Lí do
của văn học
Diễn
văn Nobel văn chương của
Cao Hành Kiện.
Nguyễn
Tiến Văn dịch từ
nguyên tác "Văn học đích lí do", do tác giả đọc tại Hàn lâm viện Thụy
điển ngày 10.12. 2000.
Tôi
không biết có phải vận
mệnh đã đẩy tôi lên trên giảng đàn này hay không, cái ngẫu nhiên này do
hàng
bao cơ duyên tạo thành, chẳng e gọi nó là vận mệnh. Việc thượng đế có
hoặc
không, hãy khoan bàn; giáp mặt với điều không thể biết đó lòng tôi vốn
mang
niềm kính sợ, dù rằng tôi vốn tự nhận là một kẻ theo thuyết vô thần.
Một cá
nhân không thể thành
thần, càng không thể nói là thay mặt thượng đế, làm siêu nhân để chủ tể
cái thế
giới này, chỉ có thể làm thế giới này càng thêm rối loạn, bát nháo. Một
thế kỉ
sau Nietzsche, những tai kiếp do nhân tạo để lại trên lịch sử loài
người những
kỉ lục hắc ám nhất. Đủ loại hình sắc siêu nhân, tự xưng là lãnh tụ của
nhân
dân, nguyên thủ của quốc gia, thống soái của dân tộc, chẳng ngại vận
dụng mọi
thủ đoạn bạo lực gây ra hành vi tội ác, tuyệt nhiên chẳng thể so bàn
với những
cuồng ngôn của một triết gia cực đoan vị kỉ. Tôi chẳng nghĩ đến chuyện
lạm dụng
chỗ giảng đàn văn học này để rông dài về chính trị và lịch sử, chỉ xin
nhân cơ
hội này trình ra tiếng nói thuần túy của một nhà văn.
Nhà văn cũng chỉ là một người bình thường, có
lẽ mẫn cảm hơn, mà người quá mẫn cảm thường thường lại yếu đuối hơn.
Một nhà
văn không lấy mình làm người phát ngôn của nhân dân, hoặc hóa thân của
chính
nghĩa, thì tiếng nói ấy chẳng thể nào không nhỏ nhoi yếu ớt, tuy nhiên,
chính
tiếng nói của loại cá nhân ấy mới lại càng chân thật.
Ở đây, tôi muốn nói là văn học cũng chỉ có thể
là tiếng nói của cá nhân, mà vốn xưa nay vẫn thế. Văn học một khi uốn
thành
tụng ca của quốc gia, kì xí của dân tộc, miệng lưỡi của chính đảng,
hoặc phát
ngôn của một giai cấp hoặc một tập đoàn, cho dù có thể vận dụng thủ
đoạn tuyên
truyền, mở rộng thanh thế, rợp trời kín đất chi nữa, cái loại văn học
đó cũng
chôn vùi mất bản tính, không thành văn học, mà biến thành công cụ của
quyền lực
hoặc lợi ích.
Trong thế kỉ vừa chấm dứt, văn học đã phải
đương đầu chính với bất hạnh này, mà so với bất cứ thời đại nào đã qua,
nó càng
in sâu những vết bỏng của chính trị và quyền lực, và nhà văn càng trải
qua
những bách hại ghê gớm hơn. Văn học muốn bảo vệ lí do tồn tại của chính
nó và
không biến thành công cụ của chính trị, thì không thể không quay về với
tiếng
nói của cá nhân, bởi văn học trước hết là từ cảm thụ của cá nhân mà ra,
có cảm
mới có phát. Nói như thế không phải bảo là văn học ắt phải thoát li
chính trị,
hoặc văn học ắt phải can dự chính trị. Luận chiến về cái gọi là các
khuynh
hướng văn học, hoặc các khuynh hướng chính trị của nhà văn, đã là một
căn bệnh
lớn, tác hại văn học trong thế kỉ vừa qua. Hệ tư tưởng tác quái đã biến
các
khuynh hướng, truyền thống với cách tân thành bảo thủ với cách mạng,
xoay vấn
đề văn học ra đấu tranh giữa tiến bộ và phản động. Một khi hệ tư tưởng
kết hợp
với quyền lực thành thế lực của hiện thực, lúc ấy cả văn học và cá nhân
đều gặp
tai ương.
Văn học Trung quốc trong thế kỷ 20 gặp kiếp
nạn một lần rồi hai, hai lần rồi ba, đến nỗi có hồi chỉ còn thoi thóp,
chính vì
do chính trị làm chủ tể văn học: cả cách mạng trong văn học và văn học
cách
mạng đều cùng đưa văn học với cá nhân vào chỗ chết. Lấy danh nghĩa cách
mạng để
thảo phạt văn hóa truyền thống của Trung quốc dẫn tới ngang nhiên cấm
sách, đốt
sách. Nhà văn bị sát hại, cầm tù, lưu đầy, khổ sai, trong một trăm năm
qua
không thể kể hết số nạn nhân, trong lịch sử của Trung quốc bất cứ triều
đại vua
chúa nào cũng không thể sánh bằng, tạo ra những gian nan vô cùng cho
văn học
viết bằng Trung văn, còn việc tự do sáng tác càng không thể bàn.
