Cầm Dương Xanh
Câu chuyện lạ thường về "sự sống sót
của một người, one
man’s survival" - một nhạc sĩ dương cầm tại ghetto Warsaw,
thời kỳ Lò Thiêu.
Wladyslaw Szpilman (1912-2000), tác
giả Nhạc sĩ dương cầm
(The pianist), bố mẹ là người Ba Lan gốc Do Thái, đệ tử của nhà soạn
nhạc và
chơi dương cầm Athur Schnabel. Vào lúc buổi mai hứa hẹn một sự nghiệp
lớn lao,
Nazi xâm lăng Ba Lan. Vào tháng 9 năm 1939, trong lúc ông đang chơi
trên đài
phát thanh Ba Lan bản "Dạ Khúc cung ut dièse mineur", của Chopin, bom
quốc xã Đức làm câm tiếng nhạc. Trong ba năm, ông sống trong ghetto
cùng với
gia đình. Tháng Tám 1942, người thân của ông bị tống xuất, riêng ông,
vào đúng
phút chót, được một tay cảnh sát mê nhạc cứu khỏi đoàn công voa chở
người tới
Lò Thiêu. Trong hai năm rưỡi, ông sống chui. Vào năm 1945, Đài Phát
Thanh Ba
Lan lại cất tiếng, bằng bản Dạ Khúc ông trình diễn dở dang, sáu năm
trước đó.
Vào năm 1946, ông cho xuất bản, [bằng tiếng Ba Lan], câu chuyện lạ
thường, khó
tin, về sự sống sót của ông, và nhờ đó, ông có biệt danh là "Lỗ Bình
Sơn
của Warsaw". Cuốn sách vừa in ra là tuyệt bản. Sau chiến tranh, ông
trông
coi đài phát thanh Ba Lan, và sống cuộc đời soạn nhạc và chơi dương
cầm. Ông
mất tại Warsaw ngày 6
tháng 7 năm
2000, thọ 88 tuổi.
Câu chuyện kể này đã được Roman
Polanski dựng thành phim,
The Pianist (2002). Vai Wladyslav Szpilman do Adrien Brody đóng, nhờ
vai này,
anh lãnh giải diễn viên số một (best actor), Oscar 2003, và Polanski,
đạo diễn
số một, best director.
Theo người điểm phim của tờ Người Nữu
Ước, David Denby, đây
là một phim tuyệt vời, về mặt đạo diễn, cảm quan về "scale" (tỉ lệ),
và về chi tiết rất trung thực (exact), sự hung bạo không bị cường điệu,
và cũng
không bị coi là thứ yếu, nhưng được trình bầy với một sự chính xác,
theo kiểu
mắt thấy tai nghe, Tuy nhiên chưa thể coi là một nghệ phẩm có tính uyên
nguyên
và tưởng tượng cao. Nhân vật chính thiếu chiều sâu, và đề tài sống sót
nhờ sống
chui sống nhũi được lập đi lập lại, do bản chất của chính cái gọi là
"sống
sót". Đây cũng là quan điểm của người chuyển thể từ chuyện qua phim,
Ronald Harwood, khi không toan tính đưa ra một mẫu người hùng, và mở
mọi cánh
cửa cho mọi dự đoán: Liệu nhân vật chính cảm thấy mình nhục nhã, tủi
hổ, bất
cần, tội lỗi? Chúng ta chẳng thể đoán, vì chẳng có một chứng cớ, một
dấu vết.
Sự sống sót của ông ta bất thường, lầm lẫn, giống như một câu chuyện
tiếu lâm
[nhờ một tay mê nhạc cứu, đúng vào giây phút thần chết gọi, thí dụ
vậy]. Và đây
chính là lý do mà nhà đạo diễn lừng danh Polanski đã chọn cuốn sách,
dựng thành
phim, và quay tại Warsaw.
******
Người chơi dương cầm
(The pianist)
Lời nói đầu
Cho mãi tới mấy năm gần đây, cha tôi
chẳng hề nói gì về
những kinh nghiệm thời chiến tranh của ông. Vậy mà chúng ở với tôi suốt
cả thời
thơ ấu. Nhờ cuốn sách này, mà tôi xoáy được, từ một xó xỉnh của những
giá sách,
khi tôi 12 tuổi, tôi đã khám phá ra tại sao mình không có ông bà nội,
và lý do
nào mà cha tôi chẳng bao giờ nói về gia đình mình. Nhờ nó mà một phần
con người
của tôi, lộ ra. Tôi biết ông già biết, rằng thằng con đã đọc cuốn sách,
nhưng
chẳng bao giờ cha con bàn về chuyện đó. Tôi vẫn nghĩ, cuốn sách chẳng
có một ý
nghĩa nào với những người khác, những người ngoại cuộc, cho tới khi tôi
kể câu
chuyện của cha tôi cho một người bạn của tôi, là Wolf Biermann.
Tôi sống nhiều năm ở Đức, và tôi luôn
ý thức về khoảng trống
nhức nhối, là không có cảm thông giữa người Do Thái, người Đức, và
người Ba
Lan. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ đóng lại một vài vết thương vẫn còn
mở ra.
Cha tôi, Wladyslaw Szpilman không phải
là nhà văn. Do nghề
nghiệp mà ông được người Ba Lan gọi là "một người đàn ông mà với người
đó,
âm nhạc sống" (a man in whom music lives): chơi dương cầm và soạn nhạc,
một con người như thế vốn được coi là một hình tượng có ý nghĩa và gây
hứng
khởi, trong văn hoá Ba Lan.
Cha tôi hoàn tất việc học duơng cầm
với Arthur Schnabel, tại
Viện Hàn Lân Nghệ Thuật Bá Linh, và cũng tại đây, ông còn học soạn nhạc
với
Franz Schreker. Khi Hitler lên cầm quyền vào năm 1933, ông trở về Warsaw
và bắt đầu làm việc như là một người chơi dương cầm cho Đài Phát Thanh
Ba Lan.
Thời gian 1939 ông đã sáng tác nhiều bản nhạc dùng trong phim ảnh, cũng
như
nhiều bài nhạc phổ thông (chanson et mélodie) rất được ưa chuộng vào
thời kỳ
đó. Trước khi chiến tranh bùng nổ, ông chơi nhạc cùng với những người
như
Bronislav Gimpel, một tay vĩ cầm nổi tiếng trên thế giới, hay Henryk
Schoering,
và một số những nhạc sĩ nổi tiếng khác.
Kể từ năm 1945, ông trở lại với những
công việc tại đài phát
thanh Ba lan, và cùng lúc, thực hiện những buổi hoà nhạc, độc diễn hay
trình
diễn nhạc thính phòng. Ông sáng tác một vài bản giao hưởng và cỡ chừng
ba trăm
bản dân ca, trong đó có khá nhiều bản thuộc loại top hit. Ông cũng làm
nhạc
thiếu nhi, nhạc cho phim, và cho kịch truyền thanh.
