Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
CHUYỂN NGỮ
|
Kertesz
Diễn
văn Nobel 2002
Ơrakìa!
Tôi
phải bắt đầu bằng một lời tự bạch, một lời tự bạch có lẽ
lạ lẫm, nhưng trong trắng. Từ lúc tôi bước lên máy bay để làm chuyến du
hành
tới đây và nhận giải thưởng Nobel về văn học năm nay, tôi vẫn cảm thấy
cái nhìn
đăm đăm dò tìm của một kẻ quan sát vô tư sau lưng. Ngay cả ở khoảnh
khắc đặc
biệt này, khi tôi thấy mình là trung tâm của sự chú í, tôi vẫn cảm thấy
gần gũi
với kẻ quan sát lạnh tỉnh và chính trực này, hơn là với nhà văn mà tác
phẩm đột
nhiên được đọc khắp vòng thế giới. Tôi chỉ có thể hi vọng là bài nói
chuyện mà
tôi có cái danh dự phát biểu trong cơ hội này sẽ giúp tôi hoá giải tính
lưỡng
nguyên và hoà hợp hai bản ngã trong tôi.
Tuy nhiên lúc này tôi vẫn còn khó hiểu cái sai nghi mà tôi
cảm thấy giữa cái danh dự cao cả kia với đời tôi và tác phẩm. Có lẽ tôi
đã sống
quá lâu dưới những chế độ độc tài, trong một cảnh quan trí tuệ thù
nghịch liên
lỉ khác lạ để có thể phát triển một í thức văn học cách biệt; ngay cả
việc suy
ngẫm một điều như thế hẳn cũng đã là vô ích. Thêm nữa, tất cả những gì
tôi nghe
được từ mọi phía, là rằng: những gì tôi quá chú tâm, cái "đề tài"
hằng chiếm lấy tôi vừa chẳng hợp thời vừa chẳng hấp dẫn cho lắm. Vì lí
do này,
và cũng bởi tôi run rủi lại tin nó, nên tôi luôn coi việc viết lách là
một
chuyện riêng tư thiết thân cao độ.
Không
hẳn là chuyện như thế nhất thiết loại trừ trước sự
nghiêm túc – dù cho sự nghiêm túc này có vẻ phần nào hoạt kê trong một
thế giới
mà chỉ những dối trá mới được coi là nghiêm túc. Ở đây, í niệm rằng thế
giới là
một thực tại khách quan hiện hữu độc lập với chúng ta, một thời đã từng
là một
chân lí triết học mang tính định đề. Trong khi đó tôi, vào một ngày
xuân đáng
iêu năm 1955, đột nhiên nhận thức ra rằng chỉ hiện hữu một thực tại duy
nhất,
và đó là tôi, đời riêng của tôi, món quà tặng mong manh được ban cho
trong một
khoảng thời gian bất định mà nó đã bị tóm, bị truất hữu bởi những sức
mạnh khác
lạ, bị đánh dấu, bị đóng ấn và là cái tôi phải giật lại khỏi tay "Lịch
sử", con quái thú đáng ghê sợ là Moloch thần lửa kia; bởi vì nó là của
tôi, và của riêng tôi, và tôi phải chăm sóc nó thoả đáng.
Không
cần phải nói, tất cả những điều này xoay chuyển làm tôi
dứt khoát chống lại mọi thứ trong cái thế giới đó – dẫu chẳng khách
quan, vẫn
là một thực tại không thể chối cãi. Tôi đang nói về nước Hungary Cộng
sản, nói
về cái Chủ nghĩa Xã hội "hứa hẹn một ngày mai tươi sáng". Nếu thế
giới là một thực tại khách quan hiện hữu độc lập với chúng ta, vậy thì
chính
những con người, ngay cả trong mắt mình, cũng chẳng là gì khác hơn
những khách
thể, và chuyện đời của họ chỉ thuần là một chuỗi những tình cờ lịch sử
rời rạc
mà họ có thể ngạc nhiên trước chúng, nhưng chính họ chẳng can cớ gì. Sẽ
không
có nghĩa lí gì trong việc bài bố những mảnh mún kia thành một chỉnh thể
nhất
trí, bởi phần nào của nó có thể quá đỗi khách quan đối với Bản ngã chủ
thể để
chịu trách nhiệm về nó.
