Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
CHUYỂN NGỮ
|
Max Horkheimer
và Theodor W. Adorno
Đần
độn được hình thành như thế nào
Bạo lực gánh chịu biến
thiện ý thành tà ý
(La violence subie transforme la bonne volonté en
mauvaise volonté).
Biểu tượng của sự thông minh là cái ăng ten của con ốc sên, nếu chúng
ta tin theo Méphistophélès, [con quỉ mà Faust đã từng tin, và bán linh
hồn cho nó] (Faust, I, V, 4068). Đó là xúc giác và thính giác của con
vật. Gặp chướng ngại, cái ăng ten liền lập tức co rút lại, tìm sự che
chở ở nơi thân mình, biến tất cả thành một cụm. Thấy êm êm, nó rón rén
thò ra, như là một bộ phận độc lập. Nếu sự nguy hiểm vẫn còn đó, nó lại
chuồn, và phải lâu lắm mới lại dám thò ra ngoài để xông xáo. Thoạt đầu,
cuộc sống tinh thần rất ư là mong manh. Giác quan của con ốc sên tùy
thuộc vào cơ bắp, và cơ bắp trở nên yếu đi, mỗi lần bị ngăn chặn hoạt
động. Cơ thể tê liệt là do vết thương, tinh thần tê liệt là do sợ hãi.
Thoạt kỳ thủy, hai phản ứng này, là bất phân ly.
Những con vật phát triển hơn, chúng được như vậy, là nhờ
được tự do hơn. Cuộc sống của chúng chứng tỏ, hãy đưa cái ăng ten ra
hướng mới, và đừng rụt lại. Một loài thành công là có bao nhiêu loài
khác thất bại, chỉ vì không vượt qua nỗi sợ hãi ban đầu, khi thò cái
ăng ten về hướng nó sẽ phát triển. Môi trường thiên nhiên tức thời
chung
quanh con vật tạo sức ép, sức ép này len lỏi vào bên trong, nhờ nỗi sợ
làm teo những bộ phận trong cơ thể. Trong mỗi cái nhìn, đậm nét tò mò
của con vật, ánh lên một dạng đời mới, vóc đời có thể bật ra từ cái
hình
hài đang như thế đó. Không phải chỉ do đã được định hình, định tính làm
cho con vật muốn an toàn trong cái vỏ cũ: khi nhìn, nó đụng một sức
mạnh,
có từ không biết bao đời, từ hàng triệu triệu năm, chính sức mạnh này
giam cứng nó vào tình trạng tiến hoá mà nó đang có, ngăn ngừa mọi toan
tính
vượt qua một tình trạng mới. Cái nhìn đầu tiên của một con vật, có vẻ
thăm
dò, nhưng thật dễ dàng bị bẻ gẫy. Đằng sau cái nhìn, có thiện chí, có
hy
vọng mong manh, nhưng không chút nghị lực bền bỉ. Khi con vật tránh cái
hướng mà nó bị ngăn chặn, xua đuổi, nó trở nên sợ sệt, đần độn.
Đần độn là một vết sẹo. Nó có thể liên quan tới một hoạt
động trong bao hoạt động, hoặc liên quan tới mọi hoạt động, cho dù
thể xác hay tâm thần. Ở nơi con người, mỗi biểu hiện đần độn cho thấy
cái chỗ cơ bắp - thay vì được cổ võ, khuyến khích - bị cấm cản, vào
đúng lúc bật dậy. Thoạt kỳ thủy, chính sự hiện diện của chướng ngại làm
bắt đầu sự lập đi lập lại một cách vô ích những hành động hỗn độn, vụng
về. Trong những vô vàn câu hỏi của một đứa trẻ, có triệu chứng của nỗi
đau câm, ngầm, khởi từ câu hỏi đầu tiên mà nó không nhận được câu trả
lời, một câu hỏi mà nó không biết đặt ra như thế nào cho đúng cách (Cf.