Nhà văn ví bằng muốn có được tự do tư tưởng,
trừ ra câm lặng chỉ còn có cách đào thoát. Nhưng người sáng tác dựa vào
chữ
nghĩa mà vô ngôn một thời gian quá lâu thì chẳng khác tự sát. Nhà văn
muốn tránh
tự sát và buộc câm, lại muốn nói lên tiếng nói cá nhân của mình thì
không có
cách nào khác hơn là đào thoát. Nhìn lại văn học sử, từ phương Đông tới
phương
Tây đâu chẳng như thế, từ Khuất Nguyên tới Dante, James Joyce, Thomas
Mann,
Aleksandr Solzhenitsyn đến số đông những trí thức Trung quốc lánh nạn
sau vụ
thảm sát ở Thiên An Môn năm 1989. Đó là vận mệnh không thể tránh được
của nhà
thơ và nhà văn muốn gìn giữ tiếng nói của mình.
Trong những năm Mao Trạch Đông thực thi chế độ
chuyên chính toàn diện, ngay cả việc đào thoát cũng không xong. Những
chùa miếu
trong rừng núi, thời phong kiến từng là nơi nương náu cho nhà văn, nay
cũng bị
quét sạch, và ngay việc viết lén cũng là liều mạng. Để duy trì độc lập
tư tưởng
chỉ còn tự nói mình nghe, mà cũng phải mười phần kín nhẹm. Tôi muốn
nói, chính
vào cái thời làm văn học không thể được đó, tôi mới trọn vẹn nhận thức
được
điều cốt yếu, ấy là văn học giúp con người bảo trì ý thức làm người.
Có thể nói, rằng tự nói với bản thân là khởi
nguồn của văn học, còn dùng ngôn ngữ để truyền thông là thứ yếu. Con
người đem
cảm xúc và tư tưởng rót vào trong ngôn ngữ, thông qua việc viết, dựa
vào văn
tự, làm thành văn học. Ngay lúc viết đó không hề có bất cứ toan tính vụ
lợi nào
thậm chí còn không nghĩ tới một ngày nào đó có thể phát biểu, mà vẫn
muốn viết,
cũng bởi là vì trong lúc viết đã trải qua khoái cảm, có được đền đáp,
có được
an ủi rồi. Cuốn tiểu thuyết trường thiên "Linh sơn" của tôi viết ra
chính là vào lúc những tác phẩm mà tôi đã nhiều phần nghiêm túc tự kiểm
duyệt
vẫn gặp phải xét duyệt cấm đoán. Tôi viết nó thuần chỉ vì muốn xua đi
nỗi cô
đơn trong lòng, viết cho riêng mình, chẳng hề mong cầu có khả năng phát
biểu.
Ngoái xem lại kinh nghiệm viết của mình, tôi
có thể nói: văn học xét tận cội rễ là sự xác nhận của con người về giá
trị tự
thân, ngay khi viết đã là khẳng định. Văn học đầu tiên nẩy sinh từ sự
cần thiết
của nhà văn làm tròn vẹn chính mình, còn có hiệu quả hay không với xã
hội thì
là chuyện sau khi tác phẩm đã hoàn thành. Thêm nữa, hiệu quả đó ra sao
cũng
không do ý nguyện của nhà văn mà quyết định.
Trong văn học sử, không ít tác phẩm lớn bất hủ
mà chưa từng được xuất bản thời các tác giả còn sống. Nếu ngay trong
khi viết
không có sự tự xác nhận, thì làm sao mà cầm bút được. Trong văn học sử
Trung
quốc, "Tây du ký", "Thủy hử truyện", "Kim bình
mai" và "Hồng lâu mộng" là những cuốn tiểu thuyết lớn nhất. Đời
sống của bốn đại tài tử tác giả đó, cho tới nay còn khó mà tra khảo,
chẳng khác
nào như đời của Shakespeare. Duy còn sót lại là một thiên tự thuật của
Thi Nại
Am. Nếu không có được niềm an ủi riêng, như ông nói, "cũng đành khuây
suông" (nguyên văn: "liêu dĩ tự uý"), thì làm sao có thể vắt hết
hết tinh lực vào thiên cự tác kia như thế được, vì lúc sống chẳng hề có
đền
đáp. Tiểu thuyết hiện đại đầu mối là từ Franz Kafka. Nhà thơ thâm trầm
nhất của
thế kỉ 20 là Fernando Pessoa. Họ chẳng đều như thế sao? Họ trông cậy
vào ngôn
ngữ mà không hề nhắm cải tạo cái thế giới này. Họ biết sâu xa cái sức
yếu ớt
của một cá nhân, nhưng lại nói ra lời. Đó là vì ngôn ngữ vốn có thần
lực quyến
rủ.
Ngôn ngữ là kết tinh thượng thừa của văn minh
loài người. Ngôn ngữ tinh vi như thế, khó nắm bắt như thế, thấu triệt
như thế,
không đâu chẳng lọt như thế, vì nó xuyên thấu cái cảm biết của con
người, nó
đem con người là chủ thể của cảm biết nối kết với cái nhận thức về thế
giới của
con người. Văn tự, thông qua việc viết ra mà lưu lại, kì diệu như thế,
khiến
cho một cá nhân cô lập vẫn có thể cảm thông với những con người, dù
khác chủng
tộc, dù khác thời đại. Cái hiện tại san sẻ của việc viết và đọc văn học
cũng
kết liền với giá trị tinh thần vĩnh hằng của văn học bằng cách như thế.
Tôi cho rằng một nhà văn ngày nay mà cố ý
cường điệu một thứ văn hóa dân tộc nào đó, thì ắt là có điểm đáng ngờ.