Một
năm sau, vào năm 1956, cuộc Cách mạng Hungary bùng ra.
Trong một khoảnh khắc đơn côi, xứ sở này chuyển thành chủ thể. Tuy
nhiên chẳng
bao lâu, thiết giáp Sô viết đã phục hồi tính khách quan.
Tôi không chủ í giễu cợt đâu. Hãy xem những gì đã xẩy ra cho
ngôn ngữ trong thế kỷ 20, lời lẽ đã hoá ra làm sao. Tôi dám nói rằng
khám phá
đầu tiên và sững sờ nhất mà những nhà văn trong thời chúng ta tìm ra,
là ngôn
ngữ, trong dạng thức truyền lại cho chúng ta, di sản của một nền văn
hoá nguyên
sơ nào đó, đơn giản đã trở thành không thích nghi để chuyên chở những
khái niệm
và tiến trình đã từng không hàm hồ và có mang thực tính. Hãy nghĩ đến
Kafka,
hãy nghĩ đến Orwell, trong tay họ ngôn ngữ xưa cũ đơn giản đã tan rã,
như thể
họ đã quay nó vòng vòng trong ngọn lửa ngoài trời, chỉ để rồi sau phô
ra những
tàn tro của nó, trong đó những dạng thức mới và trước chưa từng được
biết, vụt
hiện xuất.
Nhưng
tôi muốn quay về cái đối với tôi là riêng tư một cách
nghiêm nhặt – việc viết. Có một vài câu hỏi, mà một kẻ trong tình huống
của tôi
còn không đặt ra nữa. Jean-Paul Sartre, chẳng hạn, dành trọn một cuốn
sách nhỏ
cho vấn đề: chúng ta viết cho ai? Đó là một câu hỏi lí thú, nhưng nó
cũng có
thể nguy hiểm, và tôi tạ ơn những vì sao chiếu mạng may mắn của tôi là
tôi đã
không hề từng phải xoay sở với nó. Chúng ta hãy xem cái nguy hiểm đó
gồm những
gì. Nếu một nhà văn phải chọn một giai cấp xã hội hoặc một tập thể mình
thích,
không chỉ để giúp vui, mà còn để ảnh hưởng, nhà văn đó trước tiên phải
xem xét
phong cách của mình có là phương tiện thích hợp để thi triển ảnh hưởng
hay
không. Người đó chẳng bao lâu sẽ bị những hồ nghi công hãm, và tiêu phí
thời
gian để canh chừng mình. Làm sao người đó biết rằng độc giả của mình
muốn gì,
rằng họ thực sự ra sao? Người đó không thể khéo hỏi từng người và mọi
người. Và
dù cho có làm được đi chăng nữa, cũng chẳng hay gì. Người đó tất đành
phải dựa
vào hình ảnh của mình, về những độc giả ắt có, những trông mong mà mình
gán cho
họ, và tưởng tượng ảnh hưởng mà mình muốn đạt được, sẽ tác động ra sao
trên
chính mình. Vậy thì một nhà văn viết cho cho ai? Câu trả lời là hiển
nhiên: nhà
văn viết cho chính mình.
Ít
nhất tôi có thể nói rằng tôi đã tới với câu trả lời này
một cách khá thẳng băng. Phải nhận là việc này đối với tôi dễ hơn – tôi
đã
không có độc giả và không hề muốn ảnh hưởng một ai. Tôi đã không khởi
đầu viết
vì một lí do đặc thù nào và những gì tôi đã viết không gửi đến một ai.
Nếu tôi
từng có một mục đích nào, thì ấy là trung thực, trong ngôn ngữ và hình
thức,
với chủ đề cận kề, và không có gì thêm nữa. Cần phải làm sáng tỏ điều
này trong
suốt cái thời kì cục và buồn bã khi văn học bị nhà nước kiểm soát và
"dấn
thân".
Khó
hơn để trả lời một câu hỏi khác, hoàn toàn chính đáng
tuy còn đáng ngờ vực hơn: tại sao chúng ta viết? Ở đây nữa tôi cũng may
mắn vì
chưa hề xẩy ra với tôi, là khi đến câu hỏi này, người ta còn có một
chọn lựa.
