghiêm thủ hạnh
phúc, khi
làm chủ từng khổ thơ thêm vô đó. Anh không làm, cho hậu thế, ngay cả
cho Thượng
Đế, cũng không, những thưởng ngoạn văn chương cũng chỉ là vô danh đối
với anh.
Hết sức tỉ mỉ, không cử động, hết sức bí mật, anh dệt đúng thời gian,
mê cung
vô hình, kiêu hãnh của anh. Anh làm đi làm lại hai lần, hồi thứ ba. Anh
bỏ đi
những biểu tượng quá lộ liễu: tiếng đập của thời gian, của âm nhạc.
Chẳng có gì
thúc hối anh. Anh bỏ bớt, anh cô đọng, anh khuếch đại. Có chỗ, anh trở
lại
nguyên bản. Anh thấy mình trở nên trìu mến cái sân, doanh trại, một
trong những
mặt tiền của nó, trước mặt anh, đã sửa đổi quan niệm của anh về tính
tình của
Roemerstadt. Anh khám phá ra rằng, những tạp âm nặng nề đã làm Flaubert
bực
mình rất nhiều, chỉ là những mê tín thị giác, sự yếu đuối và giới hạn
của chữ
viết, không phải chữ có âm thanh, trầm bổng... Anh kết thúc bi kịch của
anh.
Anh chỉ còn bận tâm với mỗi một câu. Anh đã kiếm thấy nó. Giọt mưa lăn
trên má
anh. Anh bắt đầu một tiếng kêu man rợ, xoay mặt qua một bên. Ba bề, bốn
phía, một
luồng hơi đẩy anh té xuống.
Jaromir
Hladík chết vào ngày 29 tháng Ba, lúc
9:02 sáng.
(Theo
bản Anh ngữ của Anthony Kerrigan, và bản
của Harriet de Onís)
(1) Tiếng
Pháp trong nguyên bản, nghĩa: Để khuyến khích những kẻ khác.
THE
SECRET MIRACLE
And God made
him die during the course of a hundred years and then He revived him
and said:
"How
long have you been here?"
"A day,
or part of a day," he replied.
- The Koran,
IT 261
On the night
of March 14, 1939, in an apartment on the Zelternergasse in Prague,
Jaromir
Hladik, author of the unfinished tragedy The
Enemies, of a Vindication of Eternity,
and of an inquiry into the
indirect Jewish sources of Jakob Boehme, dreamt a long drawn out chess
game.
The antagonists were not two individuals, but two illustrious families.
The
contest had begun many centuries before. No one could any longer
describe the
forgotten prize, but it was rumored that it was enormous and perhaps
infinite.
The pieces and the chessboard were set up in a secret tower. Jaromir
(in his
dream) was the first-born of one of the contending families. The hour
for the
next move, which could not be postponed, struck on all the clocks. The
dreamer
ran across the sands of a rainy desert-and he could not remember the
chessmen
or the rules of chess. At this point he awoke. The din of the rain and
the
clangor of the terrible clocks ceased. A measured unison, sundered by
voices of
command, arose from the Zelternergasse. Day had dawned, and the armored
vanguards of the Third Reich were entering Prague.
On the 19th,
the authorities received an accusation against Jaromir Hladik; on the
same day,
at dusk, he was arrested. He was taken to a barracks, aseptic and
white, on the
opposite bank of the Moldau. He was unable to refute a single one of
the
charges made by the Gestapo: his maternal surname was Jaroslavski, his
blood
was Jewish, his study of Boehme was Judaizing, his signature had helped
to
swell the final census of those protesting the Anschluss. In 1928, he
had
translated the Sepher Yezirah for the publishing house of Hermann
Barsdorf; the
effusive catalogue issued by this firm had exaggerated, for commercial
reasons,
the translator's renown; this catalogue was leafed through by Julius
Rothe, one
of the officials in whose hands lay Hladik's fate. The man does not
exist who,
outside his own specialty, is not credulous: two or three adjectives in
Gothic
script sufficed to convince Julius Rothe of Hladik's pre-eminence, and
of the
need for the death penalty, pour
encourager les autres. The execution was set for the 29th of March,
at nine
in the morning. This delay (whose importance the reader will appreciate
later)
was due to a desire on the part of the authorities to act slowly and
impersonally, in the· manner of planets or vegetables.
Hladik's
first reaction was simply one of horror. He was sure he would not have
been
terrified by the gallows, the block, or the knife; but to die before a
firing
squad was unbearable. In vain he repeated to himself that the pure and
general
act of dying, not the concrete circumstances, was the dreadful fact. He
did not
grow weary of imagining these circumstances: he absurdly tried to
exhaust all
the variations. He infinitely anticipated the process, from the
sleepless dawn
to the mysterious discharge of the rifles. Before the day set by Julius
Rothe,
he died hundreds of deaths, in courtyards whose shapes and angles
defied geometry,
shot down by changeable soldiers whose number varied and who sometimes
put an
end to him from dose up and sometimes from far away. He faced these
imaginary executions
with true terror (perhaps with true courage). Each simulacrum lasted a
few
seconds. Once the circle was closed, Jaromir returned interminably to
the
tremulous eve of his death. Then he would reflect that reality does not
tend to
coincide with forecasts about it. With perverse logic he inferred that
to
foresee a circumstantial detail is to prevent its happening. Faithful
to this
feeble magic, he would invent, so that they might not happen, the most
atrocious particulars. Naturally, he finished by fearing that these
particulars
were prophetic. During his wretched nights he strove to hold fast
somehow to
the fugitive substance of time. He knew that time was precipitating
itself
toward the dawn of the 29th. He reasoned aloud: I am now
in the night of the 22nd.
