Ngôn
ngữ lưu vong
The
Exiled Language
Imre
Kertész
"Cho dù ở bất
cứ đâu, viết bằng bất cứ ngôn ngữ nào, nhà văn của Lò Thiêu vẫn chỉ là
một cô hồn phiêu bạt, mong tìm nơi nương náu, ở nơi đâu nếu không là
trong tiếng nước người..." Imre Kertész
"Tiếng Đức cũng chỉ là nơi nương náu tạm thời, cho qua một đêm, của
những kẻ không nhà. Cũng tốt thôi, nếu nhận ra điều này. Cũng tốt thôi,
nếu làm hòa với một tri thức như thế, và thuộc trong số những người
không thuộc về nơi chốn nào. Cũng tốt thôi, một kiếp người."
"Nếu phải nghĩ tới một cuốn sách sẽ viết, thì nó vẫn là về Lò Thiêu"
Kertész
Với Imre Kertész, một người sống sót Lò Thiêu, tiếng nói Đức có những
mắc míu không thể nào tẩy xóa được tại Âu Châu, nơi vẫn còn bị ám ảnh
bởi chủ nghĩa bài Do Thái. Thứ ngôn ngữ đã một thời giầu sang hiển hách
nhờ những nhà văn lớn lao Do Thái như Kafka, Celan, và, mặc dù Imre
Kertész viết bằng tiếng Hungary,
những tác phẩm của ông được biết đến nhiều nhất, qua bản dịch tiếng Đức.
Dưới đây, là chuyển ngữ, từ bản tiếng Anh của dịch giả Ivan Sanders,
trích đoạn bài viết của Imre Kertész, nhà văn Hungary gốc Do Thái,
Nobel văn chương 2002, nhan đề "Quyền Tự Do Tự Định Nghĩa Mình" (The
Freedom of Self-Definition), trên tờ The Guardian số đề ngày 19 tháng
Mười, 2002, trên lưới.
****
Đề tài của tôi là sự tự do tự mình định nghĩa mình; tự do này đòi hỏi
một điều thật đơn giản, là, mỗi, và mọi thành viên trong xã hội, có
quyền mình là mình. Không ai bị biến thành trò cười, hay trở thành nạn
nhân của sự phân biệt, chỉ vì mình đã chót sinh ra là mình, hay là chót
coi mình là mình, theo một cung cách, đường hướng nào đó. Cũng như vậy,
lẽ tất nhiên, đừng ai chơi trội, khi cho rằng, mình hơn người là do gốc
gác, niềm tin, tư tưởng, hay giản dị bởi vì là do một điều, mày có biết
tao là ai không? Ở đây, tại Âu Châu này, bạn hẳn nhiên coi những tự do
như vậy là được đảm bảo; bạn thưởng thức những tự do như vậy, trong
cuộc sống thường ngày của bạn, coi đây là những quyền cơ bản của con
người, và có thể, bạn chẳng thấy sự cần thiết, bàn về chúng.
Nhưng thật cần thiết bàn về vấn đề này, bởi vì, ngay cả ở những nền dân
chủ tây phương, tự do định nghĩa mình là mình cũng chưa thực sự được
giải quyết tới nơi tới chốn, như là bề ngoài nó có vẻ như vậy. Đúng là
quan niệm về nhân quyền, một trong những quyền cơ bản của nó là quyền
về tự do và về phẩm giá, được diễn tả gọn gàng như vậy, là từ văn minh
tây phương mà ra. Nhưng nhà nước toàn trị cũng có gốc gác của nó ở đây.
Bởi vì những chế độ độc tài của thế kỷ 20 đương nhiên họ vờ đi nhân
quyền, coi con người như con cừu trong những trại khổng lồ, và dán cho
họ những nhãn hiệu lòe loẹt, dễ nhận ra – những nhãn hiệu quá hiển
nhiên, rằng, họ thuộc loại có đặc quyền hay bị coi là ô nhục. Người ta
thường chỉ nghĩ tới những cực điểm của những gán ghép như thế. Nhưng
còn cả lố những cái khác, ở lưng chừng, cho thấy nhiều hình thức khác
nhau, của sự đối xử phân biệt.
Chúng ta không thể coi thường sự tổn hại gây ra bởi một hệ thống gán
ghép mang tính tập thể, đánh đồng như vậy, khi nó được định chế hóa,
hoặc được đem ra thực hành – làm sao biết được, nó vặn vẹo quan điểm
của người ta, tẩm độc những liên hệ của họ với người khác ra sao, và
làm bại hoại ngay cả hình ảnh của chính họ tới mức nào.