Tôi đã mô tả một sự kiện liên quan trong cuốn tiểu thuyết Thảm bại. Tôi
đang
đứng ở một hành lang trống vắng trong một toà công sở, và mọi chuyện
xẩy ra chỉ
là từ hướng một hành lang khác cắt ngang, tôi nghe thấy tiếng những
bước chân
vang. Một kích động kì lạ chiếm ngự tôi. Âm thanh càng lúc càng lớn, và
mặc dù
rõ là bước chân của một người đơn độc không nhìn thấy, tôi chợt có cảm
tưởng
mình đang nghe tiếng bước chân của ngàn ngàn lớp lớp người. Như thể có
một cuộc
diễn hành khổng lồ đang dồn dập dọc hành lang đó tới. Và ngay thời điểm
đó tôi
chợt cảm nhận sự thu hút không thể đề kháng của những tiếng chân bước
kia, của
cái đám đông diễu hành kia. Trong một khoảnh khắc riêng lẻ tôi hiểu ra
sự say
đắm của việc buông thả bản ngã, nỗi hoan lạc ma túy của việc tan hoà
vào đám
đông – cái mà Nietzsche gọi, trong một khung cảnh khác, tuy vẫn liên
quan đến
khoảnh khắc này, là một kinh nghiệm cuồng say Dionysius. Lúc ấy gần như
thể có
một sức mạnh vật lí nào thúc đẩy tôi, lôi cuốn tôi về phía những chuỗi
người
diễu hành không nhìn thấy được. Tôi cảm thấy mình phải dằn lại và dựa
vào
tường, để kìm giữ tôi khỏi buông xuôi theo cái sức mạnh nam châm, cám
dỗ đó.
Tôi
đã kể lại khoảnh khắc căng thẳng đó như thể tôi đã kinh
qua nó. Nguồn gốc từ đó nó vọt ra, như một thị kiến, dường như ở một
nơi nào đó
bên ngoài tôi, không phải trong tôi. Mọi nghệ sĩ đều quen thuộc với
những
khoảnh khắc như thế. Có một thời chúng được gọi là những thần hứng hốt
nhiên.
Tuy nhiên, tôi không ưng xếp loại kinh nghiệm ấy như một mặc khải nghệ
thuật,
mà đúng hơn như một khám phá tự thân về hiện hữu. Điều tôi thu được nhờ
nó
không phải là nghệ thuật của tôi – tay nghề thân thuộc mình chỉ có sau
một thời
gian – mà là đời sống của tôi, cái mà tôi hầu như đã đánh mất. Kinh
nghiệm đó
là về nỗi cô đơn, một đời sống khó khăn hơn, và những điều tôi đã đề
cập – sự
cần thiết bước ra khỏi đám đông làm huyễn hoặc ta, ra khỏi Lịch sử, cái
làm cho
bạn không có diện mạo, không có định mệnh. Thật kinh hoàng, tôi í thức
được
rằng, mười năm sau khi trở về từ những trại tập trung của Quốc xã, và
vẫn còn giữa
đường chịu bùa mê thảng thốt của sự khủng bố theo chủ nghĩa Stalin, tất
cả
những gì còn lại của toàn bộ kinh nghiệm chỉ là vài ấn tượng rối rắm,
vài mẩu
chuyện vặt. Cứ như thể nó không hề xẩy ra cho chính tôi, như người ta
thường
nói.
Rõ
ràng là những khoảnh khắc thị kiến như thế có một tiền sử
lâu dài. Sigmund Freud hẳn sẽ noi dấu chúng để tới một kinh nghiệm
thương đau
bị ức chế. Và rất có thể ông ta đúng. Về phần tôi, tôi cũng nghiêng về
lối xúc
tiến duy lí; chủ nghĩa huyền bí và sự rạo rực xuất thần không luận giải
thuộc
đủ mọi loại là xa khác với tôi. Vậy nên khi tôi nói về một thị kiến,
tôi ắt
phải muốn chỉ một cái gì có thực, nó mang một lớp vỏ siêu nhiên – sự
phun ra
thình lình, gần như đổi đời, của một tư tưởng dần dà chín mùi bên trong
tôi. Một
cái gì chuyên chở trong tiếng kêu xưa "Euraka!" [Tôi đã tìm
thấy!"] – Ơrakìa! Nhưng cái gì chứ?