Do nơi
tôi sinh ra, do ngôn ngữ tôi sử dụng, tự nhiên là truyền thống văn hóa
Trung
quốc có ở nơi tôi. Văn hoá nói chung, lại tương quan mật thiết với ngôn
ngữ, do
đó mà hình thành tình cảm và tri thức, những phương thức đặc thù khá ổn
định
nào đó về tư duy và biểu hiện trần thuật. Tính sáng tạo của nhà văn
khởi đi từ
chính chỗ cái ngôn ngữ mình sử dụng đã biểu thuật được rồi, và bằng vào
chỗ cái
ngôn ngữ ấy còn chưa biểu thuật trọn vẹn, để mà bồi đáp. Người làm sáng
tạo
nghệ thuật ngôn ngữ chẳng cần tự ban cái nhãn hiệu dân tộc rành rành
liếc qua
biết liền.
Tác phẩm văn học vượt trên ranh giới quốc gia,
thông qua phiên dịch lại vượt trên chủng loại ngôn ngữ, tiến đến vượt
qua những
đặc định nào đó của tập quán xã hội và quan hệ giữa người với người,
vốn hình
thành theo khu vực địa lí và lịch sử, để phơi bầy sâu xa cái nhân tính
phổ quát
đại đồng. Thêm nữa, nhà văn ngày nay, ngoài văn hóa dân tộc của mình,
ai mà
chẳng đều tiếp thu ảnh hưởng của nhiều loại văn hóa khác. Cho nên cường
điệu về
cái đặc sắc văn hóa dân tộc của mình, nếu chẳng phải là mưu toan tiếp
thị du
lịch, ắt không khỏi khiến người ta sinh nghi.
Văn học vượt trên ý hệ, vượt trên ranh giới
quốc gia, còn vượt trên ý thức dân tộc, cũng như đời sống cá nhân căn
bản vượt
trên thứ chủ nghĩa này hoặc chủ nghĩa nọ. Trạng thái sinh tồn của con
người nói
chung cũng lớn lao hơn những lí thuyết và biện luận về sinh tồn. Văn
học là
quán sát phổ quát, trước cái hoàn cảnh cùng khốn của sinh tồn con
người, và
không hề có cấm kị. Những hạn định đối với văn học đều là áp đặt từ bên
ngoài,
như của chính trị, của xã hội, của luân lí, của tập tục. Tất cả những
thứ này
đều mưu toan cắt xén văn học thành đồ trang sức cho vừa khuôn phép.
Tuy nhiên văn học chẳng phải để làm đẹp cho
quyền lực, cũng chẳng phải là món đồ thời thượng của xã hội. Văn học tự
có tiêu
chuẩn giá trị của nó: đó là tính chất thẩm mĩ. Thẩm mĩ tương quan mật
thiết với
tình tự của con người là cái tiêu chuẩn thiết yếu duy nhất của tác phẩm
văn
học. Thực vậy, phán đoán thẩm mĩ cũng tùy từng người mà khác nhau, bởi
tình cảm
vốn xuất phát từ những cá nhân khác nhau. Tuy nhiên, loại phán đoán tuy
chủ
quan ấy chắc chắn cũng vẫn có những tiêu mốc phổ quát được thừa nhận.
Người ta
thông qua sự trau giồi văn hóa mà hình thành khả năng thưởng thức,
thông qua
việc đọc mà tái thông cảm với cái đẹp và ý thơ, cái cao thượng và cái
lố bịch,
cái bi thương và cái quái đản, cái u mặc và cái trào phúng, mà nhà văn
đã trút
vào tác phẩm.
Ý thơ hoặc cảm xúc thẩm mĩ cũng chẳng phải chỉ
do trữ tình. Một nhà văn yêu mình mà không biết tự tiết chế là mắc một
thứ bệnh
ấu trĩ. Thực vậy, lúc mới bắt đầu học viết, ai ai cũng khó tránh bệnh
đó. Hơn
nữa, trữ tình còn có bao nhiêu tầng lớp, và muốn đến cảnh giới càng
cao, càng
cần có cặp mắt lạnh, cái nhìn yên. Ý thơ, vốn nương náu vững chãi trong
cái đăm
đăm từ xa ấy. Cái tầm mắt đăm đăm kia, ví bằng lại soi chiếu vào chính
bản thân
người sáng tác, đồng thời lại vút bay trên cả nhân vật trong sách lẫn
tác giả,
thành ra con mắt thứ ba, tức tuệ nhãn của nhà văn, một cái nhìn hết sức
trung
tính, như thế thì những tai nạn cùng rác rưởi của nhân thế đều đáng cứu
xét
đúng đắn: đồng thời với sự khơi dậy thống khổ, chán ghét, ác tâm, thì
cũng thức
tỉnh lòng từ bi thương xót, niềm yêu tiếc cùng với tình quyến luyến
cuộc sống.
Thẩm mĩ trồng gốc ở tình cảm con người cũng e
rằng chẳng thế nào lỗi thời được, dù rằng với văn học, giống như với
nghệ
thuật, kiểu thời thượng mỗi năm mỗi đổi. Tuy nhiên, phán đoán giá trị
về văn
học khác xa với thời thượng, là ở chỗ với thời thượng chỉ có cái mới là
tốt. Đó
cũng là cái cơ chế phổ biến trong sự xoay chuyển của thị trường, mà chợ
sách
cũng không là ngoại lệ. Nếu phán đoán thẩm mĩ của nhà văn lại cũng chạy
theo
cái việc làm tình của thị trường thì chẳng khác nào văn học tự sát.
