George
Steiner
Humane
Literacy
Nhân
Văn
Khi
ngoái lại, nhà phê bình thấy cái bóng viên quan hoạn ở
sau lưng. Ai chịu làm phê bình gia, nếu có thể làm nhà văn? Ai chịu gò
vào
Dostoevsky để có được trực giác tinh tế nhất, nếu có thể hàn một phân
bộ tiểu
thuyết "Anh em nhà Karamazov"; hay tranh luận về tư thái của D. H.
Lawrence, nếu có thể tạo ra luồng gió đời cuồn cuộn trong cuốn "Cầu
Vồng"? Tất cả tác phẩm văn học lớn đều bật ra từ "le dur désir de
durer"(1) (dục vọng cương cứng được trường tồn), bằng lao khổ tâm trí
nhằm
chống lại cái chết, bằng hy vọng vượt lên thời gian với sức mạnh sáng
tạo.
"Brightness falls from the air" (2): năm từ và một ngón thanh âm u
tịch (a trick of darkening sound). Vậy mà đã trường tồn cả ba thế kỷ.
Ai còn
muốn chọn làm phê bình gia, nếu có thể đặt bài ca, soạn nhạc, và từ cái
con
người sinh tử lão bịnh là chính mình, tạo ra được một giả tưởng bất tử,
một
nhân vật sống hoài hoài? Hầu hết đều sống sót, như là bụi bặm, trong
những cuốn
điện thoại niên giám cũ mèm (cám ơn Trời, cũng may còn lưu giữ tại Viện
Bảo
Tàng Anh quốc). Dấu vết để lại của họ, qua mớ chữ đó, thì cũng chẳng là
bao,
nếu nói về chân lý và mùa màng gặt hái từø cuộc sống, so với Falstaff
hay
Madame de Guermantes. Phải chi mà tưởng tượng ra được những nhân vật
như thế
nhỉ!
Phê
bình gia sống kiểu tầm gửi. Anh ta viết "về".
Phải thí cho anh ta một bài thơ, một cuốn tiểu thuyết hay một vở kịch;
phê bình
gia sống, nhờ ân huệ thiên tài, của những kẻ khác. Bằng văn phong, phê
bình, tự
thân, có thể trở thành văn chương. Nhưng chuyện này thường chỉ xẩy ra,
khi nhà
văn xử sự như nhà phê bình, về tác phẩm của chính mình; hay như một kẻ
dọn
đường cho thi pháp của kẻ đó: phê bình ở Coleridge là tác phẩm đang
tiến diễn;
hay tuyên truyền của T. S. Eliot là giây phút sáng tạo. Ngoại trừ
Sainte-Beuve,
ai dám cho rằng, ta thuộc về văn chương, thuần tuý như một nhà phê
bình? Ngôn
ngữ sống không phải nhờ phê bình.
Đó
là những sự thực đơn giản (và là những điều nhà phê bình
lương thiện nhất tự nói với chính mình, trong cái mầu chì của buổi sớm
mai.)
Nhưng nguy hiểm là, chúng ta gần như quên lãng những sự thực đơn giản
đó, bởi
đang đầy ứ, uy thế và nghị lực phê bình mang tính tự chủ. Tạp chí phê
bình ùa
ra như lũ, nào bình luận, nào lý giải; ở Mỹ, có những trường dậy phê
bình. Nhà
phê bình hiện hữu, như là một nhân vật (persona), với đầy đủ quyền hạn
riêng;
những dẫn dụ, những đôi co của anh có một vai trò trước công chúng. Phê
bình
gia viết về phê bình gia, và một tài năng trẻ, sáng láng, thay vì nhìn
phê bình
như một thất bại, nỗi tiêu điều ảm đạm lẫn dần với tro than, với cát
bụi - cái
còn lại ít ỏi của một tài năng hạn chế - lại coi đây là nghề cao giá.
Điều này
có thể tức cười, nhưng nó có một hậu quả thật thê lương. Chuyện trước
đây chưa
từng xẩy ra: một sinh viên, hay một người nào quan tâm tới văn chương,
người đó
đọc những bài điểm sách, hay những bài phê bình, thay vì chính những
cuốn sách,
thay vì cố tạo cho mình một phán đoán riêng, trước khi đọc chúng. Nhận
định của
Dr. Leavis về sự chín mùi và tính thông minh của George Eliot là một
câu nói
đầu lưỡi. Bao nhiêu người, khi lập lại câu nói, đã thực sự đọc "Felix
Holt" hay là "Daniel Deronda"? Tiểu luận của Mr. Eliot về Dante
là chuyện "biết rồi khổ lắm nói mãi", trong việc học văn; nhưng
"Commedia" ("Kịch Trời") được biết tới, may ra, chỉ vài
trích đoạn ngắn ngủi ("Inferno", XXVI hay là Ugolino bị chết đói).