Có
lần tôi nói rằng, cái gọi là Chủ nghĩa Xã hội đối với tôi
là chiếc bánh ngọt madeleine nhỏ xíu của Marcel Proust mà khi nhúng vào
chén
trà đã gợi cho ông hương vị của bao năm tháng đã trôi đi mất, Vì những
lí do
liên hệ với ngôn ngữ mà tôi nói, tôi quyết định sau sự đàn áp cuộc nổi
dậy năm
1956, là ở lại Hungary. Như thế, tôi có thể quan sát, lần này không
phải như
một đứa trẻ mà như một người lớn, cái cung cách vận hành của một chế độ
độc
tài. Tôi đã thấy cách làm sao toàn thể một quốc gia có thể bị làm cho
phải phủ
nhận những lí tưởng của nó, và tôi ngắm kĩ những tiến hành ban sơ, thận
trọng
để đi đến sự điều giải. Tôi đã hiểu rằng, hi vọng là một công cụ của
cái ác, và
mệnh lệnh chí thượng trong triết học Kant ["Hãy hành động sao cho bạn
có
thể muốn châm ngôn về hành động của mình là một đạo luật đại đồng"] –
đạo
đức học nói chung – chỉ là đứa thị tì dễ uốn nắn của sự bảo tồn tự thân.
Ai
có thể tưởng tượng ra sự tự do nào lớn hơn cái tự do được
hưởng của một nhà văn trong một nền độc tài tương đối hạn chế, khá mệt
mỏi, và
còn suy đồi nữa? Vào thập niên 1960, chế độ độc tài ở Hungary đã đạt
đến một
tình trạng củng cố gần như có thể gọi là một sự đồng thuận xã hội.
Phương Tây
sau này, bằng sự tự chế dễ dãi, gọi đùa nó là "Chủ nghĩa Cộng sản
goulash" [goulash là món thịt hầm với rau, thật cay, đặc sản của
Hungary].
Dường như thể, sau sự bất tán đồng tiên khởi của nước ngoài, chế bản
riêng của
Hungary mau chóng trở thành nhãn hiệu của Chủ nghĩa Cộng sản được
phương Tây ưa
chuộng nhất. Trong những chiều sâu bùn lầy của sự đồng thuận này, người
ta hoặc
bỏ rơi sự tranh đấu, hoặc tìm ra những lối ngoằn ngoèo của tự do nội
tâm. Chi
phí phủ đầu cho một nhà văn rốt cuộc rất thấp; để hành nghề, i chỉ cần
có giấy
và bút chì. Sự buồn nôn và u uất chạm mặt mỗi sáng thức dậy dẫn tôi
ngay lập
tức vào cái thế giới tôi định mô tả. Tôi đã phải khám phá ra rằng, tôi
đã đặt
một người đàn ông quằn quại dưới luận lí của một loại chủ nghĩa toàn
trị trong
một hệ thống toàn trị khác; và điều này chuyển ngôn ngữ cuốn tiểu
thuyết của
tôi thành một phương tiện ám thị cao độ.
Nếu
tôi bây giờ quay lại nhìn và ngay thẳng lượng độ tình
huống tôi đang ở lúc đó, thì tôi phải kết luận rằng ở phương Tây trong
một xã
hội tự do, có lẽ tôi đã không thể viết ra cuốn tiểu thuyết được độc giả
ngày
nay biết dưới tên Vô mệnh, cuốn tiểu thuyết được Hàn lâm viện Thụy điển
nêu
riêng cho danh dự cao quý nhất.