Nhất là ngày
nay, ở cái xã hội huênh hoang tự xưng là xã hội tiêu (thụ) phí (phạm)
này, tôi
cho rằng phải trông cậy vào một thứ văn học lạnh.
Mười năm về trước, sau khi kết thúc cuốn
"Linh sơn" mà việc viết tiêu phí thời gian là 7 năm, tôi có viết bài
văn ngắn, chủ trương một loại văn học lạnh như thế:
"Văn học vốn không có quan hệ gì với
chính trị, chỉ là sự tình thuần cá nhân, một phen quan sát, một lần
ngoái nhìn
lại kinh nghiệm, vài ba hồi tưởng, cùng biết bao cảm thụ để phơi bày
một tâm
trạng nào đó, đủ đầy cùng suy ngẫm."
"Gọi là nhà văn, chẳng khác nào một cá
nhân tự mình đang nói chuyện, đang viết ra – người khác có thể nghe
hoặc không
nghe, có thể đọc hoặc không đọc. Nhà văn đã chẳng phải là anh hùng xin
cái sứ
mệnh vì dân, cũng chẳng đáng làm ngẫu tượng cho người ta sùng bái, lại
càng
không phải là tội nhân hoặc thù địch của dân chúng. Nhà văn, sở dĩ có
lúc còn
vì tác phẩm sáng tác mà chịu nạn, thì đó chỉ là vì những nhu cầu của kẻ
khác.
Ngay khi quyền thế cần chế tạo ra một vài thù địch để lái sức chú ý của
dân
chúng, nhà văn liền bị biến thành một thứ vật hi sinh. Càng bất hạnh
nữa là, có
những nhà văn mê lú cứ tưởng làm tế phẩm là một thứ vinh quang lớn."
"Thật ra, quan hệ giữa nhà văn và người
đọc chẳng khác một cách giao lưu tinh thần, đôi bên chẳng cần gặp mặt,
chẳng
cần qua lại, chỉ cảm thông qua tác phẩm." Văn học thành ra một thứ hành
vi
không có không được trong sinh hoạt của loài người, hai bên đọc và viết
đều
cùng tự giác tự nguyện. Do đó, văn học không có gánh vác nghĩa vụ nào
với đại chúng
cả."
"Một thứ văn học khôi phục được bản tính
như thế, ta không ngại gọi là văn học lạnh. Nó sở dĩ tồn tại, chỉ là vì
loài
người, ngoài việc theo đuổi sự đầy đủ vật chất, còn có một thứ hoạt
động thuần
túy tinh thần. Loại hoạt động ấy tất nhiên chẳng phải ngày nay mới bắt
đầu.
Chẳng qua chỉ là trong dĩ vãng nó chủ yếu ngăn trở những áp bách của
thế lực
chính trị và tập tục xã hội, còn ngày nay nó cần đối kháng với sự tẩm
dâm của
quan niệm giá trị mua bán của cái xã hội tiêu phí này. Muốn tồn tại,
văn học đó
trước tiên phải cam chịu cô đơn."
"Nhà văn, nếu muốn theo đòi việc viết văn
loại ấy, rõ ràng không thể sống nhờ nó, không thể không mưu kế sinh
nhai nào
khác ngoài việc viết. Do đó, viết loại văn học ấy không thể không gọi
là một
thứ xa xỉ, một sự thoả mãn thuần túy trên mặt tinh thần. Loại văn học
lạnh ấy
may ra mà được xuất bản để lưu truyền trên đời, chỉ nhờ vào sự gắng sức
của nhà
văn cùng bạn bè. Tào Tuyết Cần [tác giả tiểu thuyết Hồng lâu mộng] và
Franz
Kafka là những thí dụ như thế. Tác phẩm của họ thậm chí còn chưa được
xuất bản
lúc họ còn sống, khoan nói là tạo thành phong trào văn học, hoặc trở
nên lẫy
lừng gì trong xã hội. Loại nhà văn ấy sống bên lề và ở chỗ cạp bịn của
xã hội,
chúi đầu vào thứ hoạt động tinh thần mà đương thời chẳng hề hi vọng
được đền
đáp, không mong xã hội thừa nhận, mà chỉ vui với thú viết của mình."
"Văn học lạnh là một loại văn học chạy
trốn để cầu sống còn, là một loại văn học không chịu cho xã hội bức tử,
để cầu
sự tự cứu trên tinh thần. Một dân tộc nếu như không dung nổi một loại
văn học
vô vụ lợi như thế, thì đó chẳng phải chỉ là bất hạnh cho nhà văn, mà ắt
cũng là
bi ai cho dân tộc ấy."
***
Tôi may sao ngay khi còn sống lại được Viện
Văn học Thụy điển trao cho cái vinh dự và giải thưởng to lớn này, ấy
cũng là nhờ
bạn bè các nơi trên thế giới trong nhiều năm chẳng tính đền đáp, chẳng
nề gian
khổ, bỏ công phiên dịch, xuất bản, diễn xuất, phê bình, giới thiệu tác
phẩm của
tôi. Ở đây, tôi không thể cảm tạ từng vị một, bởi danh sách đó rất dài.
Tôi còn phải cảm tạ nước Pháp đã tiếp nạp tôi.
Tại cái quốc gia lấy văn học và nghệ thuật làm vinh quang này, tôi đã
đạt được
điều kiện sáng tác tự do, mà còn có cả độc giả và khán thính giả nữa.
