Đồng Vọng cho Hồn Thiêng
Lò
Thiêu
Kertesz
đã mất một thời gian
bằng những năm tháng ông sống, trước khi bị tù đầy, tức là 14 năm, để
viết cuốn
đầu tay. Một nhà xuất bản do nhà nước quản lý từ chối in, sau được một
nhà sách
khiêm tốn [modest] xuất bản năm 1975, nhưng bị đối xử bằng sự im lặng.
Tại Thụy
Điển, xuất bản lần thứ nhất, qua bản dịch của Fripress in Maria
Ortman's, với
tựa đề Steg för steg (Step by Step, Từng Bước). Thoạt đầu, nó không gây
chú ý,
mặc dù, cùng với Đây Có Phải Một Người của Primo Levi, đây là một tác
phẩm văn
chương mãnh liệt nhất đã từng được viết ra về thực tại trại tập trung.
Sự kiện Kertesz bị đi đầy không có nghĩa, Fateless [Không Số Kiếp], hay
Man Without
a Fate, [Người Không Số Kiếp], như tên sau này của nó, chỉ là một cuốn
tiểu
thuyết tự thuật, theo bất cứ một ý nghĩa giản dị nào của từ này. Ông bỏ
đi những
gì gọi là giai thoại (anecdotal), nhất thời (temporal), ngoại lệ, và
chỉ giữ
lại tính tầm phào, banality, của câu chuyện (nếu có thể coi tầm
phào là
nội dung của nó): một cách kể, một nghiên cứu có tính phương pháp về
cuộc sống
thường nhật của trại tập trung, của cơ cấu toàn trị.
Ngoài nội dung, đều nói về trại tù, cách kể của Kertesz thật khác với
của Levi:
Làm thế nào một con người, bị bắt, bị dứt ra khỏi cuộc sống bình thường
của mình,
dần dần thích nghi với một cuộc sống khác, mà cuộc sống khác này, sở dĩ
nó có,
là để làm giết hại người đó. Nhưng Levi là một người đã trưởng thành.
Koves,
nhân vật kể chuyện ở trong Không Số Kiếp thì mới được 14 tuổi, và thời
gian từ
1944 tới 1945 là một quãng đời quyết định, về mặt học hỏi, đối với cuộc
đời của
cậu bé.
Cùng với một nhóm trẻ cùng tuổi, ông bị bắt trên chuyến xe buýt trong
một cuộc bố
ráp tại Budapest vào
năm 1944.
Thoạt tiên, chúng bị nhốt một ngày – một ngày ấm áp, tẻ ngắt -
trong một
nhà tạm giam, trong khi viên cảnh sát - trẻ, trông có vẻ đần độn, bối
rối - gọi
điện thoại xin thêm chỉ dẫn. Sau đó, chúng bị giữ vài ngày trong một
xuởng gạch
cũ, cùng với vài ngàn người Do Thái. Sau những bàn bạc với Hội Đồng Do
Thái,
vài ngàn người này chấp nhận “đề nghị” [offer], họ sẽ tự nguyện đi làm
việc,
bởi vì, như họ được giải thích, rằng sẽ còn nhiều chuyến xe lửa khác
nữa, và
nơi đây sẽ không làm sao chứa nổi. “Nói vậy là hết nói, còn bàn bạc gì
được
nữa.”
Khi lực lượng giải phóng tới với Koves, một năm sau đó, ông nằm trong
nhà thương
tại khu trại tù Buchenwald,
người độc nhất sống sót trong nhóm bạn của ông. Một thân hình vàng khè,
trơ xương,
với bộ mặt nhọn hoắt của một người già, da đầy những vết mụn nhọn mưng
mủ, nhức
nhối.
Một
giọng văn cố tình móc họng.