Karl Landauer, Intelligenz und Dummheit, in: Das Psychoanalytische
Volksbuch, Bern, 1939, p. 172). Trong những lập đi lập lại của đứa trẻ
có điều gì giống như trò bướng bỉnh của một con chó cứ nhẩy lên nhẩy
xuống trước một cánh cửa mà nó không làm sao mở được, cuối cùng đành
chịu thua, nếu quả đấm cửa ở ngoài tầm nhẩy, trong đó có cả sự tuyệt
vọng của một con sư tử đi đi lại lại trong chiếc chuồng giam, hay cử
chỉ chống đỡ của người loạn thần kinh, mặc dù cử chỉ này đã một lần tỏ
ra vô hiệu. Nếu nhịp độ của những toan tính giảm dần, ở đứa trẻ, hoặc
nếu sự cấm cản quá hung bạo, sự chú tâm
có thể chuyển qua một hướng khác, đứa trẻ đã có kinh nghiệm hơn, như
người
ta nói, nhưng chuyện xẩy ra là: có một vết sẹo thật khó mà nhận ra, ở
ngay
chỗ mà ước muốn, niềm đam mê, khát vọng của nó bị bóp nghẹt; một vùng
nho
nhỏ bị chai cứng, sờ bên ngoài chẳng còn chút cảm giác. Những vết sẹo
như
thế đó làm méo mó, xiêu vẹo [con người] . Chúng tạo nên những tính tình
cứng rắn, thô bạo. Chúng cũng làm cho [con người] trở nên ngu ngốc, đần
độn – theo nghĩa, có một sự suy yếu mang tính bệnh lý, mù lòa tâm thần,
bất
lực, nếu chúng cứ thích mãi cái tình trạng ù lì, đình trệ như thế đó –
theo
nghĩa độc ác, bướng bỉnh, cuồng tín, nếu chúng phát triển thành cục u
bướu
ở bên trong con người. Bạo lực biến thiện ý thành tà ý. Không phải chỉ
[vấn
đề] cấm hỏi tra, mà ngay cả chuyện hạn chế làm theo [người khác], [mày
hãy]
bớt khóc lóc, đừng chơi trò liều lĩnh… cũng có thể để lại những vết sẹo
như
trên. Giống như loài vật, thần kinh của con người, từ những vùng mù lòa
–
vết tích khi hy vọng bị cấm cản – là một bằng chứng ghê rợn, của sự
cưỡng
bức, đè lên bất cứ một sinh vật.
Ghi chú: Trên đây là chuyển ngữ bài viết "Genèse de la bêtise", in
trong "La dialectique de la raison", "Biện chứng pháp của lý trí", tác
giả Max Horkheimer và Theodor W. Adorno. Nguyên bản tiếng Đức, còn có
tiểu đề "Những mẩu đoạn triết học", in lần đầu năm 1947, dần dần
được biết tới, rồi tuyệt bản. Trong lần tái bản hai mươi năm sau đó
(1969), hai tác giả giải thích, đây không chỉ là một đáp ứng những đòi
hỏi của độc giả, mà khá nhiều tư tưởng ở trong cuốn sách vẫn còn đang
hợp
thời, và chúng xác định, theo một chiều hướng rộng lớn, những nghiên
cứu
tiếp theo của họ. Ở đây, người dịch sử dụng bản tiếng Pháp, nhà xuất
bản
Gallimard, ấn bản 1996.
Max Horkheimer đã từng là giám đốc Viện Nghiên Cứu Xã Hội, tức Trường
Phái Frankfurt, thành lập tại Đức vào năm 1923, di chuyển qua Hoa Kỳ
khi Hitler lên nắm quyền, tới năm 1950 lại trở về Đức. Chung quanh ông
qui tụ một số triết gia nổi tiếng như Walter Benjamin, Theodor W.
Adorno, Herbert Marcuse.
Những tư tưởng về sự tiến bộ là yếu tố căn bản của triết
học trưởng giả Thời Soi Sáng, dưới bảng hiệu của Lý Trí. Trong cuốn
sách nói trên, hai tác giả phân tích cho thấy, chuyển động "hãy tiến
lên dưới ngọn cờ của lý trí", cứ thế tiêu diệt dần những giá trị của
chính chúng - trong khi chưa đưa ra được một thực hành mang tính xã hội
- theo một tiến trình mà hai tác giả gọi là "biện chứng pháp của lý
trí".
Cả hai chứng minh, sự tự hủy diệt của Lý Trí sẽ cứ thế mà tiếp tục
trong
tương lai, và đẻ ra những hình thức mới của chủ nghĩa toàn trị, nếu, sự
hàm hồ, ở ngay nơi trái tim của ý niệm tiến bộ, không được nhìn nhận
một
cách rõ ràng, và được vượt qua liền liền.
Jennifer Tran chuyển ngữ và giới thiệu.
|