Nhà phê bình thực sự, là đầy tớ cho nhà thơ; bây giờ, anh ta đóng vai
chủ, hay
bị coi là chủ. Anh ta quên bài học sau cùng của Zarathustra, bài học
sống động
nhất: "bây giờ, hãy làm, không [cần] ta."
Cách
đây đúng 100 năm, Matthew đã nhìn thấy cái thênh thang,
cái nổi bật của nhịp đập hăm hở: phê bình. Ông nhận ra rằng, nhịp đập
hăm hở
này là thứ yếu, so với của nhà văn, rằng niềm vui và sự quan trọng của
sáng
tạo, cơ bản mà nói, vẫn cao hơn. Nhưng ông coi tiếng réo gọi giục giã
này là
khúc dạo đầu cần thiết đưa tới một thời đại thi ca mới. Chúng ta tới
"sau", và đây là [vấn đề] cân não của thân phận chúng ta. Sau, là sau
cái điêu tàn chưa từng có trước đây - do tính thú vật chính trị của
thời đại
chúng ta - về những giá trị con người, và những hy vọng.
Điêu
tàn là điểm khởi đầu của bất cứ một suy nghĩ nghiêm túc
về văn chương và chỗ đứng của văn chương trong xã hội. Văn chương đụng
- một
cách thiết yếu, một cách liên tục - tới hình ảnh của con người, tới vóc
dáng và
động cơ hành xử của con người. Bây giờ, chúng ta không thể xử sự - cho
dù là
nhà phê bình hay giản dị là một con người hữu lý - như thể chẳng có một
liên quan
riết róng nào đã xẩy ra cho sự cảm nhận của chúng ta, về khả năng của
con
người; như thể việc làm cỏ - bằng cái đói và sự hung bạo - cỡ chừng 70
triệu
đàn ông, đàn bà, và trẻ con tại Âu Châu và Nga Xô trong thời kỳ 1914 và
1945:
chuyện như vậy đã không lay động tới gốc rễ phẩm chất nỗi quan hoài,
niềm âu lo
của chúng ta. Chúng ta không thể giả đò rằng [trại tù] Belsen chẳng
liên quan
gì tới cuộc sống có trách nhiệm của trí tưởng tượng. Điều con người làm
tổn
thương con người, vào ngay đúng lúc này, đã ảnh hưởng tới chất liệu đầu
tiên
của nhà văn - cái giếng sâu không thể cạn của hành vi, cách xử sự mang
tính
người - và nó đè lên não, một vết đen mới.
Hơn
thế nữa, nó đặt thành câu hỏi, về những ý niệm đầu tiên
của một nền văn hóa nhân văn. Ngay ở trái tim Âu Châu, từ đó nở ra, chủ
nghĩa
man rợ chính trị, với đỉnh cao tối hậu của nó. Hai thế kỷ sau khi
Voltaire
tuyên bố hết rồi: tra tấn trở thành một tiến trình bình thường của hành
động
chính trị. Không phải chỉ là vấn đề: rằng việc gieo giắc đại cương
những giá
trị văn học, văn hóa đã tỏ ra chẳng ngăn bờ rào giậu gì được, trước chủ
nghĩa
toàn trị; nhưng trong nhiều thời điểm đáng kể, nghệ thuật và học vấn
mang tính
nhân bản ở những vị thế cao, đã đón mừng và hỗ trợ nỗi kinh hoàng mới
mẻ này.
Chủ nghĩa man rợ đã lấn lướt, ngay tại mảnh đất từ đó nở hoa chủ nghĩa
nhân bản
Ky-tô, nền văn hóa Phục hưng và chủ nghĩa thuần lý cổ điển. Chúng ta
biết, một
số người nghĩ ra và điều hành [lò thiêu] Auschwitz, họ đã được dậy một
điều:
hãy đọc và tiếp tục đọc Shakespeare và Goethe.