Hệ thống những biểu tượng được chế độ Nazi đem ra thi hành, theo một
cách nào đó, là rất ư đơn giản, và quá mức hiển nhiên. Mục đích của nó,
là tiêu diệt một số người, trong khi khuyến khích số người khác tha hồ
sinh con đẻ cái, như thể họ thuần chủng. Trong những chế độ độc tài
cộng sản, tình hình có phức tạp hơn. Ở đây, những viên chức làm công
việc sàng lọc, tuyển chọn, họ luôn luôn thuộc về nhân dân, ở trong nhân
dân mà ra, và họ cứ thế tiếp tục đưa người từ trại tù này tới trại tù
khác. Đôi khi xẩy ra trường hợp, ở lưng chừng của những công tác như
vậy, viên chức lo việc chuyển tù bỗng bị ai đó, từ phía sau lưng tóm cổ
anh ta, tàn nhẫn thẩy vào một trong những trại tù chẳng thoải mái chút
nào, mà cho tới lúc đó anh ta đang hồ hởi đẩy người vào.
Tôi chẳng mong muốn dây dưa quá nhiều vào chuyện nghiên cứu những chế
độ độc tài, chúng biến phân biệt đối xử và diệt chủng thành một nguyên
tắc chung, một thứ qui luật của chúng. Ngoài ra, tôi chỉ nhắc tới hai
hình thức cực đoan của phân biệt đối xử mang tính tập thể được đem ra
thực thi bởi những chế độ độc tài thế kỷ 20, và chỉ đưa ra những thí dụ
tại Âu Châu. Chúng ta biết còn có rất nhiều hình thức không phải tại Âu
Châu. Ngay cả tại Âu Châu, cũng còn có những hình thức phân biệt đối xử
mang tính tập thể, nhẹ nhàng hơn nhưng cũng khá hiệu quả, mà chúng ta
có thể gọi là phân biệt đối xử mang tính dân sự, giữa những người cùng
trong một nước. Chính quyền tỏ ra chẳng giúp ích gì được, trong việc
chống lại phân biệt đối xử dân sự, chính trị gia tỏ ra khả ái, còn mấy
ông chủ trương dân túy thì coi như chẳng có gì là đáng xấu hổ cả, khi
lợi dụng nó. Rồi thì còn có, đặc biệt là ở vùng Đông Âu, những xứ sở
hậu cộng sản, một kiểu phân biệt đối xử không những đáng tha thứ, bỏ
qua, mà lại còn được khuyến khích nữa, tuy bị nhà cầm quyền chính thức
phủ nhận một cách quyết liệt. Cách đây không lâu, một nhà văn Ấn Độ,
Urwashi Butalia, đã kể lại kinh nghiệm của riêng bà. Chúng ta được
biết, qua bà, chuyện gì đã xẩy ra cho dân chúng, khi chính trị chia rẽ
hai dân tộc, trong trường hợp ở đây, là dân Ấn và dân Pakistan. Họ nói
cùng một thứ tiếng, và chia sẻ cùng một văn hóa, vậy mà chỉ vì chủ
nghĩa ái quốc phi lý và cuồng tín tôn giáo đã làm cho hai dân tộc khốn
khổ, chúng làm đảo điên tất cả sự suy nghĩ, cuộc sống từng ngày của họ.
Chỉ trong vòng một đêm, vừa bừng mắt dậy, dân chúng nhận ra rằng, họ ở
trong hai trại khác biệt hẳn nhau, và đứng trước thực tế phũ phàng, họ
chẳng còn biết sống để làm gì, mình là ai, họ là ai nữa.
Những người Âu Châu chúng ta đã nhiều phen kinh nghiệm những thay đổi
tàn bạo, bất thần như thế trong thế kỷ qua – phần nhiều ở phần đông hay
trung Âu Châu, so với vùng phía tây lục địa của chúng ta. Những thay
đổi như thế thường là kèm theo những mất mát về văn hóa không thể nào
thay thế được. Vốn một thời, chốn này chốn kia là những thành phố với
những đại học, những trung tâm văn hóa, nơi ba bốn thứ ngôn ngữ cùng
được trao đổi, bỗng xuống cấp, biến thành những vùng tỉnh lẻ, ở trong
những đế quốc rộng lớn, và giản dị biến khỏi bản đồ văn hóa Âu Châu.