Không, ắt hẳn tôi đã phải nhắm một cái gì khác. Điều
đó
không phải là bảo rằng tôi ắt không cố đạt tới sự thật, nhưng có lẽ tới
một thứ
sự thật khác. Trong thị trường tự do về sách và tư tưởng, về phần tôi
chắc cũng
có thể đã muốn sản xuất một cuốn tiểu thuyết huê dạng hơn. Chẳng hạn,
tôi có
thể đã cố phá vỡ thời gian trong cuốn tiểu thuyết của tôi, và chỉ tường
thuật
những cảnh gây ấn tượng nhất. Nhưng nhân vật chính trong cuốn tiểu
thuyết của
tôi không được sống thời gian của y trong những trại tập trung, bởi cả
thời
gian lẫn ngôn ngữ của i, và ngay cả chính con người của i, cũng đều
không phải
thực sự của i. I không nhớ; i tồn tại. Vậy nên i phải mỏi mòn, tội
nghiệp cậu
bé, trong cái bẫy rập thê lương của tuyến tính, và không thể rũ bỏ
những chi
tiết đau đớn. Thay vì một chuỗi huy hoàng, những khoảnh khắc vĩ đại và
bi đát,
i phải sống trải qua tất cả, vừa ức uất vừa đơn điệu, giống như chính
cuộc đời.
Nhưng
phương pháp ấy dẫn tới những trực giác xuất sắc. Tuyến
tính đòi hỏi rằng, mỗi tình huống nảy sinh phải được hoàn toàn trám
đầy. Nó
không cho phép tôi, nói giả dụ, hào sảng lướt qua hai mươi phút thời
gian, nếu
chỉ vì hai mươi phút ấy có ở kia đằng trước tôi như một lỗ đen hả
miệng, kinh
hoàng, như một mồ chôn tập thể. Tôi đang nói về hai mươi phút trải qua
trên sàn
tiếp nhận của trại tiêu diệt Birkenau, là thời gian để người ta ì ạch
xuống xe
lửa và tới chỗ sĩ quan tuyển lựa. Tôi đã nhớ là hai mươi phút đâu đó,
nhưng
cuốn tiểu thuyết đã đòi hỏi tôi nay phải không cả tin vào kí ức của
mình. Bất
kể số kí thuật, hồi tưởng, và tự bạch của bao nhiêu người sống sót mà
tôi đã
đọc, họ đều đồng í rằng mọi sự tiến hành quá sức mau lẹ, và không thể
chú tâm.
Những cửa các toa xe lửa mở bung, họ nghe thấy những tiếng la hét,
tiếng chó
sủa, đàn ông và đàn bà đột ngột bị tách riêng, và giữa cảnh bát nháo họ
thấy mình
ngay trước mặt một sĩ quan. Hắn liếc nhìn sơ họ, giơ tay duỗi thẳng chỉ
một cái
gì, và trước khi họ biết ra, thì đã mang trên mình quần áo tù.
Tôi
nhớ hai mươi phút ấy có khác. Quay về những nguồn tin
chân thực, tôi trước hết đọc những tự thuật trần trụi, không khoan
nhượng và tự
thân khắc khoải của Tadeusz Borowski trong đó có truyện ngắn mang tên
"Yêu
cầu Quý bà và Quý ông vào Lò". Sau, tôi gặp một chuỗi những ảnh chụp về
hàng hoá con người tới sàn ga xe lửa Birkenau – những ảnh do một Cấm vệ
quân Quốc
xã SS chụp và được lính Mĩ tìm thấy trong đồn cũ của SS ở trại Dachau
đã được
giải phóng. Tôi nhìn những hình này ngạc nhiên tột độ. Tôi thấy những
đàn bà
đáng yêu, mỉm cười, và những người đàn ông trẻ mắt sáng, tất cả đều có
thiện í,
hăng hái cộng tác. Bây giờ tôi hiểu rồi, là hai mươi phút tủi nhục kia,
gồm vô
dụng và bất lực, đã nhạt nhoà khỏi kí ức họ. Và khi tôi nghĩ điều này
cứ thế
lập lại hàng bao nhiêu ngày, bao nhiêu tuần, bao nhiêu tháng, và bao
nhiêu năm
tiếp diễn, tôi có được một trực giác thấu suốt vào cái cơ chế của kinh
hoàng;
tôi học được cung cách người ta khả dĩ xoay ngược nhân tính chống lại
đời sống
của chính mình.