Điều
này thật hiển nhiên thật tởm lợm, cho việc nghiên cứu
và giảng dậy văn chương. Nó làm chúng ta phải đối đầu với câu hỏi, rằng
sự hiểu
biết những bản văn, những tư tưởng tối hảo hạng: liệu chúng mở rộng,
làm tinh
khiết những suối nguồn tinh thần nhân loại, như Matthew Arnold khẳng
định? Nó
bắt buộc chúng ta tự hỏi, điều mà Dr. Leavis gọi là "tính gốc người"
("the central humanity") thực sự hướng tới hành vi nhân đạo, hay
ngược lại: có một khoảng trống rộng lớn hay một tréo cẳng ngỗng, giữa
đạo đức
trí tuệ phát triển trong nghiên cứu văn chương, và đạo đức trí tuệ do
chọn lựa
xã hội và chính trị, đòi hỏi. Cái khả năng sau mới thật bực mình. Có
chứng cớ
rằng một sự dấn thân chuyên nghề và đeo đẳng vào đời sống của chữ in,
một khả
năng, nhập sâu mà có tính phê phán, vào các nhân vật và các tình tự
tưởng
tượng, làm suy giảm tính tức thời, sắc bén của hoàn cảnh thực. Chúng ta
có
khuynh hướng đáp ứng một cách sắc bén với nỗi buồn văn chương hơn là sự
khốn
cùng của người hàng xóm. Chính nơi đây, mà cái thời mới xẩy ra, cho
chúng ta
những bằng chứng cay nghiệt. Những người khóc khi coi truyện tình lãng
mạn
"Werther" hay nghe nhạc Chopin đâu có biết rằng họ đi qua địa ngục
thực sự. (3)
Điều
này có nghĩa, bất cứ kẻ nào giảng dậy, hay giải thích
văn chương - và cả hai đều là những bài tập nhằm xây dựng, vì lợi ích
của nhà
văn, một tập hợp hài hòa những phản ứng sống động - người đó phải tự
hỏi về
chính mình, chức năng của mình là thế nào (dậy dỗ, hướng dẫn, qua "Vua
Lear" hay "Oresteia", là nắm giữ trong tay mình, những nguồn
sống của một kẻ khác). Với Johnson, Coleridge, và Arnold, chuyện văn
hóa góp
phần vào cảm nhận đạo đức của cá nhân, và của xã hội, là hiển nhiên.
Bây giờ,
người ta nghi ngờ. Chúng ta phải chấp nhận khả năng là, việc nghiên cứu
và truyền
đạt văn chương chỉ có một ý nghĩa nhỏ nhoi, một xa xỉ giống như thú say
mê đồ
cổ. Hay là, tệ hơn, nó còn làm chúng ta sao lãng, thay vì dùng thời giờ
và nghị
lực tinh thần vào những việc làm khẩn thiết và có trách nhiệm hơn. Tôi
không
tin chuyện này là thực. Nhưng câu hỏi bắt buộc phải được đặt ra, và
khai triển
mà đừng đạo đức giả. Chẳng có gì làm chúng ta lo lắng hơn, nếu nói về
tình
trạng hiện thời của việc học hỏi tiếng Anh tại các đại học, là sự kiện
này: một
cuộc tra hỏi như thế chỉ nên coi như là một chuyện kỳ kỳ, hay có tính
lật đổ.
Không, nó là một câu hỏi thuộc về yếu tính.
Chính
tại đây mà việc đảm bảo cho môn khoa học tự nhiên có
được sức mạnh của nó. Nhắm vào tiêu chuẩn thực chứng và thành quả mang
tính tập
thể và truyền thống (tương phản với phong thái riêng bề ngoài và cái
tôi số một
trong tranh luận văn chương), những khoa học gia thường có ý khẳng định
rằng,
những phương pháp và viễn ảnh riêng của họ, bây giờ ở trung tâm của văn
minh,
rằng tính ưu việt cổ xưa của khẳng định thi ca và hình ảnh siêu hình:
hết rồi.
Tuy hiển nhiên chưa chắc như vậy, nhưng có vẻ như tổng số những tài
năng hiện
có, nhiều, rất nhiều thuộc loại tuyệt hảo, đã quay qua khoa học. Trong
"Quanttrocento", người ta thèm phát điên được biết những họa sĩ; ngày
nay, chính ở nơi những vật lý gia, những nhà sinh hóa học, những toán
học gia
mà người ta có được ý nghĩa của niềm vui tạo hứng, của trí tưởng bay
bổng,
không một vệt mây mù che phủ.
Nhưng
chúng ta không được ngã lòng. Những nhà khoa học gia
sẽ làm giầu ngôn ngữ và những tài nguyên của tình cảm (như Thomas Mann
chỉ ra,
trong "Felix Krull", những huyền thoại và những ẩn dụ tương lai của
chúng ta sẽ nở ra ngay tại tâm của ngành thiên văn-vật lý học và vi
sinh học).
Những ngành khoa học sẽ tái sắp xếp môi trường quanh chúng ta, nội dung
lúc
rảnh rỗi, hay chuyện sinh kế, sao cho văn hóa nẩy nở. Mặc dù chúng là
niềm kỳ
diệu không sao cạn, vẻ đẹp dễ thấy, thường gặp, nhưng khoa học tự
nhiên, mang
tính toán học thật khó vươn tới niềm quan tâm tối hậu của con người.