Nhiều người sẽ nghĩ tới Czernowitz, nơi nhà thơ Paul Celan từ đó tới,
"một thành phố mà cư dân của nó là những con người và những cuốn sách".
Những người Đức chính họ, như là hậu quả của mộng bá chủ toàn cầu, đã
hủy diệt văn hóa Đức, ở trong những vùng mang tính đa quốc gia, đa ngôn
ngữ, mà dân cư ở những nơi đây lên tới hàng triệu người – những vùng
hầu như hoàn toàn bị chế ngự bởi ảnh hưởng văn hóa Đức.
Họ hủy diệt những thiểu số dân Do Thái nói tiếng Yiddish hoặc tiếng Đức
ở đó, những thiểu số dân đã đem đến cho tiếng nói Đức những người khổng
lồ trong văn học như là Joseph Roth, Franz Kafka, và Celan.
Thường xuyên sống trong những môi trường ngôn ngữ khác, những nhà văn
này viết bằng tiếng Đức, và họ làm như vậy, là bởi vì đây là thứ ngôn
ngữ họ nói, trong mái ấm gia đình của cha mẹ; và vì là người Do Thái,
do đó, không có gốc rễ, và là người của muôn phương, và chắc là kẻ thù
của họ chẳng muốn điều này: họ suy nghĩ theo những chiều hướng của một
ngôn ngữ lớn (a major language). Viết bằng tiếng Đức có ý nghĩa độc lập
về trí thức đối với những nhà văn trên; nó đảm bảo sự tự do mình là
mình của họ. Ngày nay, vang bóng một thời, những khu vực văn hóa Đức
mang tính vùng (tôi nhấn mạnh từ vùng, partial) – hãy cứ nói là từ vùng
bán đảo Crimea, qua Bukovina tới Galicia – chẳng bao giờ còn làm giầu
cho văn hóa Đức, và những kẻ độc nhất, trách nhiệm những mất mát này,
là người Đức, chính họ.
Coi chính trị và văn hóa như là kẻ thù thay vì chỉ là đối nghịch, là
một hiện tượng đặc thù của thế kỷ 20. Nó không hề là một phát triển
mang tính tự nhiên; chính trị ly dị, tách lìa ra khỏi văn hóa, tạo ra
chuyên chế vô giới hạn qua toàn quyền toàn lực, và có thể gây hủy hoại
một cách thật là tàn khốc.
Cuộc ly dị này có thể không hủy hoại mạng sống, của cải, nhưng nó luôn
luôn làm hư ruỗng hồn người (human soul). Những phương tiện làm hư
ruỗng của nó được gọi bằng cái tên: ý thức hệ. Thế kỷ 20 -một thế kỷ
còn "được" nhắc nhở đến nhiều, do sự mất mát tàn khốc về những giá trị
văn hóa – đã biến đổi những gì được coi là những giá trị, thành ý thức
hệ.
Sắc thái bi thảm nhất của sự biến đổi này là, những tầng lớp dân chúng
hiện đại chẳng bao giờ được rờ tới văn hóa, thay vì vậy, họ có được ý
thức hệ. Sự phát triển này có nhiều nguyên nhân, một trong số đó, rõ
ràng là sự kiện này, những tầng lớp dân chúng như thế đó, đã xuất hiện
đúng vào thời điểm, khi văn minh Âu Châu trải qua một cuộc khủng hoảng
về tinh thần sâu thẳm "nhất", có thể nói là "nhất, nhất". Có những
người, với sự trợ thủ của những kỹ thuật tinh vi được phát triển bởi
guồng máy của những đảng phái chính trị, đã nắm lấy quyền kiểm soát, và
sử dụng những tầng lớp dân chúng này. Hình như [nhà văn Đức] Thomas
Mann đã từng nói, thật là quá đầy đủ, khi gọi một khối dân đông đảo, là
một Volk (Tộc, Dân Tộc), khi muốn họ ôm lấy bất cứ việc gì. Đâu có cần
tới quyền lực của một nhà nước toàn trị ra tay làm điều này. Uy quyền
của một Franco, một Dolfuss, hay một Nicholas Horthy đã có thể biến tín
ngưỡng, lòng ái quốc, hay văn hóa, thành chính trị, và biến chính trị,
chính nó, thành một dụng cụ của hận thù.