Tôi được
may không cô đơn là mấy, dù theo đòi việc viết lách khá là cô độc.
Ở đây, tôi còn muốn nói một điều, đó là đời
sống không phải là lễ hội, rằng thế giới này chẳng phải đều giống như
Thụy điển
thanh bình cả một trăm tám mươi năm không trải qua chiến tranh như thế
này. Thế
kỉ mới chẳng phải chỉ vì đã kinh qua bao nhiêu là tai họa trong thế kỉ
trước mà
được miễn dịch đâu. Kí ức không có cách nào di truyền giống như chủng
tử của
sinh vật. Loài người có trí năng nhưng không thông minh tới mức hấp thu
được
những bài học của quá khứ. Thậm chí trí năng của con người còn có khả
năng phát
tác tính ác mà lâm nguy cả tới sự sống còn của con người.
Loài người chẳng phải nhất định là đi từ tiến
bộ này tới tiến bộ khác. Lịch sử, ở đây tôi không thể không nói tới
lịch sử văn
minh nhân loại, nào đâu có đồng hành với văn minh. Từ sự đình trệ của
châu Âu
thời Trung cổ tới lục địa châu Á thời Cận đại suy bại và hỗn loạn, đến
hai lần
đại chiến thế giới trong thế kỉ 20, các thủ đoạn giết người cũng ngày
càng tinh
vi. Tiến bộ của khoa học kĩ thuật nào có nhất định đưa loài người ngày
càng văn
minh hơn đâu.
Lấy một thứ chủ nghĩa khoa học để giải thích
lịch sử, hoặc là lấy sử quan xây dựng trên cái biện chứng hư huyễn để
diễn
dịch, đều không thể thuyết minh hành vi con người. Cái lòng cuồng nhiệt
hơn một
thế kỉ về một xã hội không tưởng và một cuộc cách mạng liên tục ngày
nay đã tan
thành tro bụi, khiến cho những ai sống sót làm sao khỏi đắng cay?
Phủ định của phủ định đâu nhất thiết dẫn tới
khẳng định. Cách mạng đâu có đem lại kiến thiết, với cái tiền đề cho xã
hội
không tưởng của thế giới mới, là phế trừ cái thế giới cũ đi. Lập luận
cách mạng
xã hội ấy cũng đem áp dụng vào văn học, mang khu vườn vốn là sáng tạo
biến
thành chiến trường, đả đảo người xưa, giầy xéo văn hóa truyền thống,
tất cả bắt
đầu từ con số không, chỉ mới là tốt, lịch sử văn học cũng bị giải thích
là một
sự lật nhào liên tục.
Nhà văn thật sự không thể đóng nổi vai chúa tể
sáng tạo thế giới, cũng chẳng thể tự mình thổi phồng làm Ki tô, như thế
chỉ làm
tinh thần mình thác loạn thành người điên, mà còn biến thế giới thành
ảo giác,
toàn thể ngoài bản thân thành luyện ngục, và tự nhiên mình cũng không
sống nổi.
Tha nhân cố nhiên là địa ngục: nếu bản ngã mất kiểm soát, lẽ nào chẳng
thế?
Khoan nói việc tự mình biến thành tế vật cho tương lai, mà còn đòi
người khác
theo sau làm vật hi sinh.
Lịch sử của thế kỉ 20 này chẳng cần vội vàng
kết luận; không chừng còn sa vào trong cái khung mồ ma của loại ý hệ
này nọ,
thì lịch sử ấy đã uổng viết ra rồi, người sau ắt tự biết sửa sang cho
phải.
Nhà văn cũng không phải là tiên tri. Điều quan
trọng là sống trong hiện tại, không để mắc lừa, bỏ hết vọng tưởng, nhìn
cho rõ
giờ này phút này, đồng thời nhìn kĩ bản thân. Bản thân cũng là một mớ
hỗn độn
và khi tra hỏi cái thế giới này cùng là tha nhân thì đồng thời cũng
không ngại
mà quay nhìn chính mình. Tai nạn và áp bách thường cố nhiên tới từ bên
ngoài
mình, nhưng chính sự hèn nhát và hoảng loạn của con người cũng thường
làm gia
tăng thống khổ, mà còn tạo thêm bất hạnh cho kẻ khác.
Hành vi của loài người khó giải là như thế,
hiểu biết của con người về chính mình còn chưa được tỏ tường, văn học
chẳng qua
chỉ là cái nhìn chăm chú của con người vào tự thân, và trong lúc xem
ngắm ấy ít
nhiều nẩy sinh một sợi tơ ý thức óng ánh soi rõ tự thân.
Văn học chẳng nhằm lật đổ mà quí ở phát hiện
và mở phơi những gì hiếm được biết, hoặc được biết chưa nhiều, hoặc
tưởng là
biết nhưng kì thực biết chẳng rốt ráo về cái chân tướng của cõi người
này. Sự
chân thực e rằng chính là phẩm cách gốc rễ không thể bứng đi được của
văn học.
Cái thế kỉ mới kia đã tới rồi, nó có mới thực
hay chẳng mới hãy khoan bàn, cách mạng văn học và văn học cách mạng
cùng theo
với sự băng hoại của ý hệ nói chung cũng nên chấm dứt luôn. Cái ảo ảnh
về xã
hội không tưởng giam hãm hơn một thế kỉ cũng đã tan thành mây khói. Văn
học sau
khi cởi hết sự trói buộc của chủ nghĩa này hoặc chủ nghĩa kia, còn phải
quay về
với cảnh ngộ khốn khổ của đời người, mà cái cảnh khổ của đời người nào
có thay
đổi là bao, vẫn rành rành là chủ đề muôn thuở của văn học.