Tôi muốn
nói chúng chẳng thêm gì nhiều, cho sự hiểu biết, hay quản lý khả năng
con
người; rằng còn nhiều hiểu biết sâu sắc có thể chứng minh được, về con
người, ở
trong Homer, Shakespeare, hơn là toàn thể ngành não bộ học hay thống kê
học.
Không một khám phá nào về gien-học có thể làm què cụt hay vượt qua
những gì
Proust hiểu về định mệnh hay gánh nặng di truyền; mỗi lần Othello nhắc
nhở, về
vết gỉ của giọt sương trên lưỡi dao sáng ngời, chúng ta lại kinh nghiệm
cõi
trần tuy khoái lạc nhưng vô thường chúng ta cần rũ bỏ: làm sao công
việc hay
tham vọng của những nhà vật lý lại có thể vươn tới đó? Mọi thẩm định
theo kiểu
thăm dò dư luận, về động cơ hay mưu lược chính trị, làm sao qua nổi
Stendhal?
Và
chính cái gọi là "khách quan tính", sự trung
lập đạo đức mà những nhà khoa học thích thú và đạt được sự cố gắng ở
nơi cộng
đồng tinh anh của họ, chúng đã tách họ ra khỏi điều liên quan sau cùng.
Khoa
học có thể đã đem khí cụ, và những kỳ vọng điên rồ cho những kẻ bầy ra
những vụ
giết người tập thể. Nó chẳng nói với chúng ta được một tí gì về những
động cơ
của nó, trong khi đây là một đề tài thật đáng cho chúng ta nghe, từ
Aeschylus
hay Dante. Cũng chẳng bõ, nếu [phải] phán đoán về những tuyên bố chính
trị ngây
thơ được đưa ra bởi những nhà luyện kim hiện thời: liệu nó có giúp cho
tương
lai đỡ tổn thương, trước phi nhân? Chúng ta có được bao nhiêu ánh sáng,
về thân
phận của mình, đều là nhờ nhà thơ vun vén cho.
Nhưng
không thể chối cãi được một điều, rất nhiều mảnh của
tấm gương bây giờ đã vỡ vụn, hoặc lu mờ. Nét nổi bật nhất trên sân khấu
văn
chương hiện nay, là sự tuyệt hảo của (thể loại) không-giả tưởng
(non-fiction) -
phóng sự, lịch sử, tranh luận triết học, tiểu sử, tiểu luận phê bình -
chúng
lấn lướt những thể loại có tính tưởng tượng truyền thống. Hầu hết những
tiểu
thuyết, thơ, hay kịch trong hai thập kỷ vừa qua, giản dị đều chưa viết
tới (not
well written), chưa cảm sâu (not strongly felt), so với những cách viết
qua đó,
trí tưởng tượng vâng theo sức bật của sự kiện. Những hồi ký của Bà
Simone de
Beauvoir là cái mà những cuốn tiểu thuyết của Bà đúng ra nên là, nếu
nói về
những tuyệt vời của cái tức thời vật lý và tâm lý. Edmund Wilson viết
thứ văn
xuôi tuyệt hảo ở Mỹ. Chẳng có một cuốn nào, trong hằng hà sa số những
cuốn tiểu
thuyết, những bài thơ viết về đề tài ghê rợn là trại cải tạo có thể so
với sự
thực, sự cảm thông mang chất thơ vừa đủ, ở trong phân tích sự kiện của
Bruno
Bettelheim, "The Informed Heart" ("Trái Tim Biết") . Có vẻ
như là tính đa dạng, nhịp điệu, và những chiều hướng chính trị quỉ ma
của thế
kỷ chúng ta đã hoang mang, quay trở về với trí tưởng tượng tự tin của
những bậc
thầy văn chương cổ điển hay với tiểu thuyết thế kỷ 19. Một cuốn tiểu
thuyết của
Butor và "Naked Lunch" ("Bữa Ăn Trần"), cả hai đều là đào
thoát. Né tránh đề tài lớn của con người, hoặc nhạo báng nó, qua mấy
trò cuồng
tưởng khiêu dâm và sa đích, đều chỉ ra cùng một thất bại sáng tạo. Bằng
lô gích
Ái Nhĩ Lan không thể chê vào đâu được, Ngài Beckett đang tiến về một
thể loại
kịch trong đó, chân ngập vào khối vữa, mồm bị nhét giẻ, một nhân vật
trõ mắt
nhìn khán thính giả, không nói gì hết. Trí tưởng tượng bị bội thực bởi
những
trò ghê rợn, và chuyện tào lao, qua đó nỗi kinh hoàng hiện đại được
diễn tả.
Chưa bao giờ như bây giờ: thi ca bị cám dỗ bởi sự câm lặng.