Hận thù và dối trá – đây chắc là hai yếu tố quan trọng nhất của nền học
vấn mang tính chính trị mà dân chúng của thế kỷ 20 hấp thụ được. Chúng
ta chỉ cần nhớ lại "Hai Phút Hận Thù" (Two Minutes Hate) này, trong tác
phẩm 1984, của nhà văn George Orwell.
"Dối trá trở thành một sức mạnh thành lập lịch sử, mãnh liệt chưa từng
có, trong ba mươi năm trở lại đây," Sándor Márai viết vào năm 1972.
Điều này đặc biệt đúng đối với những xứ sở thuộc đông và trung Âu Châu;
sau cuộc thế chiến thứ nhất, những tình cảm quốc gia tại đây nở rộ. Đế
chế Áo-Hung, một thế lực lớn lao thuộc trung Âu Châu, sụp đổ, và sự tan
rã của nó đã sản xuất ra độc dược, những độc dược này làm độc những
quốc gia mới mẻ, mọc lên từ nơi đế chế Áo-Hung đổ xuống. Trong những
đại học và trung học của một nước Hungary bị cắt cụt thun lủn, những
luật lệ mang tính phân biệt đối xử đã được đem ra sử dụng, và, vào năm
1938, một thứ hiến pháp bài Do Thái hơn, đã có hiệu lực. Vào năm 1944,
họ đeo cho tôi một ngôi sao vàng, và theo một nghĩa biểu tượng, nó vẫn
còn đó; từ cái ngày ấy, tôi không làm sao gỡ nó ra được nữa.
Chắc có người ngỡ ngàng, tôi phải thừa nhận điều này, bởi vì đã hơn
mười năm, sau sự trừ khử những nhà nước toàn trị cuối cùng tại Âu Châu,
hơn mười năm, sau sự ra đời của chế độ dân chủ tại phần đất này của Âu
Châu, vậy mà tôi vẫn còn nói như vậy. Những đau nhức như thế của tinh
thần, có vẻ như chúng tự động sản xuất ra một thứ bệnh trạng của riêng
nó, chúng ta chẳng thể nào hoàn toàn thấu đáo về một chuyện như vậy.
Hãy lấy thí dụ, bạn có ý nghĩ là, thế giới chung quanh bạn thì đầy hồn
ma, cứ như thể chính bạn cũng trở nên không thực, và cũng chỉ là một
hồn ma.
Hay là trường hợp ngược lại, xẩy ra: bạn cảm thấy mình là ngoại, cái
mình là mình ấy là ngoại, như thể tất cả những gì bạn làm ra, đều trôi
tuột đi, nhập vào môi trường chung quanh bạn, và đây là một môi trường
không dính dấp, chẳng quen thuộc, và cũng chẳng tỏ ra thân mật với bạn:
một môi trường phóng ngoại. Vợ tôi, là người Mỹ, do đó chẳng có vướng
mắc gì với những thứ bệnh hoạn Đông Âu, đã nhận ra điều này: khi chúng
tôi đi ra nước ngoài, tôi trải qua một sự thay đổi hoàn toàn nhân cách,
con người của tôi. Ở trong những xứ sở ngoại quốc, tôi cảm thấy [như
là] ở nhà của mình trong khi, ở nhà, tôi xử sự như một kẻ xa lạ.
Với những người ngoại quốc tôi xoay sở, nói năng, xử sự thoải mái,
nhưng, với những đồng bào của mình, tôi cảm thấy chẳng thoải mái một
chút nào, như muốn bịnh. Trong chế độ độc tài được gọi là xã hội chủ
nghĩa, tình trạng này là tự nhiên, bình thường, và nhiều hay ít, tôi
học sống với nó. Làm quen với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc chắc là mất
thì giờ nhiều hơn. Nhưng ít nhất, tôi bây giờ ngụp sâu tới tận đáy, của
một vấn đề, và không chỉ một mình tôi, tôi tin như vậy.
Trong cuộc sống hàng ngày của tôi, tôi thường xuyên [phải] đáp ứng với
những cú chích, giống như bị điện chích lên da, nhẹ thôi, từ thế giới
chung quanh. Nói theo kiểu ẩn dụ, tôi hoài hoài cào xước tôi. Tất cả
chúng ta đều quen thuộc với câu châm ngôn nổi tiếng của Montesquieu:
"Tôi là một con người trước, rồi sau đó, là một người Pháp." Những kẻ
phân biệt chủng tộc – bởi vì chủ nghĩa bài Do Thái, kể từ sau Lò Thiêu
Auschwitz, chẳng còn chỉ là bài Do Thái – muốn tôi là một Do Thái
trước, rồi sau đó, không còn là một con người nữa.