Ông là giám đốc bộ phận âm nhạc của
Đài Phát Thanh Ba Lan
cho tới năm 1963 thì xin nghỉ, dành thời giờ cho những buổi lưu diễn âm
nhạc và
cho ban nhạc Warsaw Piano Quintet, do ông và Bronislav Gimpel thành
lập. Sau
khi hoàn tất hơn hai ngàn buổi hoà tấu và chơi nhạc (recitals) tại
nhiều nơi
trên toàn thế giới, cha tôi lui khỏi cuộc sống trình diễn âm nhạc dành
cho công
chúng vào năm 1986, và dành hết thời giờ còn lại cho việc soạn nhạc.
Có một sự ân hận riêng tư, hoàn toàn
là của riêng tôi, rằng
nhạc của ông vẫn chưa được nhiều người biết tới, tại thế giới Tây
phương. Một
lý do của nó, theo tôi, là sự phân đôi Âu Châu, về văn hoá và chính
trị, sau
Thế Chiến II. Xuyên suốt nơi nơi, là thứ âm nhạc nhẹ, mua vui, vốn dễ
tới với
đa số công chúng thưởng ngoạn, so với thứ âm nhạc "nghiêm túc" mang
tính cổ điển, và ở Ba Lan cũng vậy thôi. Người ở đó đã trưởng thành với
những
bản nhạc của cha tôi, bởi vì ông đã vẽ nên khuôn mặt âm nhạc Ba lan
trong vòng
vài thập niên - nhưng biên giới về phía Tây của Ba Lan đã tạo một rào
cản đối
với thứ âm nhạc như thế.
Cha tôi viết ấn bản đầu tiên của cuốn
sách này vào năm 1945,
và tôi nghi, ông viết cho ông thôi, chứ không hề nghĩ rằng mình viết
cho nhân
loại nói chung. Nó - cái việc viết cuốn sách - làm ông có thể chịu đựng
được
những kinh nghiệm thời chiến tranh, làm cho đầu óc của ông thoải mái,
làm cho
phần đời tình cảm của ông dễ chịu, nhờ vậy ông có thể tiếp tục sống
cuộc đời
của mình.
Cuốn sách chẳng hề được tái xuất bản
[do Ba Lan sống dưới
chế độ Cộng Sản. CTND]. Mặc dù vào thập niên 1960, một số nhà xuất bản
Ba Lan
đã cố gắng tái bản, như là một cuốn sách dành cho thế hệ trẻ hơn. Nhưng
những
cố gắng của họ đều gặp trở ngại. Nhà nuớc khi đó không đưa ra những lời
giải
thích chính thức, nhưng thôi kệ họ, bởi vì hiển nhiên là họ có những lý
do của
họ.
Trên năm mươi năm đã qua, kể từ lần
xuất bản đầu. Lời chứng
này bây giờ lại có cơ hội tới với người đọc, và điều này, biết đâu, tạo
nên một
sự khuyến khích, cổ võ, đối với tất cả những người Ba Lan có thiện chí,
để cho
cuốn sách có được tiếng nói Ba Lan của nó, tại xứ sở Ba Lan của nó.
Andrzej Szpilman
Chương Một
Giờ của Những Đứa Trẻ và Những Người
Điên
Tôi bắt đầu nghề chơi dương cầm tại
quán cà phê Nowoczesna,
phố Nowolipki, ngay tại trái tim của khu ghetto Warsaw.
Vào thời gian mà ghetto bị dẹp, vào tháng Một năm 1940, gia đình tôi,
trước đó,
đã phải bán không còn một thứ gì ở trong nhà, luôn cả món đồ quí giá
nhất, là
cây đàn dương cầm. Cuộc sống, cho dù chẳng còn chi quan trọng, không
cho phép
tôi được ngồi ỳ ra đó mà than van, và phải tìm ra con đường mưu sinh.
Và cám ơn
Trời, tôi đã kiếm ra. Công việc chơi dương cầm tại quán cà phê làm cho
tôi chẳng
còn thì giờ mà than van về nỗi đen đủi, và niềm lo âu, cả gia đình
trông vào
một mình mình, đã khiến tôi vượt lên sự tuyệt vọng và chán ngán.
Ngày làm việc của tôi bắt đầu vào sau
trưa. Muốn tới tiệm cà
phê, tôi phải len lỏi trong những ngõ ngách giống như đường bàn cờ, và
có khi,
để thay đổi, tôi đi dọc theo khu bờ tường, và như thế, tôi có thể quan
sát hoạt
động nhộn nhịp của những người buôn lậu.
Xế trưa là thời điểm tốt nhất để buôn
lậu. Đám cảnh sát, mệt
nhoài sau một buổi sáng nhét đầy túi, lúc đó lo đếm tiền. Những bóng
người
không ngừng di động, xuất hiện tại những cửa sổ hay những hành lang
trong những
khu nhà dọc theo bờ tường, rồi lại chui rúc ẩn trốn, nôn nóng chờ đợi
chuyến
hàng. Có tiếng xe, tiếng giầy bốt từ phía bên kia bức tuờng vọng qua,
và khi
chiếc xe ngựa chạy tới điểm hẹn, một tiếng huýt sáo có thể vọng lên, và
những
bao bị cứ thế bay qua tường. Những bóng người nôn nóng chờ đợi, từ
những xó
xỉnh hành lang ùa ra, quơ vội hàng, chạy về chỗ núp. Và sau đó, một sự
yên ắng
chứa đầy cạm bẫy, lừa lọc, nhưng cũng đầy nôn nao, trông chờ, trong
giây lát
phủ lên khu phố. Vào những ngày cảnh sát chịu khó săn ruồng, bạn nghe
thấy
tiếng súng hoà lẫn tiếng xe ngựa, và những trái lựu đạn cầm tay, thay
vì những
bị hàng, được quăng qua tường, gây những tiếng nổ inh tai, và làm văng
những
mảnh gạch vụn từ những tòa nhà bên trong ghetto, sát bên bức tường.
Những bức tường bao quanh khu ghetto,
có những khúc không
dựng lên từ mặt đường, mà lại ăn sâu xuống dưới mặt đất, tạo ra những
ống dẫn,
nước từ khu dân Đức đổ xuống đó, ngay bên dưới khu Do Thái. Trẻ con
thường dùng
những ống nước làm nơi buôn lậu. Bạn có thể nhìn thấy những cái bóng
đen nho
nhỏ, những cẳng chân như những que diêm, ngó ngược ngó xuôi, từ mọi
phía lốc
nhốc ùa tới khu ống nước, vớ vội những bị hàng trong ngày, thường quá
khổ so
với vóc dáng của chúng. Và, lặc lè với những bị hàng ở trên vai, trên
đầu, trên
cổ, loạng choạng chạy, miệng há hốc vì vác nặng, và để thở, những hơi
thở đứt
đoạn, chúng bung ra mọi phía, giống như bầy chuột hoảng loạn.