Chính
trong cái nội dung thiếu thốn, bất định này mà phê
bình nhìn ra chỗ đứng tuy khiêm tốn nhưng thật sống còn của nó. Theo
tôi, chức
năng của nó được gấp ba.
Thứ
nhất, nó có thể chỉ cho chúng ta cái gì [cần phải] đọc
lại, và bằng cách nào. Tổng số văn chương rõ ràng là bao la, và sức ép
của cái
mới thì lại thường hằng. Người ta phải chọn, và chính do sự chọn lựa
này, mà
phê bình tỏ ra hữu dụng. Điều này không có nghĩa nó đóng vai trò [phó
mặc cho] số
mệnh và lọc ra một dúm tác giả hay tác phẩm như chỉ có dúm này là
truyền thống
có giá trị, loại bỏ những người khác (dấu hiệu chỉ ra phê bình tốt: nó
mở ra
nhiều cuốn sách, hơn là đóng lại). Điều đó có nghĩa, từ cái di sản rộng
lớn,
chằng chịt của quá khứ, phê bình sẽ mang ra ánh sáng và nhấn mạnh những
gì nói
với hiện tại, bằng cách nói thẳng đặc biệt hay riết róng.
Đây
là khác biệt rõ rệt giữa nhà phê bình và nhà sử văn hay
ngữ văn. Với nhà ngữ văn, giá trị một bản văn mang tính nội tại, nó có
cái mê hoặc
về ngôn ngữ hay theo kiểu biên niên, độc lập theo một liên quan rộng
lớn hơn.
Nhà phê bình, khi giành phần cho mình thuộc loại uyên bác, về ý nghĩa
và sự vẹn
toàn của tác phẩm: anh ta phải chọn. Và anh ta sẽ nghiêng về những tác
phẩm có
thể tạo ra cuộc thoại với những người đang sống, là chúng ta.
Mỗi
thế hệ có chọn lựa của nó. Có thi ca trường tồn, vĩnh
cửu nhưng thật khó mà có phê bình mãi mãi "vũ như cẩn". Tennyson sẽ
có "ngày của ông ta", và Donne, "buổi nhật thực". Hay là,
để đưa ra một thí dụ chẳng liên quan gì tới thói ham mốt này mốt nọ:
trước
chiến tranh, tại những trường Pháp nơi tôi theo học, nói chung là ai
cũng coi
Virgil như là một kẻ bắt chước Homer một cách ngây ngô, bắng nhắng. Tất
cả học
sinh đều khẳng định với bạn bằng một thái độ rất ư là tự tin như thế.
Cùng với
thảm họa, chuyện thường ngày về "cuộc tháo chạy tán loạn", và lưu
vong, cách nhìn trên đã thay đổi một cách triệt để. Bây giờ, Virgil trở
nên một
chứng nhân thật chín mùi, thật cần thiết. Simone Weil và cách đọc ngang
bướng sử
thi "Iliad", hay "Death of Virgil" ("Cái Chết của
Virgil") của Hermann Broch, cả hai đều góp phần trong việc tái thẩm
định.
Thời gian, theo dòng lịch sử và với cuộc sống cá nhân của từng con
người, đã
làm thay đổi cái nhìn của chúng ta đối với một tác phẩm, hay là phần
chủ yếu
của nghệ thuật. Có thi ca của những người trẻ, có văn xuôi dành cho
những ông
già. Bởi vì tiếng kèn rộn rã của họ về một tương lai huy hoàng, tương
phản trớ
trêu làm sao, với kinh nghiệm hàng ngày của chúng ta. Những kẻ lãng mạn
đâu còn
là trung tâm của vấn đề? Thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17, mặc dù ngôn ngữ
thường mơ
hồ và rắc rối, lại có vẻ gần gụi với lời nói chúng ta. Phê bình có thể
làm cho
những thay đổi do yêu cầu này trở thành có ích, loại bỏ những gì không
cần
thiết. Nó có thể chiêu tập từ quá khứ, những gì thiên tài của hiện tại,
nhờ vả
(đằng sau cái đẹp nhất của văn xuôi ở Pháp vào lúc này, là sợi gân của
Diderot). Và nó có thể nhắc nhở chúng ta rằng, những phán đoán trước
sau, này
nọ của chúng ta chẳng tuyệt đối chẳng vĩnh cửu. Nhà phê bình sẽ "tiên
cảm" (feel ahead); anh ta sẽ ngả người về phía chân trời, và sửa soạn
mảnh
đất cho những mùa gặt tương lai. Đôi khi, anh ta nghe tiếng vọng, khi
tiếng nói
đã chìm vào quên lãng; hay là trước khi nó cất lên. Vào những năm 1920,
có một
số người đã cảm thấy thời của Blake và Kierkegaard đang ở trong tầm
tay; hay là
10 năm sau, một số đã nhận ra sự thực phổ cập, trong cơn ác mộng riêng
tư của
Kafka. Đây không phải vấn đề chọn kẻ thắng, nó có nghĩa: biết, rằng tác
phẩm
nghệ thuật tự khẳng định qua một tương quan phức tạp, theo nhu cầu, so
với thời
gian.