Thoạt kỳ thủy, do bối rối, lầm lẫn chúng ta mò mẫn, cố tìm cho ra những
luận cứ, lý lẽ này nọ nhằm bảo vệ mình, và chúng ta nhận ra rằng, chúng
ta nói năng, suy nghĩ về mình theo một đường lối nguyên thủy, sơ khai
nhất. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên: điều chúng ta chống còn ở trên cả sự
nguyên thủy, sơ khai. Nếu chúng ta bị đẩy vô một chuồng thú, chúng ta
phải chiến đấu như một con thú. Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng, ý
nghĩ tệ hại mà chúng ta chống lại đó, đã khiến chúng ta nghĩ về mình
theo một đường lối thấp hèn; chẳng mấy chốc, chuyện này xẩy ra: không
phải chúng ta nghĩ về mình, mà là nghĩ về một người nào đó. Nói một
cách ngắn gọn, tiến trình này vặn vẹo, làm biến dạng nhân cách của
chúng ta. Phương cách tự vệ đau thương nhất, và là tối hậu nhằm tránh
cho nhân cách bị biến dạng thì cũng thông thường, quen thuộc thôi: trực
diện với những tay ý thức hệ phi nhân, nạn nhân vô phúc, bất hạnh chỉ
còn mỗi một cách là cố bám riết lấy nhân cách của mình, cái gọi là chất
người của riêng mình. Trong cuộc "trấn lột" này, có một điều chi thật
cảm động, bi thương: bởi vì, điều mà mấy tên ý thức hệ phi nhân kia
muốn trấn lột, chính là nhân cách của nạn nhân. Nhưng một khi nạn nhân,
chính anh ta, chấp nhận những phạm trù mang tính phân biệt chủng tộc,
anh ta trở thành Do Thái, và như thế, anh ta càng cố chứng tỏ mình là
người bao nhiêu, anh ta càng trở nên đáng thương hại, và càng bớt đi
cái chất người bấy nhiêu. Trong môi trường phân biệt chủng tộc, Do Thái
không thể là người, và cũng không thể là Do Thái. Bởi vì "Do Thái" là
một chỉ định độc nhất, không thể hiểu sai đi, hoặc hiểu một cách hàm
hồ, của những kẻ bài Do Thái.
Một nhà văn Pháp, Edmond Jabès, đã có lần phát biểu, rằng, những nỗi
khốn khó ở đời của một Do Thái, thì cũng y chang những khốn khó ở đời
của một nhà văn. Không ai có thể diễn tả rõ ràng hơn Jabès, về hoàn
cảnh của tôi. Tuy nhiên, vẫn có một khác biệt quan trọng ở đây, theo
tôi. Chuyện trở thành một nhà văn của tôi là hậu quả của một quyết định
mang tính ý thức, còn chuyện là một Do Thái, thì do tôi sinh ra vốn đã
vậy. Để cho hai cái "tôi" – tôi nhà văn và tôi Do Thái – nhập vào nhau
làm một, tôi phải nhìn Do Thái tính của tôi theo cái cách mà tôi "làm
văn", nghĩa là có bài bản, có nhiệm vụ phải hoàn tất; một quyết định
nhằm viên mãn cái tôi, hoặc chối từ nó. Nếu tôi chọn một cuộc đời tràn
đầy, mọi chuyện lập tức trở thành có lợi cho tôi. Sau cùng sự kiện -
tôi là một Do Thái – là hậu quả của một quyết định: một khi chọn lựa
như thế, tôi chẳng những không rớt vào điều gọi là khủng hoảng căn cước
mà một nguồn ánh sáng sắc bén chiếu rọi lên toàn cuộc sống của tôi. Tuy
nhiên tôi còn phải đối diện với một vài vấn đề gây nên bởi cái bản chất
kỳ cục là Do Thái tính của mình.
Trước đây hai hoặc ba thập niên, tôi coi câu hỏi "tôi viết cho ai" là
một giả-vấn đề, không thích hợp, miễn bàn. Lẽ dĩ nhiên, tôi viết cho
chính tôi, tôi sẽ nói như vậy, và cơ bản mà nói, tôi vẫn giữ nguyên
thái độ đó. Nhưng bây giờ, tôi ngày càng thừa nhận, những người khác,
thế giới chung quanh tôi, những liên hệ chồng chéo, chằng chịt được gọi
là xã hội, cũng có một vai trò, trong việc sáng tạo ra thực thể có tên
là "chính tôi". Do đó, ít ra phần nào, tôi là tù nhân của những hoàn
cảnh của mình, và điều này, không nghi ngờ chi, đã để dấu ấn trên tất
cả những gì mà tôi sản xuất ra.