Tiểu
thuyết của Kertesz không khó đọc, theo nghĩa kỹ
thuật. Cứ thẳng một lèo, và là một cách kể chi li, không lạc đề, không
bình,
bàn, nếu có, chỉ trong giới hạn nhân vật chính, một cậu bé tuổi còn
non, kinh
nghiệm ít ỏi. Giọng nói đó,mạnh mẽ, tò mò, phải nói là thông minh, mưu
trí. Đây
là giọng của một người trẻ tuổi, mà, ở bất cứ thời điểm mới mẻ nào,
chiến đấu,
hiểu, làm, và làm cho được, ở cái mức tối hảo, không phải do ngây thơ,
nhưng
làm như vậy thì mới sống sót. Với anh ta, mọi chuyện cứ thế mở ra,
“từng bước
từng bước”. Và những phản ứng thoạt kỳ thuỷ của cậu bé, là ngưỡng mộ
một cách
khiếp sợ: [Bạn hãy thử] nghĩ coi, cậu bé đã thông minh, mưu trí tới cỡ
nào, bởi
vì chính những mưu mô khôn khéo như vậy đã dẫn dụ cậu, trong những việc
làm
như, làm sao cởi quần áo khi đứng trước vòi tắm, làm sao nhớ con số ở
chỗ treo
quần áo, làm sao buộc giây giầy! Phải có một người nào đó đã nghĩ ra
mấy trò
này… Chắc chắn họ đã dùng cùng một phương pháp như vậy, trong những
phòng tắm
khác, nơi mà, như cậu bé được biết, thay vì nước, thì là hơi độc xả lên
những
tù nhân. Lại còn máy khoan ở khu làm việc – Sao mà nó khác biệt so với
thứ khó
xài của cảnh sát Hung. Mọi thứ qua đó, đều trơn tru, ngon lành. Khi tù
nhân tới
hồi kiệt lực, gầy lõm tận xương, không còn nhận ra ai là ai, chuyện xẩy
ra đều
đặn đến nỗi cậu bé không nhận ra, ngoại trừ điều này, nếu phải so sánh
bề ngoài
chẳng hề suy suyển của đám lính gác, với của tù nhân, thì rõ mười mươi,
hai thứ
người này hoàn toàn khác nhau.
Với một người mắt lúc nào cũng mở to thao láo vì tò mò, vì ngạc nhiên,
muốn
biết như thế, mỗi hoàn cảnh đều là mới tinh khôi, đều là một “ngay bây
giờ” [a
now] chẳng cần tới tri thức phản hồi; thứ tri thức này, chúng ta, những
độc
giả, thì chẳng thiếu, nhưng người kể chuyện, tức cậu bé, thì không.
Đúng là một giọng khiêu khích, móc họng. Kertesz, tác giả, như cố tình
bám chặt
lấy nó, với một sự ương ngạnh, bướng bỉnh, lì lợm, và chính điều này
làm cho nó
tách bạch hẳn ra.
Nhưng thách đố lớn lao nhất, tại sao cuốn sách bị đáp ứng một cách thật
là lạnh
lùng, khi vừa xuất bản là một điều khác, tôi [Madeleine Gustafsson] tin
như
vậy. Nó nằm ở ngay tựa đề: Không Số Kiếp [Fateless]. Hay, một người
không số
kiếp [a man without a fate]. Bởi vì, đây không chỉ về Auschwitz,
về một điều gì đã xẩy ra, mà là triết lý về cuộc đời. Đứa bé cố biểu tỏ
triết
lý này, sau khi từ Budapest
trở về nhà. Mọi chuyện xẩy ra như thế này đều không thực, đúng như thế,
đứa bé
nghĩ, nhưng nó tới, nó xẩy ra: Chúng cứ thế tới, tuần tự, từng bước,
từng bước.
Chỉ một khi ngoái nhìn lại, thì mọi chuyện mới trở nên đã xong xuôi, đã
hoàn
tất, đã không thể hiểu được… những điều bạn có thể tóm lược, [và
tạo một
khoảng cách với chúng], bằng những từ như “ghê rợn”, hay “địa ngục”.
Như được ban phát, tuy không được chỉ định sẵn, cậu bé trải qua số kiếp
được
cho đó. Và bây giờ, cậu bắt buộc phải làm một điều gì, với tất cả những
gì đã
trải qua. Chẳng thể nói, chúng không có nghĩa. Chẳng thể hài lòng, với
ý nghĩ,
đây chỉ là một lỗi lầm, hay là chấp nhận chúng, bằng cái dáng vẻ ngây
thơ, tuy
chua chát. Nhưng nếu có tự do, là không có số kiếp. Nói một cách
khác,
cậu bé nói với những thính giả mỗi lúc một thêm chán chường, thê
lương
của cậu rằng: “Chúng ta, chính chúng ta, là số kiếp”.
Số kiếp của chúng ta là như vầy đó.