Việc buôn lậu của chúng thì cũng đầy
rủi ro, nguy hiểm đến
tính mạng, đến cẳng chân cẳng tay của chúng, chẳng khác chi của người
lớn. Một
bữa, trong lúc, đi dọc bờ tường, tôi nhìn thấy một vụ buôn lậu của trẻ
con như
vậy đang có mòi xuông xẻ. Thằng bé Do Thái lúc đó đã ở phía bên này của
bức
tường, và chỉ còn lo cõng hàng về bến, qua cống nước. Cái bóng của nó
vừa mới
ló ra, thì bất thình lình nó rú lên, và cùng lúc, tôi nghe có tiếng la
thét
giọng khàn khàn giận dữ của một tên Đức từ phía bên kia bức tường. Tôi
vội vàng
chạy tới cố kéo thằng bé thoát ra khỏi khu nguy hiểm, nhanh được phút
nào quí
phút đó, nhưng số mệnh như chế nhạo cả hai, bởi vì mặc dù những cố gắng
của
tôi, hai háng thằng bé nó bị mắc cứng vào phía bên trong ống nước. Tôi
cố kéo cánh
tay nhỏ bé của thằng nhỏ, trong khi những tiếng kêu la của nó mỗi lúc
một thêm
tuyệt vọng, và tôi có thể nghe thấy tiếng dùi cui của tên cảnh sát
giáng lên
phía thân thể còn kẹt lại của đứa bé, từ phía bên kia bức tường. Sau
cùng, tôi
cũng kéo được đứa bé ra khỏi cống mước, nhưng nó đã chết, xuơng sống
lưng bị
gãy nát.
Đúng ra là trại cấm (ghetto) không phụ
thuộc vào thứ hàng
lậu này, để tự nuôi sống. Hầu hết những bao bị tuồn qua tường, là đồ
tặng từ
những người Ba Lan cho trẻ em Do Thái nghèo đói nhất. Buôn lậu, thứ
thiệt, và
diễn ra đều đặn, được thực hiện bởi hai người cầm đầu là Kon và Heller.
Dễ dàng
hơn, và kể như chắc ăn. Cảnh sát ăn hối lộ chỉ cần vờ đi, tại những
nơi, vào
giờ giấc thoả thuận trước. Chỉ cần nháy nháy ra dấu, hoặc một ám hiệu
nào đó,
thế là trọn một đoàn xe chạy thẳng qua cổng, ngờ ngờ trước mũi họ, trên
xe chở
thực phẩm, rượu mắc tiền, thức ăn đồ uống thượng hạng, thuốc lá nhập từ
Hy Lạp,
xà bông, nước hoa Pháp, cứ thế mà vô chẳng gặp trắc trở gì hết.
Chúng sờ sờ trước mắt tôi hàng ngày -
tôi muốn nói những món
hàng cao cấp đó - tại tiệm cà phê Nowoczesna. Đây là nơi lui tới của
những
người giầu có, cùng bồ bịch của họ, trưng diện những món nữ trang,
những viên
kim cương đắt tiền. Tiếng mở sâm banh nghe bốp bốp. Những cô gái ăn mặc
sặc sỡ,
ngồi nơi bàn, nơi ba, nơi quầy rượu, phô bày nhan sắc, sự duyên dáng
cho những
kẻ cơ hội, chộp giựt, lợi dụng chiến tranh. Tôi mất hai ảo tưởng ở đây:
niềm
tin vào tính đoàn kết, tương trợ nói chung, của con người, và vào âm
nhạc của
người Do Thái.
Không một người ăn xin nào được bén
mảng bên ngoài tiệm cà
phê. Những người gác cửa lực lưỡng xua đuổi họ bằng gậy gộc. Những
chiếc xe
kéo, đôi khi từ xa tới, ghé tiệm, trên xe bước xuống là những người
khách trong
những chiếc áo lạnh bằng da thú, đầu đội mũ đắt tiền, choàng khăn lụa
mùa hè
của Pháp. Trước khi tới gần cửa, chẳng cần mấy người gác lực luỡng,
chính họ
dùng gậy gộc xua đám người nghèo đói chờn vờn xa xa, phía bên ngoài cửa
tiệm,
mặt người khách nào như người khách nấy, đều méo xệch vì giận dữ, hoặc
ghê tởm
đám người bần cùng. Theo cách nhìn của họ, lòng nhân ái chỉ làm cho con
người
yếu đi. Hãy nhìn kỹ đây: Nếu bạn chịu khó làm việc như tụi này, bạn sẽ
hưởng
như tụi này. Trời có cấm cửa ai đâu chứ? Và nếu bạn ngu quá đi, không
biết cách
kiếm ra đồng tiền, thì đó là lỗi của bạn, đừng đổ vạ cho ông trời!
Chỉ một khi thoải mái ngồi bên những
chiếc bàn nho nhỏ,
trong quán cà phê, cũng chỉ là nơi lui tới vì công chuyện, họ bắt đầu
than van,
lúc này sao khó kiếm tiền, và cái đám Mỹ Do Thái thật khó thương, chẳng
lo cứu
trợ giúp đỡ đồng bào mình còn kẹt lại. Bọn họ nghĩ, họ đang làm gì?
Trong khi ở
đây, người ta chết đói, không có lấy một mẩu bánh nhét vô họng. Những
điều ghê
gớm nhất cứ thế xẩy ra hàng ngày, vậy mà báo chí Mỹ chẳng thèm lên
tiếng, và
những tên chủ nhà băng Do Thái, đã qua được sông, chẳng thèm thúc đẩy
người Mỹ
tuyên chiến với tụi Đức, chuyện thật quá dễ đối với họ, những người nắm
kho bạc
của xứ sở này.
Chẳng ai thèm chú ý đến tiếng nhạc của
tôi tại quán cà phê.
Tiếng nhạc càng dâng cao, họ càng ăn to nói lớn. Như thể, ngày nào cũng
có một
cuộc tranh tài, giữa thính giả và người chơi nhạc, mày ồn hơn, hay tao
ồn hơn?
Có một lần, một trong những người khách đã sai một người bồi bàn tới
yêu cầu
tôi im tiếng nhạc trong chốc lát, để ông ta thử âm thanh của những đồng
tiền
hai mươi đô la mới mua được, coi chúng có phải vàng thiệt không. Ông ta
gõ nhè
nhẹ những đồng tiền lên mặt bàn bằng đá cẩm thạch, lấy ngón tay nhón
chúng, đưa
sát tai, cố nghe ra tiếng reo của vàng, thứ âm nhạc độc nhất mà ông ta
ưa
thích.
May cho tôi, cũng chẳng phải chịu lâu,
không khí tiệm. Tôi
có việc tại một quán cà phê khác hẳn tiệm trên, tại phố Sienna Street,
nơi giới
trí thức Do Thái thường lui tới để nghe tôi chơi nhạc. Chính tại đây
tôi tạo
được đôi chút tiếng tăm, như là một nghệ sĩ chơi nhạc, và làm quen một
số bạn
bè, với họ, tôi đã trải qua những giai đoạn dễ chịu có, mà khủng khiếp
cũng có,
sau này. Trong số những người lui tới đều đặn, có họa sĩ Roman
Kramsztyk, một
nghệ sĩ thuộc loại thiên bẩm, và là bạn của Artur Rubinstein và Karol
Szymanowski. Ông lúc đó đang thực hiện một loạt tranh, ghi lại cuộc
sống bên
trong bức tường trại cấm (ghetto), chẳng hề hay, rằng mình sẽ bị sát
hại, và
hầu hết những bức tranh, bị mất.