Thứ
hai, phê bình có thể kết nối. Vào một thời đại mà sự mau
lẹ của truyền thông kỹ thuật, nó thực sự che giấu những rào cản chính
trị, ý
thức hệ thuộc loại bướng bỉnh; nhà phê bình có thể xử sự như một kẻ
trung gian,
và người bảo quản. Đây là một phần của công việc của anh ta, để thấy
rằng một
chế độ chính trị không thể giáng yểm một tác phẩm của một nhà văn vào
cõi quên
lãng và bóp méo nó, rằng những cuốn sách [dù có bị] thiêu huỷ, tro than
được
vun vén, và được giải mã.
Ngay
cả khi tìm cách tạo cuộc thoại, giữa quá khứ và hiện
tại, nhà phê bình sẽ cố gắng, giữ cho thênh thang những con đường giao
tiếp,
giữa những ngôn ngữ. Phê bình mở rộng, làm rắc rối đa đoan, bức bản đồ
cảm
tính. Nó nhấn mạnh, rằng văn chương không thể sống, trong cách biệt,
trơ trọi,
mà trong một môi trường nhiều ngôn ngữ, nhiều quốc gia. Phê bình nở rộ,
trong
tương đồng, theo bước nhẩy xa, của giả dụ. Nó biết rằng, những kích
động của
một tài năng lớn hay một thể loại thi ca, trải dài theo những mẫu mã
phức tạp
của sự phổ biến, truyền đạt. Nó làm việc "à l'insigne de
Saint-Jérôme" ("dưới huy hiệu của Saint-Jérôme") (4), biết chẳng
có tương đương thực sự, giữa những ngôn ngữ, mà chỉ có bội phản; nhưng
toan
tính chuyển dịch là một yêu cầu hoài hoài, nếu bài thơ [được viết ra là
để]
sống trọn cuộc đời đầy ứ của nó. Cả hai, nhà phê bình và nhà dịch
thuật, cố làm
điều: truyền đạt khám phá.
Trong
thực hành, điều này có nghĩa, rằng văn chương được
giảng dậy, và dẫn giải theo con đường so sánh. Không làm quen trực tiếp
với
hùng ca Ý Đại Lợi, khi phán đoán Spenser, không nắm bắt được Boileau
khi đánh
giá Pope, không gần gụi với Balzac, Stendhal, Flaubert khi "xem xét"
sự thành công của tiểu thuyết thời Victoria hay của Henry James: như
vậy là đọc
một cách hời hợt, giả tạo. Chỉ có chủ nghĩa phong kiến của những đại
học mới
chia rẽ thẳng thừng giữa nghiên cứu tiếng Anh và Những Ngôn Ngữ Hiện
Đại. Thế
ra là tiếng Anh không phải là một ngôn ngữ hiện đại, có thể tổn thương,
và có khả
năng hồi phục, tại bất cứ một thời điểm nào trong lịch sử của nó, trước
sức ép
của những thổ ngữ Âu Châu, của truyền thống lục địa về phép tu từ và
thể loại?
Nhưng câu hỏi sắc bén, chém sâu hơn là cái kỷ luật mang tính hàn lâm kể
trên.
Nhà phê bình nào tuyên bố rằng, con người có thể biết một ngôn ngữ cho
tới nơi
tới chốn, rằng việc thừa kế gia tài thi ca hay truyền thống quốc gia về
tiểu
thuyết, vậy là có giá trị, hay cao cả rồi; người đó đang đóng mọi cánh
cửa, khi
đúng ra chúng phải được mở rộng; người đó đang làm hẹp cái đầu, khi
đúng ra, nó
phải được mở ra cho một thành tựu rộng lớn, đồng đều hơn. Trong chính
trị, chủ
nghĩa Sô-vanh [chủ nghĩa ái quốc cực đoan] đã rống lên cuộc tàn phá,
trận huỷ
diệt; nó không có chỗ, trong văn chương. Nhà phê bình - lại ở đây, anh
ta khác
với nhà văn - không phải là người đóng trụ trong khoảnh vườn của riêng
mình.
Chức
năng thứ ba của nhà phê bình mới thật tối quan trọng.