Thời đại này chẳng có tiên tri cũng chẳng có
hứa hẹn, và tôi cho như thế đâu phải là tồi. Nhà văn sắm vai tiên tri
hay quan
tòa cũng nên chấm dứt thôi. Một thế kỉ vừa qua, bao nhiêu tiên tri đều
thành ra
lừa đảo. Lại đi chế tạo mê tín mới đối với tương lai, chẳng bằng chùi
mắt mà
chờ xem. Cũng chẳng bằng nhà văn quay về với địa vị chứng nhân, hết sức
trình
ra cái chân thật.
Nói thế không phải là muốn văn học ngang hàng
với ghi chép hiện thực. Ta nên biết, những chứng từ thực lục cung cấp
rất ít sự
thật như thế, mà lại thường che giấu những nguyên nhân và động cơ gây
thành sự
kiện. Còn khi văn học tiếp cận sự thật, từ nội tâm con người đến quá
trình của
sự kiện đều mở phơi không sót. Đó là sức mạnh vốn có của văn học, chừng
nào nhà
văn khai mở trạng huống chân thực của đời sống con người mà không lăng
nhăng
bịa đặt.
Nhà văn tùy sức thấu triệt nắm bắt được sự
thật sẽ quyết định phẩm cách cao thấp của tác phẩm. Đó là điều mà sự
chơi văn
giỡn chữ cũng như kĩ xảo viết lách không thay thế được. Nói cho ngay,
sao gọi
là sự thật, cũng có nhiều ý kiến chẳng ai chịu ai, còn phương pháp tiếp
cận sự
thật thì người này khác với kẻ kia. Tuy nhiên, nhà văn đối với chúng
sinh tướng
của nhân sinh là phấn son lòe loẹt hay là thẳng bày không sót, thì chỉ
liếc qua
là thấy ngay. Biến chân thật với không chân thật thành tư biện về từ
nghĩa,
chẳng qua chỉ là một thứ phê bình văn học của một thứ ý hệ. Những kiểu
nguyên
tắc và giáo điều như thế đối với sáng tác văn học chẳng có quan hệ bao
nhiêu.
Nói về nhà văn, có giáp mặt với sự thật hay
không, đó không phải chỉ là vấn đề phương pháp sáng tác, nó còn có
tương quan
mật thiết với thái độ viết nữa. Cầm bút lên có chân thật hay không đồng
thời
cũng có ý nghĩa là nhà văn khi bỏ bút xuống có chân thật hay không. Ở
đây, chân
thật không chỉ là phán đoán về giá trị văn học, mà đồng thời cũng bao
hàm ý
nghĩa đạo đức nữa. Nhà văn không gánh vác sứ mạng giáo hóa về đạo đức,
khi mở
phơi rốt ráo con người muôn vẻ trong thế giới ngàn cõi bao la, đồng
thời đem
bản thân trần trụi trình ra không sót, luôn cả phơi bày những núp che
trong nội
tâm. Đối với nhà văn, chân thật trong văn học cơ hồ tương đương với đạo
đức, mà
còn là đạo đức tối thượng của văn học nữa.
Ngay cả hư cấu văn học, dưới ngòi bút của một
nhà văn có thái độ viết nghiêm túc, cũng đặt tiền đề là bày ra sự thật
của đời
người. Đó chính là sức sống của những tác phẩm bất hủ từ xưa tới nay.
Chính vì
thế mà bi kịch Hi lạp và Shakespeare vĩnh viễn không bị lỗi thời.
Văn học không phải chỉ là mô tả hiện thực, nó
ăn sâu qua tầng ngoài để vào cõi đáy thẳm của hiện thực; nó mở tung
những lớp
vỏ giả, lại vút bay cao trên những biểu tượng của đời thường để tầm mắt
rộng
nhìn hình sông thế núi của toàn thể sự tình.
Dĩ nhiên, văn học cũng cầu đến tưởng tượng.
Tuy nhiên, cuộc ngao du tinh thần ấy chẳng là nói nhăng nói cuội. Tưởng
tượng
mà tách lìa với cảm thụ chân thật, hư cấu mà từ bỏ nền tảng của kinh
nghiệm đời
sống, thì chỉ rơi vào chỗ nhạt thếch yếu ớt. Tác phẩm mà ngay chính tác
giả
cũng chẳng tin tưởng thì chắc chắn không làm độc giả xúc động được.
Đúng là văn
học chẳng phải chỉ dựa vào kinh nghiệm sống thường ngày, nhà văn cũng
chẳng
phải giam mình trong những gì bản thân đã trải qua. Tai nghe mắt thấy,
cả đến
những gì trong tác phẩm văn học của người xưa kể lại qua ngôn ngữ làm
vật chở
đều có thể hóa thành cảm thụ của bản thân, đó cũng là sức thần của ngôn
ngữ văn
học.
Cũng như lời nguyền rủa với lời chúc phúc,
ngôn ngữ vốn có sức mạnh làm lay động thâm tâm con người. Nghệ thuật
của ngôn
ngữ là ở chỗ người kể chuyện có thể đem cảm thụ của mình truyền đạt cho
kẻ
khác, chứ không phải là một thứ hệ thống kí hiệu, một thứ cấu trúc ngữ
nghĩa
riêng bằng kết cấu ngữ pháp mà làm thỏa mãn được. Nếu bỏ quên con người
sống
thật ở đằng sau ngôn ngữ, diễn dịch trên ngôn ngữ rất dễ biến thành trò
chơi
của trí xảo.