Nếu tôi nói, tôi là một nhà văn Do Thái, điều này có nghĩa: tôi không
nhất thiết muốn nói, rằng, chính tôi là Do Thái. Bởi vì, là Do Thái gì,
cái thứ người không có được một sự dậy dỗ tôn giáo, không nói được
tiếng Hebrew, chẳng thân quen gì lắm với những bản văn cơ bản của văn
hóa Do Thái, và không sống ở Israel mà là ở Âu Châu? Tuy nhiên, điều mà
tôi có thể nói về mình, tôi là một ký sự gia về những gì lỗi thời, về
những Do Thái đã hội nhập, một kẻ mang tin (a bearer) và một kẻ ghi
nhận hoàn cảnh lỗi thời đó, một kẻ báo hiệu về sự tận cùng không thể
tránh được của nó. Về mặt này, "the Endlosung" (giải pháp chót: tiêu
diệt người Do Thái) có một vai trò quyết định: không một ai có thể thực
sự được gọi là Do Thái, nếu căn cước của người đó chủ yếu - có lẽ phải
nói đặc biệt - dựa vào Lò Thiêu Auschwitz.
Anh ta là một "Do Thái không-Do Thái" của Isaac Deutscher, một tạp phẩm
Âu Châu mất rễ, một kẻ không thể nào phát triển những mối thân quen
bình thường một khi bị đè nặng dưới một hoàn cảnh Do Thái như thế. Anh
ta có một vai trò để thực hiện, có thể một vai trò quan trọng, trong
văn hóa Âu Châu (nếu vẫn còn có một văn hóa như vậy), nhưng anh ta
không thể tham dự, cho dù bất cứ vai trò nào, trong lịch sử Do Thái
hậu-Lò Thiêu, hay trong sự tái sinh của Do Thái (giả dụ như có, hoặc sẽ
có một sự sống lại như vậy).
Nhà văn của Lò Thiêu do đó ở trong một tình thế khó khăn. Trong một
tiểu luận trước đây, "A szám zott nyelv" (Tiếng nói lưu vong, The
exiled tongue), tôi cố gắng triển khai một tư tưởng, rằng Lò Thiêu
không có, và không thể có một ngôn ngữ của riêng nó. Kẻ sống sót ở Âu
Châu phải diễn tả những gì mà anh ta cần diễn tả bằng một trong những
ngôn ngữ của Âu Châu, nhưng ngôn ngữ này không phải của anh ta; cũng
không phải ngôn ngữ của xứ sở mà anh ta đã sử dụng để kể câu chuyện của
mình. "Tôi viết những cuốn sách của tôi bằng một ngôn ngữ vay mượn mà,
hoàn toàn tự nhiên, ngôn ngữ này sẽ tống xuất (expel), hoặc chỉ dung
thứ (tolerate) chúng, ở mép bờ miền ý thức của nó," tôi viết như vậy
trong bài tiểu luận; tôi nói "tự nhiên" (naturally), bởi vì xứ sở mà
tôi mượn ngôn ngữ của nó để sử dụng, đã phát triển những huyền thoại,
trong cuộc chiến đấu để sống còn của nó, kéo dài nhiều thế kỷ, và những
huyền thoại này, là một phần của cái gọi là sự đồng thuận (consensus)
ngầm (unspoken) của quốc gia, chúng đã ảnh hưởng tới nền văn học của nó.
Tôi thích viết bằng tiếng Hungary bởi vì, bằng cách này, tôi dễ dàng
nhập vào với nỗi ưu tư, về sự bất khả của cái gọi là "viết". Trong một
lá thư viết cho Max Brod, trong đó suy ngẫm về hoàn cảnh của nhà văn Do
Thái, Kafka nói tới ba bất khả: không thể không viết, không thể không
viết bằng tiếng Đức, và không thể viết bằng bất cứ phương tiện nào
khác. Và rồi ông nói: "Chúng ta hầu như có thể thêm vào đó, một bất khả
thứ tư: không thể viết (it’s impossible to write)." Vào những ngày này,
ông có thể thêm một điều gì đó vào danh sách trên: không thể viết về Lò
Thiêu. Chúng ta có thể tiếp tục kéo dài những không thể ngược ngạo đó
cho tới vô cùng. Chúng ta có thể nói, rằng không thể không viết về Lò
Thiêu, không thể viết về nó bằng tiếng Đức, và hoàn toàn không thể viết
về nó, bằng bất cứ một phương tiện nào khác.