Một người khách nữa của tiệm cà phê ở
phố Sienna Street
này, là một trong những con người phong nhã
nhất mà tôi được gặp trong đời, Janusz Korczak. Ông là một văn nhân,
biết gần
hết tất cả những nghệ sĩ dẫn đầu của phong trào Ba Lan Trẻ. Ông nói về
họ bằng
một giọng say mê. Cách ông nói về họ vừa giản dị, trực tiếp, vừa sôi
nổi, lôi
cuốn người nghe. Ông không được coi là một trong những nghệ sĩ thượng
đẳng, có
lẽ là do những thành tựu của ông trong văn học không nổi bật, không có
giá trị
riêng biệt: chúng là những câu chuyện cho trẻ em và về trẻ em, đặc biệt
là cho
sự hiểu biết lớn lao của tâm hồn chúng. Giá trị thực của Korzak không
phải ở
những gì ông viết ra mà do điều này: ông sống như là ông viết. Nhiều
năm trước
đây, khi bắt đầu khởi nghiệp, ông đã dành trọn thời gian rảnh rỗi của
mình cũng
như mọi đồng tiền có thể có được, để lo cho trẻ em, và ông làm như thế
cho tới
lúc mất. Ông thành lập những viện mồ côi, tụ tập đủ tầng lớp trẻ em
nghèo khó,
tổ chức những buổi trình diễn (show) trên đài phát thanh, biến mình
thành một
người thật bình dân được nhiều người biết tới, không chỉ trong đám trẻ
em, vì
vậy mà có biệt danh là "Bác Sĩ Già". Khi cổng ghetto đóng lại, ông
vào ở bên trong, mặc dù ông có thể cứu được mình, và ông tiếp tục nhiệm
vụ của mình
bên trong những bức tường, như là một người cha nuôi với chừng trên
chục đứa
trẻ Do Thái mồ côi, những đứa trẻ nghèo khổ nhất, trên thế gian không
ai đoái
hoài tới. Khi trò chuyện với ông tại quán cà phê ở phố Sienna
Street, chúng tôi không nào tiên đoán được,
cuộc
đời ông sẽ khép lại, tuyệt vời hoàn hảo, hay là bằng một đam mê rạng
ngời như
thế nào.
Sau bốn tháng, tôi chuyển tới một quán
cà phê khác, quán
Nghệ Thuật (Sztuka),ở phố Leszno Street.
Đây là quán cà phê lớn nhất trong ghetto, và đúng như cái tên của nó,
không khí
ở đây nhuốm mùi nghệ thuật. Có phòng trình diễn nhạc hoà tấu. Trong số
ca sĩ có
Maria Eisenstadt, một giọng ca tuyệt vời, và sẽ còn nổi tiếng tới hàng
triệu
thính giả bây giờ, nếu tụi Đức không sát hại cô, sau đó. Tôi thường
chơi dương
cầm sóng đôi với Andrzej Goldfeder, và rất thành công với những đoạn
nhạc luân
vũ Casanova Waltz của Ludomir Rózycki, lời ca đi kèm của Wladyslaw
Szlengel.
Nhà thơ Szlengel thường ngày có mặt, cùng với Leonid Fokczanski, nhạc
sĩ
Andrzej Wlast, kịch sĩ dân gian "Wacus Người Yêu Nghệ Thuật", và Pola
Braunowna trong show trình diễn có tên là "Tờ Báo Sống", kể chuyện
thường ngày bên trong ghetto, với giọng điệu châm chích người Đức.
Ngoài phòng
nhạc hòa tấu ra, còn có một bar, dành cho những người thích thưởng
thức, thay
vì mấy trò nghệ thuật, là rượu vang thiệt ngon, và những món ngon thật
ngon,
như món cánh gà hoặc món thịt bò Stroganoff. Phòng nhạc cũng như phòng
ăn đều
luôn luôn đông khách, cho nên họ trả lương cho tôi khá hậu, nhờ vậy,
tôi có thể
lo cho sáu mạng ăn trong gia đình, tuy rằng đôi khi cũng khá chật vật.
Gì thì gì, tôi đã trải qua những ngày
tháng thật thoải mái
tại quán Nghệ Thuật, có khá nhiều bạn ở đó, cùng nhau ba hoa đủ thứ
chuyện, vào
những giờ giải lao, mọi chuyện thật tuyệt vời, nếu đầu óc của tôi không
bị luẩn
quẩn bởi chỉ một chuyện, là buổi chiều trở về nhà. Cứ xế trưa là nó ám
ảnh tôi.
Đó là mùa đông 1941-1942, thời tiết
thật khắc nghiệt bên
trong ghetto. Đúng là một biển trầm của người Do Thái, ở đó mọc lên vài
hòn đảo
nhỏ, là đám tương đối khá giả, gồm một dúm trí thức Do Thái, và một dúm
khán
thính giả vô tình, bất nhân. Một biển trầm, đói thường xuyên, lúc này
thêm cái
lạnh khủng khiếp, kiếm đâu ra tiền mà sưởi ấm trong nhà, ngoài ra còn
khổ vì
nạn chuột bọ gây bịnh. Thiên hạ ra đường mặc quần áo đầy rận rệp, lôi
cả chúng
vào xe điện, quán ăn, nhà hàng. Chỗ nào cũng có rệp. Chúng bò lồm ngồm
nơi hè
đường, cầu thang, từ trên trần những văn phòng công cộng rớt xuống đủ
thứ người
bên dưới, tới vì công chuyện. Chúng nằm trong những tờ báo mà bạn vừa
giở ra,
trong mớ tiền lẻ nơi túi bạn. Chúng có ngay cả trong những lát bánh mì
bạn vừa
mua. Và mỗi một con như thế mang trong mình mầm dịch.
Dịch chấy rận bùng nổ, chẳng làm sao
thoát, ở trong ghetto.
Những ngày cao điểm, số người chết lên tới năm ngàn người mỗi tháng.
Giầu hay
nghèo, ai ai cũng chỉ nói về nó. Nghèo thì tự hỏi, khi nào tới lượt
mình, giầu
thì lo làm sao có được thuốc chủng ngừa bịnh, của Bác sĩ Weigel. Nhà vi
trùng
học lừng danh được nhiều người biết tới, chỉ đứng sau Hitler. Đúng là
Ông Thiện
chống lại Ông Ác. Theo truyền thuyết, tức thứ dư luận truyền tai, người
Đức đã
bắt ông tại Lemberg, nhưng tạ ơn Trời Phật, chúng không giết, mà còn
coi ông là
một người Đức đáng kính. Cũng vẫn nghe người ta truyền tai nhau, thì
chúng tặng
ông một phòng thí nghiệm ngon lành, một villa tuyệt vời, một chiếc xe
hơi cũng
tuyệt vời không kém, chúng đặt ông vào trình trạng luôn có người của cơ
quan
mật vụ Gestapo canh gác, theo dõi ngày lẫn đêm, để bảo đảm ông không có
cơ hội
chuồn hơn là để ông bào chế theo kiểu dây chuyền thuốc chủng ngừa bệnh
chấy rận
nhằm sử dụng cho quân đội Đức tại vùng phía Đông đang bị dịch hoành
hành. Lẽ dĩ
nhiên, vẫn theo truyền thuyết rỉ tai, ông đã từ chối villa và xe hơi.