Ngôn ngữ không phải chỉ là vật chở của khái
niệm và quan niệm, nó đồng thời còn xúc động cả cảm giác và trực giác.
Đó cũng
là lí do tại sao kí hiệu và thông tin không cách gì thay thế cho ngôn
ngữ của
con người sống thực. Đằng sau ngôn ngữ nói ra, ý nguyện, động cơ, thanh
điệu
cùng tình tự của người nói không cách nào bầy hết ra được, nếu chỉ dựa
vào từ
nghĩa và tu từ. Hàm nghĩa của ngôn ngữ văn học phải do người sống cất
lên âm
thanh nói ra mới được thể hiện trọn vẹn, nên cũng dựa vào thính giác,
chứ không
phải chỉ làm công cụ cho tư duy mà đầy đủ được. Con người cần ngôn ngữ
không
phải chỉ để truyền đạt ý nghĩa, mà còn để nghiêng tai lắng nghe và xác
nhận
chính mình.
Ở đây xin mượn một câu của Descartes, để nói
về nhà văn: "Tôi nói vậy tôi tồn tại". Mà cái tôi của nhà văn, có thể
là bản thân nhà văn, hoặc tương đồng với người kể chuyện, hoặc biến
thành các
nhân vật trong sách. Đó có thể là nhà văn, cũng có thể là bạn, chủ thể
người kể
chuyện đó một chia thành ba. Xác định chủ ngữ nhân xưng là khởi điểm
cho việc
biểu đạt cái cảm biết, do đó mà hình thành các phương thức tự thuật
khác nhau.
Chính trong quá trình kiếm tìm phương thức tự thuật riêng mà nhà văn
thực hiện
cái cảm biết của mình.
Trong tiểu thuyết, tôi lấy nhân xưng đại danh
từ thay cho các nhân vật thông thường, lại lấy tôi, bạn, y… những nhân
xưng đại
danh từ khác nhau để kể về, hay chú mục vào một vai chính. Dùng những
nhân xưng
dại danh từ khác nhau để kể về một nhân vật tạo nên một cảm xúc về
khoảng cách.
Điều này cũng cung cấp cho diễn viên trên sân khấu một không gian tâm
lí càng
mở rộng, nên tôi cũng đưa các nhân xưng đại danh từ chuyển hoán vào
trong
phương pháp dựng kịch.
Việc viết tác phẩm tiểu thuyết hoặc kịch chưa
và cũng không thể chấm dứt. Tuyên bố nông nổi của cái chết của dạng
thức văn
học và nghệ thuật nào đó cũng chỉ là một thứ sai lầm vô lối.
Sinh
ra đồng thời với văn minh loài người,
ngôn ngữ cũng như đời sống, kì diệu biết bao, sức biểu hiện cũng vô
cùng tận.
Công việc của nhà văn là phát hiện cùng khai thác cái tiềm năng còn cất
giấu đó
của ngôn ngữ. Nhà văn không phải là chủ tể của tạo vật, lại chẳng thể
phế trừ
được cái thế giới này, dù cho cái thế giới này đã cũ mục đến thế. Nhà
văn cũng
bất lực trong việc thiết lập một thế giới lí tưởng mới, cho dù cái thế
giới
hiện thực này quái đản đến thế, mà cũng chẳng ai đủ trí tuệ để lí giải.
Tuy
nhiên, nhà văn chắc chắn có thể ít nhiều làm ra vài truyện kể mới mẻ,
hoặc nói
thêm vào chỗ người trước đã nói, hoặc lại mở đầu nói ở chỗ người trước
đã ngưng
nói.
Lật nhào đối với văn học chỉ là lối nói rỗng
tuếch của cách mạng văn học. Văn học không chết đâu, và nhà văn có đả
cũng
không đảo được. Mỗi nhà văn trên giá sách đều có một vị trí của mình,
chỉ cần
vẫn có độc giả tới đọc là nhà văn lại sống. Nếu một nhà văn có thể lưu
lại một
quyển sách sau này còn có thể đọc lại trong cái kho văn học đã phong
phú như
thế của loài người, thì cũng đã là một niềm an ủi không gì lớn lao bằng.
Thế nhưng, văn học chỉ thành hiện thực và thú
vị trong khoảnh khắc thời gian nhà văn viết và độc giả đọc. Viết cho
tương lai,
nếu không phải làm dáng, thì cũng chỉ là dối mình lừa người. Văn học là
vì
người sống, hơn nữa, là khẳng định cái hiện tại đối với người sống. Cái
hiện
tại vĩnh hằng này, xác nhận đối với đời sống cá nhân, đó mới là lí do
không thể
lay chuyển được để văn học là văn học, nếu như ta khăng khăng tìm kiếm
một lí
do cho cái tự tại lớn lao này.
Khi không lấy việc viết làm kế mưu sinh, hoặc
là lúc hứng thú viết đến quên cả vì sao mà viết và viết cho ai, viết
như thế
mới biến thành cái cần thiết trọn vẹn, không viết không được, văn học
từ đó mới
ra đời. Văn học không vụ lợi như thế chính là tính gốc của văn học.
Viết văn
biến ra một nghề là kết quả chẳng đẹp gì của phân công trong xã hội
hiện đại,
và đối với nhà văn, là một trái đủ đầy đắng cay.