Nó liên quan tới sự phán đoán văn chương đương thời. Có một sự khác
biệt giữa
đương thời và tức thời. Tức thời tóm lấy những nhà điểm sách. Nhưng rõ
ràng nhà
phê bình còn có những trách nhiệm đặc biệt với nghệ thuật chính thời
đại của
mình. Anh ta phải tra hỏi, không chỉ chuyện, hoặc là nó trình bầy một
tiến bộ
kỹ thuật hay một tinh luyện, hoặc là nó thêm vô một cú xoắn về văn
phong hay
chơi một đòn vụng về lên cân não thời điểm; nhưng còn về những gì nó
đóng góp,
hay lấy đi, từ những tài nguyên nghèo nàn của đạo đức trí tuệ. Tác phẩm
này đề
nghị chi, nếu nói về chuyện cân đo đong đếm vóc dáng, hình ảnh con
người? Đây
không phải là một câu hỏi dễ nói ra, nó còn dễ bị coi là thiếu tế nhị.
Nhưng
thời đại chúng ta là một thời đại không bình thường. Nó "lao động"
dưới sức ép (stress) của phi nhân, được kinh nghiệm theo một qui mô
khổng lồ,
đặc thù, và ghê rợn; và khả năng của một điêu tàn thì lấp ló chẳng đỗi
xa.
Người ta thích ban cho mình trò xa xỉ, là chùm chăn, đợi thời, nhưng vô
phương.
Thí
dụ, điều này có thể dẫn người ta tới việc tra hỏi, liệu
chăng, tài năng của Tennessee Williams đang được sử dụng là để chuyên
chở trò
sa đích ỉ ôi; sự điêu luyện cầu kỳ thuộc loại thầy của Salinger, là để
tranh
luận một cái nhìn còm cõi đến mức phi lý, về cõi nhân sinh. Nó có thể
dẫn tới
câu hỏi, sự tầm phào trong những kịch của Camus, và tất cả những cuốn
tiểu thuyết
của ông, trừ cuốn đầu, là để nói lên một tư tưởng có dáng vẻ điêu khắc
trong
chuyển động lững lờ, và mang tính mơ hồ hoài huỷ. Hỏi, chứ không phải
chế nhạo,
hay kiểm duyệt. Sự khác biệt rất ư là quan trọng. Việc tra hỏi chỉ có
thể có
ích một khi mọi ngõ vào tác phẩm là hoàn toàn tự do, một khi nhà phê
bình thực
tình hy vọng, một ý kiến bác bỏ, hoặc trái ngược. Hơn thế nữa, khi viên
công an
hay tay kiểm duyệt tra hỏi nhà văn, nhà phê bình chỉ tra hỏi cuốn sách.
Xuyên
suốt bài viết, điều mà tôi nhắm tới, đó là ý niệm về
"humane literacy"(5). Trong cuộc trò chuyện lớn lao với những người
chết còn sống mà chúng ta gọi là đọc sách đó, vai trò của chúng ta
không phải
là một vai trò thụ động. Đọc là một kiểu hành động, chứ không phải là
chuyện mơ
màng hay trò nhâm nhi dửng dưng, phát sinh từ buồn chán. Chúng ta lay
động sự
hiện hữu, tiếng nói của cuốn sách. Chúng ta cho phép nó nhập vô - tuy
lúc nào
cũng cảnh giác - phần sâu thẳm ở trong chúng ta. Một bài thơ, một cuốn
tiểu
thuyết cổ điển, chúng áp đảo; chúng tấn công, và chiếm lĩnh những trọng
điểm
của ý thức. Bằng những chiêu thức kỳ lạ của một bậc thầy, chúng quay
quật trí
tưởng tượng, cõi dục, tham vọng, và những cơn mộng thật bí ẩn, thật
thầm kín
của chúng ta. Những kẻ đốt sách biết rõ điều mà chúng đang làm. Nghệ sĩ
là một
sức mạnh không thể nào kiểm tra được: kể từ Van Gogh, không một con mắt
Tây-phương nào nhìn cây bách mà không nhận ra ở trong đó, khởi đầu của
một ngọn
lửa.
Theo
mức độ tối thượng, văn chương cũng như vậy. Người nào
đọc Hồi Thứ 24, sử thi "Iliad" - đêm gặp gỡ giữa Priam và Achilles -
hay là chương Alyosha Karamazov quỳ dưới những vì sao, người nào đọc
chương XX
của Montaigne (Que philosopher c'est apprendre l'art de mourir: Rằng
suy tư
triết học là học nghệ thuật chết) (6), và cách mà Hamlet sử dụng nó, và
người
nào mà không thấy mình bị biến đổi, nhận thức về chính cuộc đời mình
vẫn như
cũ, cái nhìn căn phòng [mới] chuyển tới chẳng gợn chút thắc mắc, những
ai kia
gõ cửa đâu có gì khác: người đó đọc mà sự thực là mù, tuy vẫn nhìn
được, theo nghĩa
vật lý. Liệu ai đó có thể đọc "Anna Karenina" hay Proust mà chẳng
kinh nghiệm được gì, về sự yếu đuối trong những tình cảm, ý nghĩ liên
quan tới
dục tính?