Tôi không biết sự thực về ông ra sao.
Tôi chỉ biết, nhờ ơn
Trời Phật, ông có thực, và không bị chúng giết, và sau khi nói cho tụi
Đức biết
công thức bào chế thuốc chủng, ông chẳng còn có ích đối với chúng nữa,
và nhờ
một phép lạ nào đó, chúng đã không đẩy ông vào một trong những lò thiêu
tuyệt
vời của chúng. Trong bất cứ trường hợp nào, nhờ vào phát minh của ông,
và sự
tham nhũng của người Đức, rất nhiều người Do Thái tại Warsaw đã thoát
chết vì
bệnh chấy rận, để chết vào một dịp khác, sau đó.
Bản thân tôi không chủng ngừa. Nhìn
vào túi tiền, thấy khó
mà chịu nổi một mũi chích, mà gia đình đâu chỉ có mình tôi, chẳng lẽ
hưởng cái
sống một mình?
Trong ghetto, thật không có cách chi
để mà chôn kịp, con số
người chết vì dịch chấy rận, so với mức tử vong cao như trên. Nhưng
không lẽ cứ
để người sống quây quần với xác chết, chung một mái nhàø? Cái khó ló
cái khôn,
một giải pháp sau cùng đã đề ra. Người chết bị lột hết quần áo, họ cũng
đầu cần
tới chúng nữa, trong khi người sống lại quá cần, sau đó, bó bằng giấy
báo, rồi
tuồn ra hè đường. Những xác chết như vậy thường phải đợi vài ngày, cho
tới khi
xe của ban Quản Trị lượm đi, thẩy vào những nấm mồ tập thể tại nghĩa
địa. Xác
người chết vì dịch hay vì đói đều được "đối xử đồng đều" như trên.
Chính vì vậy mà mỗi lần từ giã quán cà phê về nhà vào buổi chiều, chỉ
nghĩ tới
không thôi, là tôi ớn xương sống, nổi da gà.
Tôi là một trong những người rời quán
sau chót, cùng với
viên quản lý, sau khi tính toán sổ sách, và trả tiền công cho tôi. Phố
xá lúc
này tối thui, và gần như chẳng có một mạng người, ấy là tôi muốn nói
người
sống. Với ngọn đuốc trên tay, tôi dò từng bước, cố nhận ra để đừng bị
vấp ngã
lên xác chết. Những cơn gió mùa đông thổi bạt người, lạnh rát má, lột
tung
những tờ báo, người chết trơ ra, cẳng chân cẳng tay khô khốc, bụng lép
kẹp vì
cái đói mang theo từ lúc còn sống, mặt bị răng ăn hết, hai lỗ mắt toang
hoác
như nhìn vào hư vô.
Vào thời gian đó, tôi chưa quen lắm,
với cái chết, như là
sau này. Tôi cứ thế chúi người về phía trước, chạy hết những con phố,
vừa sợ
vừa ghê, mong làm sao chóng về tới nhà. Mẹ tôi chắc là đang đợi, với
chén rượu
và cây kẹp gắp. Luôn lo lắng cho tình trạng sức khỏe của những người
trong gia
đình, vào thời gian dịch hoành hành, bà không để cho một ai bước qua
ngưỡng
cửa, chỉ sau khi nhặt những con rệp trên nón, trên quần áo, và bỏ chúng
vào
rượu.
Vào mùa xuân, khi đã thân với Roman
Kramsztyk, thường tôi
không về thẳng nhà khi rời quán cà phê, mà ghé chỗ ông ở, một căn hộ
tại phố Elektpralna Street,
chúng tôi nói chuyện gẫu cho tới khuya.
Kramsztyk là một người thật may mắn, có được riêng cho mình một căn
phòng nhỏ
xíu, ở trên cùng một tòa nhà. Ở đây là cả một kho tàng cá nhân của ông,
thoát
khỏi số phận bị người Đức lột: một cái trường kỷ bọc "kelim", hai
chiếc ghế cổ thật giá trị, một cái tủ từ thời Phục Hưng thật khả ái,
một tấm thảm
Ba Tư, mấy khẩu súng cũ, vài bức tranh, và những món nho nhỏ thu thập
trong
nhiều năm tại những vùng Âu Châu mà ông đã trải qua, mỗi một món như
thế là một
nghệ phẩm, đối với chính nó, và trước cặp mắt say sưa của người nhìn
ngắm nó.
Thật thích thú khi ngồi trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng nhạt tỏa
ra từ
cái chao đèn làm bởi chính tay chủ nhân, uống cà phê đen, và vui ba câu
chuyện.
Trước khi màn đêm buông xuống, chúng tôi ra ban công, đón tí gió mát.
Không khí
ở đây trong sạch hơn, so với dưới phố đầy bụi bặm. Giờ giới nghiêm tới
gần,
người ta tuần tự rút vào bên trong nhà, đóng mọi cửa nẻo, mặt trời mùa
xuân
xuống thấp dần, để lại một thứ ánh sáng mầu hồng trên những mái nhà
bằng thiếc,
bầy chim câu trắng bay qua bầu trời xanh, và mùi hoa lylac, như tìm ra
con
đường của nó, từ Vườn Saxon, vượt qua những bức tường, tới tận nơi chốn
của
những kẻ trầm luân là lũ chúng tôi.
Đây là giờ của những đứa trẻ và của
những người khùng. Roman
và tôi nhìn xuống phố, tìm bóng dáng vị "Phu nhân với những chiếc
lông",
một biệt danh mà chúng tôi dùng để gọi người đàn bà điên. Vẻ ngoài của
bà thật
không giống ai: đôi má sặc sỡ, nặng chịch, do trát đầy phấn, đôi lông
mày cũng
tô phấn, dầy chừng một phân, trễ xuống tận hai bên thái dương, một tấm
màn cũ
bằng nhung xanh phủ lên chiếc áo dài đen rách tả tơi, và một chiếc lông
chim đà
điểu lớn mầu hoa cà dựng lên từ chiếc nón bằng rơm, lắc la lắc lư theo
nhịp
bước, nhanh, nhưng lật đà lật đật, của bà ta. Bà ta chặn bất cứ người
qua đường
bà gặp, với nụ cười lịch sự và hỏi han về người chồng, đã bị người Đức
sát hại.
"Xin tha lỗi cho tôi... ông hay bà có
gặp Izaak
Szerman? Một người đàn ông cao, đẹp trai, có bộ râu nhỏ mầu xám?" Nhìn
người đối diện bằng con mắt dò hỏi nhưng chan chứa vọng, chờ mong câu
trả lời,
lẽ dĩ nhiên là không, hoặc một cái lắc đầu, bà thốt lên "Không gặp
sao?", thật não lòng, nỗi đau đớn làm cho miệng bà ta méo xệch đi,
nhưng
sau đó vẩn là một nụ cười lịch sự, tuy đầy vẻ miễn cưỡng, "Tha thứ cho
tôi, tha thứ cho tôi!", và bà ta lại tiếp tục vừa đi vừa lắc lư, khuôn
mặt
lộ vẻ buồn phiền, một phần, vì đã làm phiền người qua đường, phần khác,
vì lẽ,
làm sao mọi người lại không quen không biết người chồng cao ráo, đẹp
trai, thật
dễ thương với bộ râu nho nhỏ mầu xám của bà?...