Tới lúc này thì không chỉ Chú Steiner, mà luôn cả Chú Fleischmann cũng
nhẩy bổ
lên. “Sao? Mi nói sao?”, ông chú, mặt đỏ gay, nói như xỉa xói vào mặt
thằng bé.
“Chúng ta bây giờ là những kẻ gây tội, mi muốn nói vậy hả, trong khi
chính
chúng ta là nạn nhân?”
Cậu bé cố giải thích, đây không phải là vấn đề tội, hay lỗi. Đúng ra là
người
lớn phải nhận ra, ý nghĩa của tất cả, tự nó, giản dị, trần trụi, là như
vậy.
Như Kerresz viết ở trong nhật ký của ông [his Galley Diary]: “Không Số
Kiếp là
một tác phẩm hãnh diện. Nhờ nó mà người ta sẽ không tha thứ cho cả cuốn
sách,
lẫn người viết nó, là tôi.”
Cây
viết là cái mai của tôi.
Nếu
Không Số Kiếp móc
họng, Kinh Cầu Cho Một Đứa Bé
Chưa Ra Đời làm người đọc câm họng.
Đây là một cuốn sách mỏng, một độc thoại dài, đều đều một giọng, thật
tẻ nhạt,
bám dính cứng, một cuốn sách nhỏ, mỏng, theo kiểu của Thomas Bernhard.
Dòng văn
lan man, tản mạn, nhưng, với tất cả những rối rắm của nó, thật rõ ràng.
Giọng
mời gọi, khiến người đọc, cho dù ngần ngại tới cỡ nào, vẫn sẵn sàng
nhập cuộc.
Nếu có điều gì làm người đọc có thể xả hơi trong chốc lát, để mà thở,
lạ lùng,
trớ trêu làm sao, đó chính là một, và chỉ một mà thôi: nhịp thở của văn
chương.
Nhịp thở này ước mong một hiệu ứng – nhưng rõ ràng là tác giả chẳng hề
muốn một
hiệu ứng như vậy, ông ta cưỡng lại mọi kiểu đó, cùng một đường hướng
như ông đã
cuỡng lại mọi đào thoát, mọi hòa giải, mọi ân sủng. Ông ta thì lô-gíc,
khách
quan, và không khoan nhượng.
Kaddish là kinh cầu dành cho người chết của dân Do Thái. Nhưng ở đây,
người nói
[the speaker] nhắm tới một đứa trẻ không bao giờ được phép ra đời, một
đứa trẻ
mà người nói không thể nào tưởng tượng được rằng, mình sẽ là cha của nó.
Nói cho cùng, đem một đứa trẻ của mình vào trong cõi đời này, theo một
nghĩa
nào đó, là hàm ý, mình vẫn tiếp tục sống sau cái chết của mình, nhưng
với người
nói ở đây, một viễn tượng như thế là không thể nào chấp nhận nổi. Đó là
bởi vì,
theo một cách nào đó, ông ta đã sống sót cái chết của chính mình rồi.
Đã có
lần, một người nào đó, đào mộ ông ta, [ “in the breezes”, “trong hơi
gió thổi,
như Paul Celan đã viết, trong Tẩu Khúc Của Thần Chết, Death Fugue], “và
rồi… để
cái mai, cái thuổng vào tay ông ta, bỏ mặc ông ta một mình, mi hãy hoàn
tất
công việc mà tao đã khởi đầu đó, hãy cố mà làm cho thật tốt, cho thật
khéo, như
là mi có thể làm được.”
Kinh
Cầu [Bản tiếng Anh]
Mourner’s Kaddish
May
His illustrious name become increasingly great and
holy
In the world that He created according to His will, and
may He establish His kingdom
And may His salvation flourish and the Messiah come soon
In your lifetime and in your days
and in the lifetime of all the house of Israel-region>
Speedily and soon. And say amen
May
His illustrious name be blessed always and
forever.