Cứ
như vậy tôi tiến hành, từng bước lại từng bước, trên con
đường tuyến tính của khám phá, đó là phương pháp khải phát (heuristic
method)
của tôi, nói vô phép quý vị. Chẳng mấy lúc tôi sớm nhận thức rằng, tôi
chẳng
mảy may nào quan tâm đến việc tôi viết cho ai, và tại sao. Một câu hỏi
làm tôi
quan tâm: Tôi còn dính líu gì tới văn học? Bởi đã rõ với tôi rằng có
một con đường
không thể băng qua, cách biệt tôi khỏi văn học và những lí tưởng, tinh
thần,
liên kết với í niệm về văn học. Tên của con đường phân ranh này, cũng
như của
nhiều điều khác, là Auschwitz. Khi chúng ta viết về Auschwitz, chúng ta
phải
biết rằng Auschwitz, ít nhất trong một í nhất định, đã treo cổ văn học.
Người
ta chỉ có thể viết một tiểu thuyết đen về Auschwitz, hoặc – xin quý vị
thứ lỗi
cho cách dùng từ – một pho tiểu thuyết trường giang rẻ tiền khởi đầu ở
Auschwitz và còn chưa chấm dứt. Nói như thế tôi muốn tỏ ra rằng không
có điều
gì xẩy ra từ sau Auschwitz, đã có thể lật ngược hoặc phản bác
Auschwitz. Trong
những văn bản của tôi, vụ Tế thiêu [Holocaust] không bao giờ có thể
hiện diện ở
thời quá khứ.
Người
ta thường nói về tôi – có người nhắm như lời khen, có
người khác như lời trách – rằng tôi viết về một đề tài riêng lẻ: vụ Tế
thiêu.
Tôi không tranh luận gì với điều đó. Tại sao tôi lại không đành chấp
nhận, với
một số điều kiện bảo lưu, vị trí phân phối cho tôi trên những giá sách
của các
thư viện? Có nhà văn nào ngày nay không phải là nhà văn của Tế thiêu?
Một người
không cần phải chọn Tế thiêu như chủ đề của mình mới phát giác ra được
cái
giọng đứt ruột, nó đã ngự trị nghệ thuật châu Âu hiện đại hàng mấy chục
năm
nay. Tôi sẽ dấn bước thêm để nói rằng tôi không hề biết có một tác phẩm
nghệ
thuật chân chính nào lại không phản ánh sự đứt đoạn này. Nó như thể,
sau một
đêm trường ác mộng, người ta nhìn quanh thế giới, bại liệt, bất lực.
Tôi không
hề bao giờ cố xem mối phức hợp các vấn đề được quy chiếu như vụ Tế
thiêu lại
chỉ thuần là sự tranh chấp không thể giải kết giữa người Đức và người
Do thái.
Tôi không hề tin rằng nó là chương gần nhất của lịch sử đau khổ Do
thái, vốn
tiếp tục một cách luận lí sau những thử thách và khổ nạn sớm hơn của
họ. Tôi
không hề coi nó như một lệch lạc nhất thời, một đồ sát đại quy mô, một
điều
kiện tiên quyết cho việc hình thành đất nước Israel.Cái tôi khám phá ra
ở
Auschwitz là thân phận con người, chung điểm của một cuộc phiêu lưu vĩ
đại, nơi
kẻ lữ hành châu Âu đạt tới sau hai ngàn năm lịch sử đạo đức và văn hoá.
Bây
giờ điều duy nhất để suy tư là từ đây chúng ta sẽ đi
đâu? Vấn đề của Auschwitz không phải là có nên hay chăng vạch xoá sổ
kết thúc
nó, như thể thế đó; nên hay chăng bảo tồn kí ức về nó, hoặc gác nó vào
ngăn ô
trữ liệu thích hợp của lịch sử; nên hay chăng dựng tượng đài kỉ niệm
cho bao
triệu người bị tàn sát, và nếu thế thì loại tượng đài nào. Vấn đề đích
thực của
Auschwitz chính là nó đã xảy ra, và điều này không thể bị biến cải – dù
với í
chí tốt đẹp nhất hoặc tồi tệ nhất – trên thế giới. Tình huống trầm
trọng nhất
này đã được nhà thơ Thiên chúa giáo Hungary là János Pilinszky lột tả
chính xác
nhất khi ông gọi nó là một vụ "ô nhục". Điều ông muốn nói, rõ ràng là
rằng, Auschwitz xẩy ra trong một cảnh quan văn hoá Kitô giáo, vậy nên
với những
ai có một chiều hướng tinh thần siêu hình thì nó là một vết thương nhức
nhối
không bao giờ có thể bị vượt qua.