Cho dù ở đâu, cho dù viết bằng ngôn ngữ nào, nhà văn của Lò Thiêu vẫn
chỉ là một cô hồn phiêu bạt, tìm nơi nương náu, ở nơi nao, nếu không là
ở trong tiếng nước người. Nếu thực, là, câu hỏi mang tính triết học
thực sự, độc nhất: tự tử [Suy nghĩ xem cuộc đời có đáng sống hay không,
là trả lời câu hỏi độc nhất, thực sự, của triết học. Camus], nếu như
vậy, thì nhà văn của Lò Thiêu, kẻ chọn lựa tiếp tục sống, hắn ta chỉ
biết có một vấn đề là thực: đó là vấn dề thiên di, dời đổi chỗ ở của
mình (migration), hoặc nói chuyên (proper) đi một chút, lưu vong. Lưu
vong khỏi nhà thực của mình, vốn chẳng hề hiện hữu. Bởi vì nếu có nhà
thực, thì làm sao lại có chuyện viết về Lò Thiêu? Và nếu nói như vậy,
thì rõ ràng là Lò Thiêu rồi sẽ có một ngôn ngữ, và nhà văn của Lò Thiêu
có thể hội nhập vào trong một văn hóa đang hiện hữu.
Nhưng chẳng bao giờ có chuyện này. Mỗi ngôn ngữ, quốc gia, văn minh có
một Cái Tôi thống trị. Cái Tôi thống trị này cảm nhận, kiểm soát và
diễn tả thế giới. Cái Tôi luôn luôn hoạt động, mang tính tập thể này là
yếu tính, nhờ nó mà bất cứ dân chúng, quốc gia, cộng đồng lớn lao hay
văn hóa, tùy theo mức độ thành công nhiều ít, có thể nhận ra họ là họ.
Nhưng cảm thức về Lò Thiêu (the consciousness of Holocaust), liệu nó có
thể tìm ra nhà, và nhà của nó ở đâu? Ngôn ngữ nào có thể vỗ ngực xưng
tên, rằng, nó bao gồm trong nó cái gọi là yếu tính, Cái Tôi thống trị,
ngôn ngữ của Lò Thiêu? Và nếu chúng ta nêu lên câu hỏi – Cầu Trời đừng
có câu hỏi nào tiếp theo – liệu có thể chấp nhận, rằng, Lò Thiêu có
ngôn ngữ đặc biệt của riêng nó? Và nếu câu trả lời là cho câu hỏi này
là "Có", liệu ngôn ngữ đó không bắt buộc phải kinh khiếp tởm lợm đến
nỗi hủy diệt những ai sử dụng nó?
Có lẽ sẽ chỉ đúng, điều này, rằng lưu vong Lò Thiêu sẽ chấp nhận biệt
xứ, qua đó, nó lâu lâu, thỉnh thoảng có thể đưa ra những báo cáo này
nọ. Phải vậy thôi, đặc biệt là tại vùng đông và trung Âu Châu, nơi, như
một hậu quả của hai cuộc thế chiến và của Lò Thiêu nói riêng, một ngôn
ngữ liên – và siêu quốc gia, tiếng Đức, đã biến mất, thứ ngôn ngữ đã có
thời được nói lên, từ Bukovina đến Cracow, từ Prague đến Fiume – thứ
ngôn ngữ mà bằng nó, những nhà văn - vốn không thể và không muốn tìm
thấy một nơi chốn ở trong một văn học quốc gia – đã tìm được sự tự do
diễn đạt của họ.