Tiếp theo bà điên tới ông điên, một
ông Rubinstein nào đó,
cũng xuất hiện trên phố Elektoralna. Quần áo rách rưới, tả tơi, cầm cây
gậy,
vừa vung vẩy vừa nhẩy cà tưng, miệng lẩm bẩm như nói với chính mình.
Trong
ghetto, nhiều người biết đến ông điên. Bạn nghe ông điên la, trước khi
thấy
bóng dáng ông xuất hiện, "Đừng để bị đánh gục, bạn ơi!". Nhiệm vụ của
ông điên là động viên tinh thần mọi người, bằng cách chọc cười bạn.
Những lời
nói diễu cợt, chọc quê, những nhận xét tiếu lâm của ông chạy vòng vòng
trong
ghetto. Một trong trò đặc sắc của ông điên, là tới gần lính gác Đức,
mặt mày
nhăn nhó, làm hề, rồi gọi họ bằng những từ như "Bọn trộm, bọn cướp, bọn
bất nhân...", may làm sao, bọn lính gác chỉ coi đây là một trò cười
giúp
vui cho chúng, có khi còn quăng thuốc lá, tiền xu cho ông điên, như để
thưởng
cho những lời chửi rủa. Nói cho cùng, làm sao có thể để ý tới những lời
nói
khùng điên của một người... điên khùng?
Tôi không chắc là những tên lính gác
người Đức đó, có suy
nghĩ như tôi hay là không, và cho tới ngày này, tôi cũng không làm sao
luận ra
được một điều, là ông Rubinstein đó, có thực sự điên, và là một trong
rất nhiều
người đã mất đầu óc, trí nhớ của họ, vì những trò tra tấn hành hạ mà họ
đã phải
chịu đựng, hay giản dị chỉ là đóng trò điên, để trốn cái chết? Vả
chăng, giả
điên như vậy, liệu có thoát chết?
Những người điên không để ý tới giới
nghiêm. Nó chẳng là gì
đối với họ, cũng như những đứa trẻ. Những hồn ma trẻ con như thế, tới
giờ này,
là trồi lên từ những căn nhà hầm, ló ra từ những đường hẻm, hay những
góc, xó
cổng, nơi chúng ngủ, như được đánh thức bởi một chút xíu hy vọng, rằng
biết
đâu, sẽ nhận được chút xót thương, từ đồng loại, trước khi màn đêm hoàn
toàn
buông xuống, và cùng với giờ giới nghiêm, vét cạn bóng người trên đường
phố
ghetto. Chúng túm tụm tại những cột đèn, dưới những bức tường những tòa
nhà, và
cả trên mặt đường, đầu ngửng lên, nói bằng một giọng đều đều, tụi em
đói. Những
trẻ em biết chút âm nhạc, bài ca, thì hát. Giọng yếu ớt, run rẩy,
thường là bài
hát tả người lính trẻ hấp hối, bị đồng bạn bỏ rơi, nơi chiến trường,
anh gọi,
"Mẹ" trong lúc lịm dần đi. Nhưng bà không có đó, bà ở quá xa, và bà
không biết rằng con bà đang chết, chỉ có mặt đất, cùng những bụi cây,
đám cỏ
của nó, ru người đàn ông đáng thương vào giấc ngủ ngàn đời, "Hãy ngủ
ngon,
con trai yêu quí của mẹ". Một cánh hoa từ trên cành cây rớt xuống ngực,
và
là cây thập giá độc nhất, vinh danh cho người vừa nằm xuống.
Những đứa trẻ khác cố đánh thức lương
tâm người lớn.
"Chúng con đói, đói lắm. Đã lâu lắm, chúng con chưa được ăn. Cho chúng
con
một mẩu bánh, nếu ông bà không có mẩu bánh, thì một củ khoai, củ tỏi
cũng được,
cho chúng con sống tới sáng mai." Nhưng củ khoai, củ tỏi để mà bố thí,
thì
thật là hiếm hoi, ở cả ngay những người có khoai có tỏi, và giả dụ như
cứ giả
dụ họ muốn bố thí, thì cũng không thể, vì trái tim của họ đã bị chiến
tranh
biến thành đá mất rồi.
Chương Hai
Chiến Tranh
Vào ngày 31 tháng Tám 1939, người dân Warsaw
ai cũng nghĩ, cuộc chiến với người Đức không thể nào tránh được, chẳng
lâu la
gì nữa. Chỉ có những kẻ lạc quan điên khùng thì mới nuôi dưỡng ảo
tưởng, quyết
tâm của Ba Lan sau cùng làm nản chí xâm lăng của Hitler. Sự lạc quan ở
một số
người khác, tự nó phô ra, như là một thứ chủ nghĩa cơ hội, và tình
trạng này có
thể là do vô thức gây nên: lắc đầu nguay nguảy với bất cứ một thứ lý
luận, suy
đoán, họ cho rằng, mặc dù chiến tranh rồi sẽ xẩy ra – chuyện này đã
được quyết
định từ đời nảo đời nào rồi – nhưng nó chưa xẩy ra ngày một ngày hai
đâu, vậy
thì còn ngày nào mình cứ vui hưởng thanh bình ngày đó. Nói gì thì nói,
đời đẹp
vô cùng, và thật đáng sống, phải không bạn?
Nhưng cứ tới chiều tối, là mọi người
chui vào nhà cố thủ,
nhà nào nhà nấy tối thui, như một pháo đài phòng chống hơi ngạt, và lẽ
dĩ
nhiên, mọi người đều thủ sẵn những chiếc mặt nạ chống hơi độc. Hơi độc
là thứ
sợ nhất, trong mọi thứ.
Trong khi đó, bên trong những khung
cửa kính tối thui của
những quán cà phê, những nhà hàng, nhạc vẫn chơi, thực khách vẫn ăn
nhậu, và
hâm nóng tình cảm ái quốc của họ bằng những bản nhạc quân hành. Cái tối
thui là
cần thiết, chiếc mặt nạ phòng hơi độc khoác trên vai, khi đi lại, là cơ
may, lỡ
bất ngờ xẩy ra chuyện không may, cũng như một cuốc tắc xi về nhà ban
đêm, qua
những con phố bỗng nhiên mang vẻ khác, so với những ngày nào năm xửa
năm xưa,
tất cả như thêm thắt vài hạt muối cho cuộc đời bớt tẻ nhạt, nhất là vào
những
ngày mà sự hiểm nguy, đe dọa của chiến tranh vẫn mơ mơ hồ hồ.
Lúc đó chưa có ghetto, và tôi sống với
cha mẹ, anh chị em,
tại phố Sliska, chơi dương cầm cho Đài Phát Thanh Ba Lan. Bữa đó, ngày
cuối
cùng của tháng Tám, tôi về muộn, và do mệt, tôi đi ngủ liền. Căn hộ của
chúng
tôi ở tầng ba, cũng tiện lợi, bởi vì vào những ngày hè, có gió mát, qua
những
khung cửa sổ mở rộng, xua bớt bụi đuờng ở bên dưới bay lên, và còn mang
theo
chút vị ẩm từ con sông Vistula.