Những
lời tiên tri xưa nói về cái chết của Thượng Đế. Từ
Auschwitz chúng ta cô đơn hơn, chừng đó là chắc chắn. Chúng ta phải tự
mình
sáng tạo ra những giá trị của chúng ta, ngày lại ngày, với cái đạo hạnh
kiên
trì tuy vô hình vốn sẽ ban sự sống cho các giá trị kia, và có lẽ chuyển
những
giá trị đó thành nền tảng của một văn hóa châu Âu mới. Tôi coi giải
thưởng mà
Hàn lâm viện Thụy điển đã thấy là thích đáng để vinh danh tác phẩm của
tôi như
một chỉ dấu rằng châu Âu lại cần cái kinh nghiệm mà những nhân chứng
cho
Auschwitz, cho vụ Tế thiêu bị cưỡng bách phải thủ đắc. Quyết định này –
xin cho
phép tôi nói điều này – làm chứng cho sự can đảm, ngay cả sự quyết tâm
vững
chãi của những người thực hiện nó, mong muốn tôi đến đây, dù họ dễ dàng
phỏng
đoán ra sẽ nghe tôi nói những gì. Cái đã được phơi mở trong Giải pháp
Tối hậu,
trong "vũ trụ tập trung" (l’univers concentrationaire) không thể bị
hiểu sai, và con đường duy nhất có thể sống còn, và bảo tồn sức mạnh
sáng tạo,
là nếu chúng ta thừa nhận điểm số không, tức là Auschwitz. Tại sao sự
sáng suốt
của thị kiến này lại không mang tới kết quả được nhỉ? Ở chót đáy của
mọi thực
hiện vĩ đại, dù chúng nảy sinh từ những bi kịch không thể so bì, vẫn
còn nằm đó
cái giá trị châu Âu vĩ đại hơn hết cả, là sự mong mỏi tự do, nó làm
sung mãn
đời sống chúng ta, với một giá trị thặng dư, một sự phong phú, làm
chúng ta
nhận thức được sự kiện tích cực của cuộc hiện hữu của chúng ta, và cái
trách
nhiệm tất cả chúng ta đều mang vì nó.
Được
phát biểu những í nghĩ này bằng ngôn ngữ quê hương của
tôi, tiếng Hungary, làm tôi đặc biệt hạnh phúc. Tôi sinh ra ở Budapest
trong
một gia đình Do thái mà nhánh bên mẹ vẫy gọi từ thành phố Kolozsvár
(Cluj)
thuộc miền Transylvania, và nhánh bên cha từ mạn Tây Nam của vùng Hồ
Balaton.
Các ông bà tôi thuở sinh tiền vẫn còn thắp nến chào đón ngày Sabbath
mỗi tối thứ
Sáu, nhưng họ đã đổi tên cho có âm hưởng tiếng Hungary, và với họ thật
tự nhiên
xem đạo Do thái là tín ngưỡng và Hungary là quê nhà. Ông bà ngoại tôi
tử nạn
trong Tế thiêu, còn đời sống của ông bà nội tôi thì bị huỷ diệt vì chế
độ Cộng
sản của Mátyás Rákosi, khi nhà dưỡng lão Do thái của Budapest bị dời
đến biên
giới phía bắc của xứ sở này. Tôi nghĩ tiểu sử gia đình vắn tắt này gói
trọn và
tương trưng cho những quằn quại hiện đại của xứ sở này. Bài học nó dậy
tôi, tuy
nhiên, là không chỉ có chua cay trong buồn đau mà còn có cả tiềm lực
phi thường
về tinh thần. Là một người Do thái đối với tôi một lần nữa lại là, đầu
tiên và
trên hết, một thách đố tinh thần. Nếu đến nay, vụ Tế thiêu đã sáng tạo
ra một
nền văn hoá, là trường hợp này không thể chối cãi được, thì mục đích
của nó chỉ
có thể là một thực tại không thể cứu chuộc lại làm nảy sinh bằng đường
lối tinh
thần ra sự phục hoạt – ra sự thanh tẩy (catharsis). Mong muốn này đã
hứng khởi
tôi trong toàn thể những nỗ lực sáng tạo của tôi.