Blessed, praised, glorified, exalted, extolled
Honoured, raised up and acclaimed
be the name of the Holy one blessed be He
beyond every blessing hymn, praise and consolation
that is uttered in the world. And say amen
May
abundant peace from heaven, and good lift
Be upon us and upon all Israel-region>. And say amen
May
He who makes peace in His high places
Make peace upon us and upon all Israel-region>
And say amen
[Cầu
cho Danh Sáng Ngài ngày
càng cao cả và thiêng liêng
Trong thế gian Ngài sáng tạo
nhân danh Ngài
Ngài thiếp lập nước của Mình
Cầu cho sự cứu chuộc của Ngài
thịnh vượng mãi và Đấng Cứu Thế sớm tái lâm
Trong cõi kiếp và những tháng
ngày của bạn
và trong cõi kiếp của mọi mái
nhà Israel
Mau mắn tức khắc
Và nói xin được như nguyện
Cầu cho
Danh Sáng Ngài đầy ơn
phước mãi mãi
Được ơn phước, ngợi ca, vinh
danh
Được xưng tụng, sùng bái
Cầu xin tên của Đấng Thiêng
Liêng
Đầy Ơn Phước
Mãi mãi là Ngài
vượt mọi ban phước, xưng
tụng, và an ủi
được thốt lên trong thế gian
này. Và nói xin được như nguyện
Cầu cho
nền hòa bình sung túc
từ trên trời, và cuộc sống tốt lành
cho chúng con và cho khắp Israel. Và nói
xin được như nguyện
Cầu
xin Đấng Bề Trên sáng tạo
hòa bình trên nơi cao cả của Ngài
Ban hòa bình cho chúng con và
cho khắp Israel
Và nói xin được như nguyện]
Như
vậy, về mặt thực tiễn, có vẻ như đây là kết luận
mang tính triết học của Không Số Kiếp: sự chọn lựa, là do quan niệm của
một
người về sự hiện hữu của mình, như là một sự cố [accident] ngẫu nhiên,
chẳng có
nghĩa lý gì hết, một chuỗi những trùng hợp ‘mà, muốn nói gì thì nói,
cũng vẫn
chỉ là một cuộc đời bỏ đi”, hay, [chấp nhận] sống cuộc đời đó, theo một
phương
hướng mà mình tự chọn, bất cần biết bất cứ ý nghĩa gì cuộc đời sẽ đem
lại cho
mình, và trong trường hợp này, sự chọn lựa ở đây, là viết. “Cây viết là
cái
mai, cái thuổng của tôi,” Kertesz viết. Viết, như thế, là một cách tiếp
tục
đào, cố chuyển cuộc đời của mình thành “một chuỗi những chiếu rọi, thấu
hiểu,
một khi mà sự hãnh diện của tôi [my pride], ít ra là thế, tìm thấy sự
hài lòng
của nó."
Những chiếu
rọi, thấu hiểu [insights] của
ông, là
những gì?
Chiếu rọi, thấu hiểu, với Kinh Cầu, là như thế này:
Trong khi người nói, ở trong cuốn sách sử dụng quyền năng dẫn dụ để
chuyên chở,
để nhấn mạnh, với người vợ của mình, với người đọc, và có lẽ, với chính
anh ta,
rằng, chẳng có gì không thể giải thích được, về Lò Thiêu. Auschwitz
hiện hữu, và đây không phải là sản phẩm của bất cứ một sức mạnh không
thể hiểu
được nào hết. Thay vì vậy, nó hoàn toàn hiểu được, và từ thế gian này
mà ra,
“thế gian này là như thế đó, sự tối ư hiện hữu của nó tất yếu là từ sự
kiện
này”. Cái Ác không phải là một tai nạn, hay một lổi lầm, nhưng là
hậu quả
của lối suy nghĩ duy lý, rational thinking, bởi những cá nhân con
người. Như
một khả hữu, lô gíc đến mức khiếp đảm, Lò Thiêu cứ thế lượn lờ trong
không
gian, trên đầu trên cổ con người [từ bao nhiêu thế kỷ, từ đời đời, kiếp
kiếp,
“for a long, long time, centuries”], chờ đúng lúc là nhập thể [xuất
hiện bằng
xương bằng thịt, materialize: duy vật hóa, biến thành sự vật cụ thể].
Đây là
cách mà thế gian hiện tồn, như nó là, đây là nền văn minh của chúng ta,
như là
nó là. Tuy nhiên, điều đòi một sự giải thích, là điều này, người nói
nhấn mạnh,
bây giờ, độc giả, hãy nghe cho thật hết sức kỹ càng [“and now you
should listen
extra carefully”]: điều thực sự phi lý, nó cắt ngang cái chuỗi chuyện
thường
ngày ở huyện rất ư là máy móc ở trên, tức cái chuỗi duy lý, thuần lý mà
chúng
ra đã nói tới đó, chính là Cái Tốt, Cái Thiện, chứ không phải Cái Độc,
Cái Ác. Nói rõ hơn: Ác là thuần lý. Thiện là phi lý. Chính vì
Thiện không
thuần lý nên chẳng thể nào có thể giải thích được. Nó cũng chẳng cần
giải
thích.