Nhất là ngày nay, giáp mặt với thời đại mà
kinh tế thị trường không còn lỗ nào không vào, và sách đã thành hàng
hóa. Giáp
mặt với cái thị trường mù lòa không biên giới, không khe hở kia, khoan
nói một
nhà văn một mình lẻ loi, ngay các văn xã và phong trào thuộc các trường
phái
văn học cũng không còn đất đứng. Nhà văn nếu không muốn chịu ép theo áp
lực của
thị trường, không rơi vào chỗ sáng tác sản phẩm văn hóa để thỏa mãn
khẩu vị
thời thượng, thì không thể không tự tìm đường sống. Văn học chẳng phải
là sách
bán chạy, hoặc danh sách sắp hạng, và những nhà văn trên truyền hình là
làm
quảng cáo chứ không phải viết văn. Tự do sáng tác không phải là ơn ban
xuống,
mua cũng không được, mà trước hết đến tự cần thiết nội tâm của chính
nhà văn.
Bảo rằng Phật tại tâm không bằng bảo tự do tại
tâm, và tùy bạn có dùng nó hay là không dùng. Nếu như bạn đem tự do đổi
lấy bất
cứ một cái gì khác, thì con chim tự do bay đi mất, đó là cái giá của tự
do.
Nhà văn, sở dĩ chẳng màng đến đền đáp mà viết
điều mình muốn viết, không phải chỉ khẳng định đối với bản thân, mà tự
nhiên
còn là một lối khiêu chiến với xã hội. Nhưng lối khiêu chiến này không
phải là
làm dáng và nhà văn không cần tự thổi phồng thành một anh hùng hoặc đấu
sĩ. Anh
hùng hoặc đấu sĩ sở dĩ phấn đấu, nếu không vì một sự nghiệp vĩ đại, thì
là muốn
một áng công huân, đó là những việc bên ngoài tác phẩm văn học. Nhà văn
nếu đối
với xã hội cũng có lối khiêu chiến của mình, thì đó chẳng qua chỉ là
một áng
ngôn ngữ, và lại gửi gấm trong nhân vật và tình tiết của tác phẩm mình,
bằng
không thì chỉ có thể làm hại cho văn học. Văn học chẳng phải là tiếng
la hét
giận dữ, lại càng không thể đem cái phẫn khái của cá nhân biến thành
lời buộc
tội. Tình cảm cá nhân của nhà văn chỉ có hoá giải trong tác phẩm thành
ra văn
học, mới kinh qua được sự hao mòn của thời gian mà sống dài lâu.
Cho nên, bảo rằng nhà văn khiêu chiến với xã
hội không bằng nói tác phẩm mới là khiêu chiến. Những tác phẩm bất hủ
có thể
dài lâu đương nhiên là một sự trả lời mạnh mẽ đối với thời đại và xã
hội của
nhà văn. Nhà văn ấy, việc làm ấy, rầm rĩ thì cũng đã tiêu ma ngậm ngùi,
chỉ còn
tiếng nói của tác phẩm kia, chỉ cần có người đọc là lại cất lên.
Đúng là, lối khiêu chiến ấy chẳng thay đổi
được xã hội. Đó chẳng qua chỉ là một mong mỏi cá nhân muốn vượt qua một
loạt
những hạn định của sinh thái xã hội, làm ra một thế đứng nhỏ nhoi,
nhưng thế
đứng đó rốt ráo ít nhiều chẳng phải là tầm thường, đó cũng là chút kiêu
hãnh
làm người. Lịch sử loài người nếu chỉ do những qui luật không thể biết
điều
động bên trái bên phải, những trào lưu mù loà đến rồi lại đi, mà chẳng
nghe ra
tiếng nói khác nhau của cá nhân thì thật là buồn. Theo nghĩa đó, văn
học chính
là bổ sung cho lịch sử. Những qui luật lớn lao của lịch sử khi không
thể giãi
bày loài người được, thì con người cũng có thể lưu lại tiếng nói của
chính
mình. Loài người không phải chỉ có lịch sử, mà còn lưu lại văn học. Ấy
cũng là
con người phí không còn gìn giữ được chút tự tin thiết yếu.
***
Thưa các viện sĩ tôn kính, tôi cảm tạ quí vị
đã đem giải Nobel kia cho văn học, cho văn học không tránh né khổ nạn
của loài
người, không tránh né áp bách của chính trị mà lại chẳng chịu làm đầy
tớ cho
chính trị, cho văn học độc lập không dời đổi. Tôi cảm tạ quí vị đem
giải thưởng
danh dự bậc nhất đó cho tác phẩm cách xa thị trường lao xao chẳng được
chú ý
nhưng lại đáng đọc qua. Đồng thời, tôi cũng cảm tạ Viện Văn học Thụy
điển cho
phép tôi bước lên giảng đàn được cả thế giới ngó vào này, nghe tôi nói
chuyện
một lần, cho phép một cá nhân yếu ớt giáp mặt với thế giới cất lên
tiếng nói
nhỏ nhoi thường chẳng được nghe trước công chúng mà cũng chẳng đáng
nghe. Tuy
vậy, tôi ngỡ, đó chính là tông chỉ của giải Văn học Nobel. Xin cảm ơn
quí vị
cho tôi một cơ hội như thế.
Dịch xong ngày 24.1.2001 tại Toronto, Canada.
Bản dịch phổ biến tự do.
Nguyễn Tiến Văn