Đọc
tới nơi tới chốn, là chấp nhận hiểm nguy. Điều gọi là
căn cước, sự tự chủ của chúng ta có thể bị thương tổn. Trong những biểu
hiện
khởi đầu của chứng động kinh, có một giấc mơ thật đặc trưng; Dostoevsky
nói về
nó. Con người như bị nhấc bổng ra khỏi thân thể của mình; người đó nhìn
ngoái
lại và cảm thấy một nỗi sợ bất thần, khùng điên; một hiện hữu khác đang
đi vô
chính cái thân thể của mình đó, và chẳng còn đường nào để mà trở lại.
Nỗi sợ
khủng khiếp làm cho cái đầu cố bật dậy, tỉnh giấc. Cũng vậy, khi chúng
ta cầm
trong tay một tác phẩm lớn lao, văn chương hay triết học, tưởng tượng
hay đề
thuyết. Nó có thể hoàn toàn chiếm hữu chúng ta, khiến chúng ta [phải]
bỏ đi
lang thang, sợ hãi ngay chính mình, không còn nhận ra mình. Người nào
đọc
"Metamorphosis"("Hóa Thân") của Kafka, và nhìn vào gương
không rùng mình, người đó có thể đọc bản in, theo nghĩa kỹ thuật của từ
"đọc", nhưng thực sự là mù chữ, theo đúng nghĩa của việc đọc.
Bởi
vì cái cộng đồng của những giá trị truyền thống, đã tản
mác, bởi vì những từ, chính chúng cũng bị vặn vẹo, rẻ rúng, bởi vì
những thể
loại cổ điển châm ngôn, hay ẩn dụ ngày trở thành những kiểu nói làm xàm
cho qua
đi: nghệ thuật đọc sách, nghệ thuật về một khả năng biết chữ thực sự
(true
literacy) phải được tái tạo dựng. Đây là nhiệm vụ của phê bình văn học:
giúp
chúng ta - như là những con người hoàn toàn - đọc. Bằng những thí dụ về
sự
chính xác, về nỗi sợ hãi, và niềm vui rạng ngời. So với hành động sáng
tạo,
nhiệm vụ này là thứ yếu. Nhưng chưa bao giờ nó quan trọng như là lúc
này. Không
có nó, sáng tạo, chính nó, có thể rơi vào câm lặng.
Nguyễn
Quốc Trụ chuyển ngữ.
Chú
thích:
"
Humane Literacy" viết năm 1963, được in trong
"Language and Silence", essays on Language, Literature and the
Inhuman ("Ngôn ngữ và Câm lặng", gồm 31 tiểu luận về Văn chương, Ngôn
ngữ, và Phi nhân, nhà xb Yale University, 1967). Người dịch có tham
chiếu bản
tiếng Pháp, "Ngôn ngữ và Câm lặng", "Langage et Silence"
(nhà xb du Seuil, 1969; tủ sách 10/18; lần tái bản 1999; gồm những dịch
giả
Lucienne Lotringer, Guy Durand và Denis Roche, Jean-Pierre Faye, và
Jean
Fanchette; trích tuyển 13 bài từ nguyên tác tiếng Anh).
(1)
Tiếng Pháp trong nguyên bản.
(2)
"Ánh Sáng sa từ cõi trời". Bản tiếng Pháp:
"Ánh Sáng biến mất ở trên trời (La clarté s'évanouit dans l'air)", và
ghi chú, câu này từ nhà văn châm biếm người Anh, Thomas Nash(e)
(1567-1601),
trong tác phẩm "In Time of Pestilence" ("Thời Bệnh Dịch").
(3)
"Men who wept at ‘Werther’ or Chopin moved,
unrealizing, through literal hell." Bản tiếng Pháp: "Những người mà
Goethe và Chopin làm đổ lệ, đã đi qua địa ngục của những kẻ khác mà
không nhíu
mày." Bạn đọc để ý tới hai cụm từ "literal hell" (địa ngục theo
nghĩa đen), và "literary sorrow" (nỗi buồn văn chương), trong nguyên
bản.
(4)
Dịch giả Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo.
(5)
Tạm dịch: một nền văn hoá nhân bản (une culture
d’humaniste).
(6)
Tiếng Pháp trong nguyên bản. Bản dịch tiếng Pháp sửa lại
là: Que philosopher, c’est apprendre à mourir. (Rằng triết là học chết.)