Và người đọc phải “lắng nghe một cách hết sức cẩn thận”. Đoạn người bạn
tù, mặc
dù có một cơ hội [một cơ hội, ở Auschwitz , nó có nghĩa của sự khác
biệt giữa
sống và chết], để ‘chớp” khẩu phần của người kể chuyện,cho chính anh
ta, nhưng
thay vì vậy, lại liều mạng sống của mình, cốt sao cho người kể chuyện
có lại
được khẩu phần đó [kèm theo chỉ một lời bình phẩm nghe thật dễ ‘nực’:
“Rồi sao,
còn muốn gì nữa?”]. Đoạn này được giấu giếm ở trong dòng độc thoại, và
người
đọc thật dễ dàng bỏ qua, bởi vì nó được kể theo kiểu chẳng thích thú
gì, đành
phải nói ra cho xong chuyện, có thể nói như vậy. Và điều này cũng chẳng
thể nói
lên rằng, cuộc đời này thì tốt, thì thiện. Tất cả chỉ để nói, rằng, tự
do có,
rằng, tự do hiện hữu.
Thứ tự do thách thức, kiêu căng, ngạo mạn đó, là điều mà Kertesz muốn
nói tới,
ở trong cuốn tiểu thuyết thứ nhì của ông, Fiasco (1988) [Fiasco: sự
thất bại
hoàn toàn và có tính lố bịch. Bản tiếng Pháp dịch là Sự Từ Chối (Le
Refus)]:
một tự do mà bản chất nghịch ngạo của nó, là ước muốn được ở tù cốt sao
được
viết; tự nguyện sống một cuộc đời tù túng, đầy ải, bởi vì đây là giải
pháp độc
nhất có thể chấp nhận được, nếu phải “hợp tác” với chế độ toàn trị.
[Độc giả
người Việt có thể nhận ra sự chọn lựa của một Nguyễn Chí Thiện ở đây].
Khi xẩy
ra cuộc nổi dậy vào năm 1956, Kertesz, qua nhân vật hoá thân của mình
là Koves,
có cơ hội để rời bỏ xứ sở, nhưng đã chọn ở lại để viết cuốn tiểu thuyết
của
ông, “cuốn tiểu thuyết độc nhất khả hữu đối với tôi”, trong thứ ngôn
ngữ độc
nhất mà ông biết. Nhưng trước đó - trước khi ông sẵn sàng cho sự từ
chối cuối
cùng, nghĩa là nói không với chế độ, và rồi tình nguyện ở tù, để viết -
ông còn
có thì giờ để thử - và đều thất bại - chọn cho mình một cuộc sống
xã hội,
qua những ngành nghề như là ký giả, thợ kim khí, ngay cả một người gác
tù. Nói
rõ hơn, đây là một từ chối hoàn toàn để trở thành có ích, và đây là sự
cứu rỗi
của ông [a total refusal to be useful – which is his salvation].
Fiasco, Sự Từ Chối, là một câu chuyện theo kiểu Kafka, rất ư là
tếu tếu
[jovial], trong sự trong sáng rất ư là thê lương rền rĩ của nó, về chế
độ độc
tài Cộng Sản. Nó đuợc miêu tả như là một tiếp nối không hề đứt đoạn,
ngay sau
cuộc sống ở trại tù Nazi chấm dứt. Cũng thế, Kinh Cầu được miêu tả, như
là một
tiếp nối của chế độ độc tài của người cha, về một tuổi thơ không hề có
tiếng
cười. Cả ba cuốn họp thành một tổng thể hài hòa, mở ra cả một cõi văn
chương mà
chúng ta có thể tạm gọi là cõi văn, với độc nhất chỉ một đề tài, của
Kertesz:
kinh nghiệm về chế độ toàn trị. Nhìn như thế đó, những gì gì Nazi,
những gì gì
Cộng Sản, những gì gì Lò Thiêu, là cơn đau đời đời, không chỉ của một
cá nhân
mà của trọn một nền văn minh - nền văn minh của chúng ta – chính cái
đó, nền
văn minh của chúng ta đó, đã làm nên Lò Thiêu, làm cho Lò Thiêu khả hữu.