Những tiếng nổ đánh thức tôi. Trời
sáng bạch. Tôi nhìn đồng
hồ: sáu giờ sáng. Những tiếng nổ sự thực cũng không lớn lắm, và như từ
xa vọng
tới: chắc là bên ngoài thành phố. Hiển nhiên là người ta đang điều động
quân
đội, chúng tôi đã làm quen với những bước chuẩn bị cho chiến tranh như
thế mấy
ngày vừa qua rồi. Sau vài phút, những tiếng nổ chấm dứt. Tôi lưỡng lự,
không
biết có nên lên giường ngủ tiếp, nhưng lúc này đã sáng, ông mặt trời
cũng đã
xuất hiện. Tôi bèn lấy sách ra đọc, đợi tới giờ ăn sáng.
Chắc lúc đó phải là tám giờ sáng, khi
cửa phòng ngủ của tôi
bật mở. Mẹ tôi xuất hiện, ăn mặc như thể bà sẽ ra đi ra ngoài liền ngay
đó. Mặt
tái xanh hơn thường lệ, và tỏ ra bất bình, khi thấy tôi vẫn còn nằm
trên
giường. bà mở miệng tính nói, nhưng không thể, như âm thanh không thoát
ra
được. Cố gắng hết sức, sau cùng bà nói, giọng nóng nẩy, vội vã: "Dậy
đi,
chiến tranh... xẩy ra rồi!"
Tôi quyết định đi một mạch tới Đài
Phát Thanh, ở đó, tôi sẽ
gặp bạn bè, và sẽ có những tin tức mới nhất. Tôi mặc quần áo, ăn sáng,
và rời
nhà.
Bạn có thể nhìn thấy những tờ thông
báo lớn, dán trên những
bức tường, hoặc ở những cây cột dán quảng cáo. Chúng mang lời kêu gọi
của tổng
thống tới toàn dân, người Đức đã tấn công. Một số người tụ tập trước
những tờ
thông báo, chăm chú đọc, trong khi những người khác vội vã băng đi tứ
phía,
chắc là để lo cho xong những công việc quá cần thiết, quan trọng. Bà
chủ quán ở
góc phố, cũng không xa căn hộ của chúng tôi, đang lo dán những tờ giấy
trắng
lên khung những cửa kính, hy vọng chúng làm cho những mảnh kính không
bể nát tứ
tung, khi bom dội xuống. Trong khi đó, cô con gái lo trang điểm những
dĩa ăn
gồm rau xà lát, thịt xúc xích, những miếng thịt nguội, bằng những lá cờ
Ba Lan
nho nhỏ, hoặc những biểu tượng quốc gia. Những đứa trẻ bán báo hối hả
chạy tới,
chạy lui với những ấn bản đặc biệt, nóng hổi tin tức.
Không có hoảng loạn. Không khí chuyển
từ tò mò - chuyện gì
xẩy ra tiếp theo? qua ngạc nhiên: Thế là chiến tranh đã xẩy ra, hử, hả?
Một người đàn ông ăn mặc lịch sự, râu
cạo sạch bóng, tóc mầu
xám, đứng ngay bên dưới một cây cột có dán lời kêu gọi của tổng thống.
Vẻ khích
động khiến trên mặt, và chung quanh cổ của ông hiện ra những vệt ửng
đỏ. Ông
lật chiếc mũ ra phía sau, một điều mà thường ra chắc ông ta không làm
như vậy.
Ông nghiên cứu lời kêu gọi, lắc lắc đầu ra vẻ không làm sao tin nổi, và
lại đọc
tiếp, chiếc kẹp kính dính chặt vào sống mũi. Ông đọc to lên từng tiếng,
giọng
tức tối, như bị lăng nhục: "Chúng tấn công chúng ta... không báo
trước!"
Ông nhìn quanh, như tìm phản ứng từ
những người đứng kế bên,
dơ tay lên cao, sửa lại cây kẹp kính, và nói, "Xử sự như vậy đâu có
được." Trước khi bỏ đi, ông đọc lại lời kêu gọi của tổng thống một lần
nữa, và như không thể nào kiềm chế nổi phản ứng của mình, ông lắc đầu
quầy
quậy, miệng lẩm bầm, "Không, không thể như thế!".
Tôi ở không xa Đài Phát Thanh, vậy mà
thật khó tới đó. Quãng
đường như dài gấp đôi, so với thường ngày. Đi được nửa đường, có tiếng
còi hú
phát ra từ những chiếc loa phóng thanh tại những cột đèn, tại những tấm
biển
quảng cáo. Rồi tôi nhận ra giọng nói của người xướng ngôn đài phát
thanh:
"Đây là một lời báo động tới người dân thành phố Warsaw.
Hãy cảnh giác! Đang xẩy ra là....," tới đó, anh ta đọc một loạt những
chữ
và số theo kiểu mật mã nhà binh, khi lọt vào tai mọi người, chúng giống
như một
đe dọa thần bí. Phải chăng những con số chỉ số lượng chiếc máy bay đang
trên
đường tới mục tiêu, còn những chữ, địa điểm dội bom? Và chỗ mình đang
đứng đây
là một trong những địa điểm được mã hóa?
Phố xá vắng tanh liền sau đó. Đàn bà
vội vàng tới những hầm
trú ẩn. Đàn ông không muốn xuống hầm liền, họ tụm ở những lối đi, lên
tiếng
nguyền rủa người Đức, làm như ta đây có thừa can đảm, và trút cơn giận
lên nhà
cầm quyền, lơ là cẩu thả trong việc động viên, khiến chỉ một số nhỏ
được gọi,
số còn lại thì hết trình diện ông sĩ quan này tới ông khác, vẫn không
đủ tiêu
chuẩn nhập ngũ, vì lòng yêu nước hay yêu tiền.
Đường phố vắng tanh, không một tiếng
động, ngoài tiếng cãi
cọ, giữa những người dân cư ngụ tại khu vực và những người tránh bom
đứng ở
hành lang, rằng hãy chừa lối đi cho người ta buôn bán, đi đứng cái kiểu
gì mà
chứ phải men theo bờ tường như thế này. Một lát sau đó, có những tiếng
nổ,
nhưng ở xa.
Tôi tới đài phát thanh đúng lúc còi
báo động vang lên lần
thứ ba. Tuy nhiên, chẳng có ai ở bên trong tòa nhà có thời giờ mà chạy
tới nơi
trú ẩn. Chương trình phát thanh lộn nhào hết trơn. Ngay vừa mới bắt đầu
một bản
tin, thì một tin quan trọng khác đã chen vô, hoặc phải ngưng để đọc
thông báo
từ tiền phương, hoặc của bộ ngoại giao, tất nhiên không thể thiếu tiếng
nhạc
quân hành, hoặc nhạc ái quốc kèm theo.