While this night lasts (and for six more
nights to come) I am
invulnerable, immortal. His nights of sleep seemed to him deep dark
pools into
which he might submerge. Sometimes he yearned impatiently for the
firing
squad's definitive volley, which would redeem him, for better or for
worse,
from the vain compulsion of his imagination. On the 28th, as the final
sunset
reverberated across the high barred windows, he was distracted from all
these
abject considerations by thought of his drama, The
Enemies.
Hladik was
past forty. Apart from a few friendships and many habits, the
problematic
practice of literature constituted his life. Like every writer, he
measured the
virtues of other writers by their performance, and asked that they
measure him
by what he conjectured or planned. All of the books he had published
merely
moved him to a complex repentance. His investigation of the work of
Boehme, of
Ibn Ezra, and of Fludd was essentially a product of mere application;
his
translation of the Sepher Yezirah was
characterized by negligence, fatigue, and conjecture. He judged his Vindication of Eternity to be perhaps
less deficient: the first volume is a history of the diverse eternities
devised
by man, from the immutable Being of Parmenides to the alterable past of
Hinton;
the second volume denies (with Francis Bradley) that all the events in
the
universe make up a temporal series. He argues that the number of
experiences
possible to man is not infinite, and that a single "repetition"
suffices to demonstrate that time is a fallacy…. Unfortunately, the
arguments
that demonstrate this fallacy are not any less fallacious. Hladik was
in the
habit of running through these arguments with a certain disdainful
perplexity.
He had also written a series of expressionist poems; these, to the
discomfiture
of the author, were included in an anthology in 1924, and there was 110
anthology of later date which did not inherit them. Hladik was anxious
to
redeem himself from his equivocal and languid past with his verse
drama, The
Enemies. (He favored the verse form in the theater because it prevents
the
spectators from forgetting unreality, which is the necessary condition
of art.)
This opus
preserved the dramatic unities (time, place, and action). It transpires
in
Hradcany, in the library of the Baron Roemerstadt, on one of the last
evenings
of the nineteenth century. In the first scene of the first act, a
stranger pays
a visit to Roemerstadt. (A clock strikes seven, the vehemence of a
setting sun
glorifies the window panes, the air transmits familiar and impassioned
Hungarian music.) This visit is followed by others; Roemerstadt does
not know
the people who come to importune him, but he has the uncomfortable
impression
that he has seen them before: perhaps in a dream. All the visitors fawn
upon
him, but it is obvious-first to the spectators of the drama, and then
to the
Baron himself-that they are secret enemies, sworn to ruin him.
Roemerstadt
manages to outwit, or evade, their complex intrigues. In the course of
the
dialogue, mention is made of his betrothed, Julia de Weidenau, and of a
certain
Jaroslav Kubin, who at one time had been her suitor. Kubin has now lost
his
mind and thinks he is Roemerstadt. • • • The dangers multiply.
Roemerstadt, at
the end of the second act, is forced to kill one of the conspirators.
The third
and final act begins. The incongruities gradually mount up: actors who
seemed
to have been discarded from the play reappear; the man who had been
killed by
Roemerstadt returns, for an instant. Someone notes that the time of day
has not
advanced: the clock strikes seven, the western sun reverberates in the
high
window panes, impassioned Hungarian music is carried on the air. The
first
speaker in the play reappears and repeats the words he had spoken in
the first
scene of the first act. Roemerstadt addresses him without the least
surprise.
The spectator understands that Roemerstadt is the wretched Jaroslav
Kubin. The
drama has never taken place: it is the circular delirium which Kubin
unendingly
lives and relives.
Hladik had
never asked himself whether this tragicomedy of errors was preposterous
or
admirable, deliberate or casual. Such a plot, he intuited, was the most
appropriate invention to conceal his defects and to manifest his strong
points,
and it embodied the possibility of redeeming (symbolically) the
fundamental
meaning of his life. He had already completed the first act and a scene
or two
of the third. The metrical nature of the work allowed him to go over it
continually, rectifying the hexameters, without recourse to the
manuscript. He
thought of the two acts still to do, and of his coming death. In the
darkness,
he addressed himself to God. If I exist
at all, if I am not one of Your
repetitions and errata, I exist as the author of The Enemies. In order to bring this drama, which may
serve to justify me, to justify You, I need one more year. Grant-me
that year,
You to whom belong the centuries and all time. It was the last, the
most
atrocious night, but ten minutes later sleep swept over him like a dark
ocean
and drowned him.