Một
dòng thơ xuôi trí tuệ
Cùng
lúc viết tiểu thuyết, Kertesz còn viết một thứ
thơ xuôi trí tuệ [inrellectual prose] - một loại sách workbooks [sách
ngành
nghề], về viết, đọc, và chết. Một tuyển tập đầu tiên, viết về quãng đời
từ 1961
tới 1991, xuất bản vào năm 1993, dưới nhan đề Nhật Ký Galley. Cuốn thứ
thì,
Tôi, Người Khác [Bản tiếng Anh, I, Another], xuất bản năm 1997. Cuốn
đầu chủ
yếu là nói về cuộc đời và những ý nghĩ của ông trong khi viết bộ ba
tiểu thuyết
kể trên. Cuốn thứ nhì chú trọng tới những thay đổi lớn trong cuộc sống
của ông
[và của Âu Châu] sau 1989. Ông cũng còn cho xuất bản một vài tuyển tập
tiểu
luận, và những bài nói chuyện, nhan đề [bằng tiếng Đức], như Người Thám
Hiểm,
Lá Cờ Anh. Khoảnh Khắc Im Lặng khi Đội Hành Quyết Tái Nạp Đạn, và mới
đây nhất,
là Ngôn Ngữ Lưu Vong.
Sự
trớ trêu, ngược ngạo của việc viết, là một đề tài
mà Kertesz lập đi lập lại hoài hoài, và thật khó mà giản lược vào chỉ
một vài từ,
nếu muốn giải thích nó. Bởi vì đây là một sự ngược ngạo thứ thiệt [a
genuine
paradox: một nghịch lý đích thực]. Nhưng có thể viện hai trích dẫn, từ
những gì
ông viết, để miêu tả nó. Cả hai trích dẫn này cùng có một giá trị tức
thời như
nhau.
Trích
dẫn đầu tiên là từ Galley Diary: “Nếu tôi nghĩ
về một cuốn tiểu thuyết, tôi lại nghĩ về Lò Thiêu Auschwitz. Bất cứ gì
tôi nghĩ
tới, là luôn về Lò Thiêu. Ngay cả khi nói về một điều gì có vẻ như hoàn
toàn
khác hẳn, vậy mà cũng là về Lò Thiêu. Tôi là một Đồng Vọng Cho Hồn
Thiêng Lò
Thiêu. Lò Thiêu nói qua tôi. Mọi chuyện khác có vẻ như đều là chuyện
ngu đần,
đối với tôi, so với nó.”
Trích
dẫn thứ nhì, là từ bài nói chuyện của ông, tại
hội nghị chuyên đề “Văn Chương Người Chứng” [Witness Literature], của
Hàn Lâm Viện
Thụy Điển, vào tháng Chạp 2001, “Thật không thể không viết về Lò Thiêu,
không
thể viết về nó bằng tiếng Đức, và không thể viết về nó bằng bất cứ một
cách nào
khác,” bởi vì, ông tiếp tục, những người nào viết về Lò Thiêu, cho dù
bằng bất
cứ ngôn ngữ nào, là luôn luôn viết bằng một thứ ngôn ngữ ngoại lai, từ
lưu
vong, lưu vong ra khỏi quê nhà chẳng hề hiện hữu.
Thứ
viết lách cứng đầu cứng cổ, chẳng hề đầu hàng, cho
tới khi tìm ra con đường của nó trên bức tưòng dựng đứng như vách đá
thô kệch,
của cuộc sống trần trụi. Viết, như thế đó, là tìm cách xoay sở giữa
những bất
khả. Viết như thế đó, là một dòng thơ xuôi đầy tính suy tưởng, cố tìm
cách len
lỏi, thấm vào lòng người, và luôn luôn vọng ra từ nó, là nhịp tim đập
không
ngừng nghỉ, không đứt đoạn, của người viết, và của người đọc, sử dụng
từ như
tấm khiên đau thương, nhưng bắt buộc, nhằm chống lại “miền đất tan
hoang” [the
“desolate land”, trích Tôi, Kẻ Khác], nơi con người không nói, nhưng
giết
[người].
Nguyên
tác tiếng Thụy Điển.
Bản tiếng Anh của Victor Kayfetz có trên trang
e_Nobel của Viện Hàn Lâm Thụy Điển
NQT dịch ra tiếng Việt.