Mặc
dù tôi đang đến gần chỗ kết thúc bài nói chuyện, tôi
phải thú nhận là vẫn chưa tìm ra được sự quân bình trấn an giữa cuộc
đời tôi,
những tác phẩm tôi, và giải Nobel. Ngay lúc này tôi cảm thấy lòng biết
ơn sâu
xa – biết ơn với tấm tình đã cứu vớt tôi, và hiện còn phù trì cho tôi
sống trên
đời. Nhưng xin hãy xét rằng, trong chuyến du hành đời sống khó mà dõi
theo này,
trong cái "sự nghiệp" của tôi này, nếu tôi có thể gọi như thế, có một
cái gì xốn xang, một cái gì phi lí, một cái gì mà trong trầm tư không
thể không
xúc động về một niềm tin vào một trật tự ngoài thế giới, vào che chở,
vào công
lí siêu hình – nói cách khác, mà không bị rơi vào cái bẫy rập của sự tự
đánh
lừa, và như thế là mắc cạn, là đắm chìm, là bứt lìa những ràng buộc sâu
xa và
vương vít với hàng bao triệu con người tử nạn và chẳng hề biết đến ân
phước.
Làm một ngoại lệ không phải là dễ. Nhưng nếu mệnh vận đặt chúng ta làm
ngoại
lệ, thì chúng ta phải làm hoà với cái trật tự phi lí của may rủi, nó
cai trị
đời sống chúng ta với cái thất thường của một đội hành quyết, phơi
chúng ta
trước những sức mạnh phi nhân, những bạo tàn quái dị.
Tuy
thế có một điều rất đặc biệt xẩy ra trong khi tôi chuẩn
bị bài diễn văn này, nó trấn an tôi trong một cung cách. Một hôm, tôi
nhận được
một phong thư lớn, giấy thô, mầu nâu, từ bưu điện. Nó được gửi do Tiến
sĩ
Volkhard Knigge, giám đốc Trung tâm Kỉ niệm Buchenwald. Cùng với lời
chúc mừng,
ông có kèm theo một bì thư nhỏ, và mô tả bì thư đó chứa gì, để phòng
trong
trường hợp tôi không đủ sức mạnh mà xem thì khỏi cần phải xem. Bì thư
nhỏ đó có
chứa bản sao báo cáo chính thức hàng ngày về những tù nhân của trại
giam cho
ngày 18 tháng Hai năm 1945. Trong cột mang tên "Abgange", tức là
"Giảm", tôi học biết được về cái chết của tù nhân mang số # 64,921 –
Imre Kertész, thợ xưởng máy, sinh năm 1927. Hai dữ liệu là giả, năm
sinh của
tôi và nghề nghiệp của tôi được nhập sổ đăng ký chính thức khi tôi bị
đưa đến
Buchenwald. Tôi đã tự cho mình thêm hai tuổi để khỏi bị xếp loại trẻ
con, và đã
nói là thợ xưởng máy thay vì học sinh, để tỏ ra có ích cho họ hơn.
Vắn
tắt, tôi đã chết một lần, để có thể sống. Có lẽ đó là
câu chuyện thực của tôi. Và đã như thế, tôi xin cung hiến tác phẩm này,
sinh ra
từ cái chết của một đứa trẻ, cho hàng triệu con người đã chết, và những
ai còn
nhớ họ. Nhưng, rốt cuộc bởi chúng ta đang nói chuyện văn học, loại văn
học mà
trong quan điểm của quý Hàn lâm viện, cũng là một chứng ngôn, tác phẩm
của tôi
còn có thể phục vụ cho một mục tiêu hữu ích trong tương lai, và – đây
là tâm
nguyện của tôi – còn có thể cất tiếng nói với tương lai. Hễ khi nào
nghĩ đến
tác động chấn thương của Auschwitz, tôi rốt cuộc lại an trú vào sinh
lực và sức
sáng tạo của những con người hiện đang sống. Vậy là, khi nghĩ về
Auschwitz, tôi
ánh chiếu, một cách nghịch lí, không phải quá khứ mà là tương lai.
Nguyễn Tiến Văn dịch
|