Toward dawn,
he dreamt he had hidden himself in one of the naves of the Clementine
Library.
A librarian wearing dark glasses asked him: What
are you looking for? Hladik answered: God.
The Librarian told him: God is in one of
the letters on one of the pages of one of the 400,000 volumes of the
Clementine. My fathers and the fathers of my fathers have sought
after that
letter. I've gone blind looking for it. He removed his glasses, and
Hladik saw
that his eyes were dead. A reader came in to return an atlas. This atlas is useless, he said, and
handed it to Hladik, who opened it at random. As if through a haze, he
saw a
map of India. With a sudden rush of assurance, he touched one of the
tiniest
letters. An ubiquitous voice said: The time
for your work has been granted. Hladik awoke.
He
remembered that the dreams of men belong to God, and that Maimonides
wrote that
the words of a dream are divine, when they are all separate and clear
and are
spoken by someone invisible. He dressed. Two soldiers entered his cell
and
ordered him to follow them.
From behind
the door, Hladik had visualized a labyrinth of passageways, stairs, and
connecting blocks. Reality was less rewarding: the party descended to
an inner
courtyard by a single iron stairway. Some soldiers-uniforms
unbuttoned-were
testing a motorcycle and disputing their conclusions. The sergeant
looked at
his watch: it was 8:44. They must wait until nine. Hladik, more
insignificant
than pitiful, sat down on a pile of firewood. He noticed that the
soldiers'
eyes avoided his. To make his wait easier, the sergeant offered him a
cigarette. Hladik did not smoke. He accepted the cigarette out of
politeness or
humility. As he lit it, he saw that his hands shook. The day was
clouding over.
The soldiers spoke in low tones, as though he were already dead.
Vainly, he
strove to recall the woman of whom Julia de Weidenau was the symbol. .
..
The firing
squad fell in and was brought to attention.
Hladik,
standing against the barracks wall, waited for the volley. Someone
expressed
fear the wall would be splashed with blood. The condemned man was
ordered to
step forward a few paces. Hladik recalled, absurdly, the preliminary
maneuvers
of a photographer. A heavy drop of rain grazed one of Hladik's temples
and
slowly rolled down his cheek. The sergeant barked the final command.
The physical
universe stood still.
The rifles
converged upon Hladik, but the men assigned to pull the triggers were
immobile.
The sergeant's arm eternalized an inconclusive gesture. Upon a
courtyard flagstone
a bee cast a stationary shadow. The wind had halted, as in a painted
picture.
Hladik began a shriek, a syllable, a twist of the hand. He realized he
was
paralyzed. Not a sound reached him from the stricken world.
He thought: I'm
in hell, I'm dead.
He thought: I've
gone mad.
He thought: Time
has come to a halt.
Then he
reflected that in that case, his thought, too, would have come to a
halt. He
was anxious to test this possibility: he repeated (without moving his
lips) the
mysterious Fourth Eclogue of Virgil. He imagined that the already
remote
soldiers shared his anxiety; he longed to communicate with them. He was
astonished that he felt no fatigue, no vertigo from his protracted
immobility.
After an indeterminate length of time he fell asleep. On awaking he
found the
world still motionless and numb. The drop of water still clung to his
cheek;
the shadow of the bee still did not shift in the courtyard; the smoke
from the
cigarette he had thrown down did not blow away. Another "day" passed
before Hladik understood.
He had asked
God for an entire year in which to finish his work: His omnipotence had
granted
him the time. For his sake, God projected a secret miracle: German lead
would
kill him, at the determined hour, but in his mind a year would elapse
between
the command to fire and its execution. From perplexity he passed to
stupor,
from stupor to resignation, from resignation to sudden gratitude.
He disposed
of no document but his own memory; the mastering of each hexameter as
he added
it, had imposed upon him a kind of fortunate discipline not imagined by
those
amateurs who forget their vague, ephemeral, paragraphs. He did not work
for
posterity, nor even for God, of whose literary preferences he possessed
scant
knowledge. Meticulous, unmoving, secretive, he wove his lofty invisible
labyrinth in time. He worked the third act over twice. He eliminated
some
rather too-obvious symbols: the repeated striking of the hour, the
music. There
were no circumstances to constrain him. He omitted, condensed,
amplified;
occasionally, he chose the primitive version. He grew to love the
courtyard,
the barracks; one of the faces endlessly confronting him made him
modify his
conception of Roemerstadt's character. He discovered that the hard
cacophonies
which so distressed Flaubert are mere visual superstitions: debilities
and
annoyances of the written word, not of the sonorous, the sounding one.
• • • He
brought his drama to a conclusion: he lacked only a single epithet. He
found
it: the drop of water slid down his cheek. He began a wild cry, moved
his face
aside. A quadruple blast brought him down.
]aromir
Hladik died on March 29, at 9:02 in the morning.
1943
-Translated
by ANTHONY KERRIGAN