Ở hành lang tòa nhà cũng nhộn nhạo
chẳng kém. Vẫn một không
khí ái quốc, hồ hởi. Một nhân viên đài được gọi nhập ngũ, tới chào từ
giã bạn
đồng nghiệp trong bộ quân phục, chắc mẩm không khí sẽ rất ư hào hùng,
cảm động,
nhưng chẳng ai để ý đến anh ta, bởi vì đâu họ đâu còn thì giờ. Thế là
anh ngồi
trơ ra, hết nắm vội tay ông bạn này, tới ông kia một tí, khi họ chạy
ngang chỗ
anh ta ngồi, và dặn vội, hãy cho phát thanh, ít lắm cũng một đoạn,
chương trình
"Giã Từ Bạn, Tôi Lên Đường Tòng Quân", mà anh ta đã sửa soạn, để sau
này anh có thể kể lại cho con cháu nghe. Anh đâu biết, hai tuần lễ sau
đó, họ
vẫn chẳng có thì giờ cho anh, và cũng chẳng có thì giờ để mà làm một
chương
trình đặc biệt, theo đúng truyền thống của đài, để tưởng nhớ một bạn
đồng
nghiệp, đã vĩnh viễn ra đi.
Ở cửa phòng ghi âm, một nhạc sĩ dương
cầm già cầm tay tôi.
Giáo sư Ursztein yêu quí. Ông làm việc tại đài. Trong khi những người
khác tính
cuộc đời gắn bó với âm thanh và chiếc đàn dương cầm từng ngày, với ông,
phải là
từng thập kỷ. Mỗi lần ngược về quá khứ, ông thường bắt đầu, "Nào, hãy
nhớ
lại coi sao, tôi đã từng đệm dương cầm vào dịp đó, dịp đó...", và một
khi
ông nhớ ra một dịp "đó đó", giống như cột cây số chỉ đường, ký ức của
ông cứ thế tuôn trào. Lúc này thì ông đứng như là một cột cây số chỉ
đường,
hoàn toàn ngơ ngác, "Làm sao dẫn dắt một cuộc chiến mà lại thiếu tiếng
dương cầm làm nhạc đệm cho nó?. Ông thẫn thờ than thở, "Người ta cũng
chẳng nói với tôi, hôm nay tôi có chơi đàn hay là không?"
Nhưng tới xế trưa thì cả hai chúng tôi
đều làm việc, mỗi
người ôm một cây đàn. Vẫn có âm nhạc trên đài, nhưng không như chương
trình
thường lệ.
Xế trưa, ai cũng cảm thấy đói, và
chúng tôi rời đài ghé một
quán an gần đó. Phố xá có vẻ bình thường gần như mọi ngày. Xe cộ nhộn
nhịp, cửa
hàng đều mở cửa, và cũng không có cảnh xếp hàng chờ mua, bởi vì nhà
nước đã ra
thông báo, không cần phải dự trữ thực phẩm, nước uống. Một món đồ chơi
bằng giấy
hiện đang ăn khách, đó là hình một con lợn, nhưng khi bạn gấp lại, thì
nó biến
thành bộ mặt Hitler.
Tuy hơi khó khăn, nhưng chúng tôi cũng
kiếm được bàn tại
quán ăn, và điều ngạc nhiên, là những món ăn quen thuộc đều không có,
và những
món ăn có, thì đều không có giá quen thuộc. Người bán đã ra tay trục
lợi.
Câu chuyện xoay quanh vấn đề Pháp và
Anh nhập cuộc. Trừ
những người quá bi quan, đa số đều cho rằng hai nước trên sẽ tuyên
chiến bất cứ
lúc nào kể từ lúc này, và một vài người trong số chúng tôi còn đi xa
hơn, khi
cho rằng Mỹ cũng sẽ tuyên chiến với Đức. Dựa vào kinh nghiệm Thế Chiến
I, mọi
người đều có vẻ cùng chung ý nghĩ, rằng cuộc chiến rút cuộc sẽ chỉ cho
chúng
ta, làm thế nào dẫn dắt cuộc sống hiện tại, sao cho tốt đẹp hơn, và
tránh được
những lầm lẫn trong lần trước.
Cuộc tuyên chiến của Pháp và Anh trở
thành sự thực vào ngày
3 tháng Chín.
Bữa đó, tôi ở nhà, tuy đã 11 giờ.
Chúng tôi mở đài thường
trực, để không sót một lời nào, từ tất cả những tin quan trọng. Những
thông báo
từ tiền tuyến không đúng như chúng tôi mong đợi. Tuy tấn công tại
Đông-Phổ, và
dội bom những mục tiêu quân sự của Đức, nhưng cùng lúc đó, quân đội
Đức, mạnh
hơn, đã đẩy lùi quân đội Ba lan từ nơi này tới nơi khác. Làm sao lại
xẩy ra
chuyện đó, trong khi bộ phận tuyên truyền cho biết là máy bay và xe
tăng Đức
toàn bằng giấy bồi, và chạy bằng một thứ xăng tổng hợp vô dụng, không
thể dùng
ngay cả cho những cái bật lửa! Máy bay Đức đã từng bị bắn hạ tại Warsaw,
và một số người còn quả quyết, chính mắt trông thấy tử thi những phi
công Đức
mặc quần áo bằng giấy, đi giầy giấy! làm sao một thứ quân đội được
trang bị
thảm hại như thế mà lại khiến chúng ta rút lui? Thậm vô lý!
Mẹ tôi lo dọn dẹp phòng khách, cha tôi
chơi vĩ cầm, còn tôi
ngồi ghế đọc sách, đúng lúc đó, một giọng nói bất thình lình vang lên
trên đài,
cho biết sắp sửa có một thông báo tối quan trọng. Cha tôi và tôi vội
vàng tới
ngay bên chiếc đài, còn mẹ tôi chạy đi gọi mấy anh chị em của tôi.
Trong lúc
đó, đài vẫn tiếp tục chơi nhạc quân hành, người xướng ngôn tiếp tục lập
lại
những lời vừa nói, mọi người hết sức nóng ruột, rồi quốc thiều Ba Lan
vang lên,
tiếp theo sau là quốc thiều Anh, và sau đó là thông báo tối ư quan
trọng: Chúng
ta không cô đơn đối mặt với kẻ thù, chúng ta có đồng minh rất mạnh, và
chiến
thắng sau cùng kể như chắc chắn, mặc dù sẽ có lúc này lúc nọ, và tình
hình hiện
tại kể như không được sáng sủa cho lắm.
Làm sao tả được những xúc động của
chúng tôi lúc đó. Mẹ tôi
ràn rụa nước mắt. Cha tôi chẳng kìm những tiếng nức nở của ông. Đứa em
trai,
Henryk, thừa dịp thụi cho tôi một cú, và la lên, "Đấy, em đã bảo anh
mà,
có đúng không!" Regina
không
muốn hai anh em cãi lộn vào một lúc như thế, và xen vào, giọng bình
tĩnh,
"Ô! Hãy ngưng lại. Chúng ta ai mà chẳng nghĩ chuyện sẽ xẩy ra như
vậy." Chị ngưng, rồi nói thêm, "Đây là kết quả hợp lý của những hiệp
ước giữa những quốc gia."
còn tiếp
Jennifer Tran chuyển ngữ