Những nền văn học quốc gia này tỏ ra chẳng mong muốn chi nhiều, ở cái
chuyện ôm lấy bài học mang tính trừng phạt là Lò Thiêu, trong khi bài
học này, tự thân, mặc dù theo một đường hướng rất khác biệt, cũng là
một phần của cái gọi là cảm thức tập thể của chúng. Nhưng – ngoại trừ
những khuôn mặt công cộng công khai ăn nằm với chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc – thật nguy hại khi trách cứ bất cứ ai về chuyện này, và lại
càng thật nguy hại, nếu nói về một chủ nghĩa bài Do Thái "được bú cùng
sữa mẹ" ("absorbed with mother’s milk"). Thu nhận chủ nghĩa bài Do Thái
là một di sản nặng nề, nhưng rõ ràng một điều: nó không có tính di
truyền theo huyết thống; những nguyên nhân của nó có tính lịch sử và
tâm lý một cách thật là riêng biệt. Những quốc gia này đã chịu đựng
những vết thương lớn liên quan tới phẩm giá quốc gia, và đã chiến đấu
trong nhiều năm để có được sự hiện hữu triệt để: như là những quốc gia.
Hỡi ơi, bằng một đường hướng rất ư đặc trưng, nhưng rõ ràng không phải
chỉ một mình họ, trong cuộc chiến đấu để trở thành những quốc gia như
thế, họ đã khám phá ra chủ nghĩa bài Do Thái, như là một thứ võ khí
tiện dụng.
Nhà văn Oscar Wilde, trong một thế kỷ 19 vẫn còn ngây thơ vô tội, bị bỏ
tù vì giải thích sự tự do mình là mình một cách quá tự do, đã viết
trong một trong những tiểu luận của ông, "Mấy từ ‘Hãy Biết Mình’ đã
được viết ở cổng ra vào của thế giới cổ. Trên cái cổng ra vào của thế
giới mới, mấy từ ‘Hãy Là Mình’ sẽ được viết lên".
Những kinh nghiệm của chúng ta, những con mắt ngờ ngờ của chúng ta, bảo
cho chúng ta hàng ngày, rằng cái gọi là "thế giới mới" đó càng ngày
càng làm cho chuyện "viết lên cổng" kia, là bất khả. Tuy nhiên, chúng
ta không thể nhắm hơn được điều mà Nietzsche đã làm, khi để cả một
chương, trong cuốn sách lớn lao của ông, Ecce Homo, để nói về điều này:
hãy trở nên cái mà chúng ta là, hãy đi theo định mệnh của chúng ta, và
hãy rút ra từ đó, những kết luận thích hợp, cho dù cay đắng tới cỡ nào.
Có thể xẩy ra, là con đường dẫn tới tự do mình là mình chẳng dẫn tới
đâu. Bởi vì với một nhà văn, ngôn ngữ, thứ anh ta viết, luôn luôn là
một đặc ưu; thật khó mà thừa nhận rằng, trong chừng mực mà anh ta còn
quan tâm, ngôn ngữ nào thì cũng như ngôn ngữ nào, và chẳng có ngôn ngữ
nào là của anh ta.
Trên thực tế, tôi thuộc về thứ văn học Do Thái tới từ vùng đông và
trung Âu Châu. Thứ văn học này chẳng bao giờ được viết bằng ngôn ngữ
thuộc về môi trường quốc gia tức thời, ngay đó, và cũng chẳng bao giờ
là một phần của văn học quốc gia. Chúng ta có thể lần ra dấu vết sự
phát triển của văn học này từ Kafka tới Celan và tới những người kế
thừa của họ – tất cả những gì chúng ta phải làm là nghiên cứu những nền
văn học di dân khác nhau. Phần lớn, văn học này bàn tới vấn đề tiêu
diệt Do Thái ở Âu Châu; ngôn ngữ của nó có thể thay đổi, nhưng cho dù
ngôn ngữ nào, nó chẳng bao giờ được coi là một tiếng nói mẹ đẻ. Ngôn
ngữ mà chúng ta nói, nó sẽ sống chừng nào chúng ta còn nói nó. Một khi
chúng ta sa vào câm lặng, ngôn ngữ này cũng mất theo – ngoại trừ một
trong những ngôn ngữ lớn hơn, sót thương nó, bồng nó lên lòng, như đã
từng xẩy ra, như trong những bức tượng Mẹ ôm xác Con vào lòng.
Ngày nay, tiếng Đức đúng là thứ tiếng đã làm điều trên. Nhưng, tiếng
Đức cũng chỉ là nơi tạm náu qua đêm cho kẻ không nhà. Cũng tốt thôi,
khi biết được điều này, cũng tốt thôi, khi làm hòa với một hiểu biết
như thế đó, và thuộc trong số những người chẳng thuộc về nơi nào. Cũng
tốt thôi, một kiếp người.
(The Guardian , Saturday October 19, 2002)
NQT dịch