Tuyệt
Bi
Tặng Alexis
Philonenko
Tuyệt
Bi (Bi kịch Tuyệt đối) cực hiếm. Nó là một mẩu văn
chương (hay hội họa, hay âm nhạc) được tạo thành thiết yếu từ một tiền
đề, đời
người là số kiếp. Nó tuyên bố, theo kiểu định đề, rằng tốt nhất đừng
sinh ra,
hay là, chót lỡ sinh ra, đành chết trẻ. Một kiểu mẫu thậm oan khiên về
phận
người, coi con người có mặt trên cõi đời như những kẻ lén vào chẳng
(mong)
muốn; những sinh vật mà số kiếp phải trải qua đau khổ - không đáng bị,
không
thể hiểu được, rất đỗi khơi khơi - và thất bại. Tội tổ tông, cho dù
theo kiểu
Adam hay Prométhée, không thuộc phạm trù tuyệt bi, bởi vì trong đó chứa
tới hai
khả thể: động cơ và sự cứu rỗi sau cùng. Trong tuyệt bi, là tội ác của
con
người: rằng nó có đó, rằng nó hiện hữu. Sự hiện hữu trần trụi, và bản
mặt của
nó, tự thân là điều xúc phạm. Từ đó, tuyệt bi là một bản thể học phủ
định. Thế
kỷ của chúng ta đã đem đến cho nghịch lý trừu tượng này một màn diễn
hiển
nhiên. Trong thời kỳ Lò Thiêu, những người Gypsy hay người Do-thái đúng
là đã
phạm tội ác làm người. Tội ác liên quan tới định nghĩa về sự kiện
(được) sinh
ra. Do đó, tận diệt, ngay cả những kẻ chưa sinh. Vào đời có nghĩa là
vào với
tra tấn và tử vong.
"Tuyệt
bi" - như một viễn ảnh triết học có hệ
thống, hay như văn chương được sản sinh từ viễn ảnh đó - rất hiếm, bởi
vì nó
thật khó kéo dài, không kham nổi. Pascal xúi chúng ta hãy tỉnh thức bởi
vì
"Chúa đang hấp hối, cho đến tận cùng của thời gian." Nhưng không ngủ,
nhân loại trở nên khùng. Hậu quả thật là nghiêm ngặt, tuyệt bi xúi: nên
tự tử.
Nó không chấp nhận chuyện hữu lý, hay điều trị bằng ngôn từ dù triết
học, hay
mỹ học. Nó không trông chờ một cải thiện thực tiễn. Tại sao lại viết
kịch (vẽ
tranh, soạn giao hưởng) nếu chỉ dấy lên hư vô? Hư vô làm trắng tội, chỉ
có nó
triệt tiêu lỗi lầm [được] sinh ra. ("hư vô" bám riết từng chữ trong
Vua Lear, "xóa sạch" là trụ cột những ngụ ngôn của Beckett). Riêng về
hình thức, chúng ta phải nhìn nhận một điều, một kiểu mẫu ý thức, hay
cảm tính
cực kỳ bi đát, là điều không thể hiển nhiên, chưa được bầy tỏ. Một nam
hay một
nữ, bị vây khổn bởi niềm tin, rằng chẳng ai mong mi có mặt ở trên cõi
đời này,
kẻ đó tìm sự im lặng, hoặc cái chết. Tội tử hình đâu cần viết ra, khi
được tự
do lựa chọn.
Khi
phải
phán về tuyệt bi, về một con người không được ở nhà trong cõi tồn sinh
[1], màn
diễn - mẩu văn, mẩu chuyện, mẩu triết ngôn, mẩu thông báo mang tính tâm
lý - sẽ
chỉ là tản mạn. "Tản mạn" ở đây, có một nghĩa đặc biệt. Bi kịch thực,
câu chuyện-Kafka, đường tới hư vô, nẻo về tự sát: chúng hoàn tất chỉ
nhờ cái vỏ
bề ngoài. Hiển nhiên, chỉ một mẩu. Không thể dài, bởi vì viễn ảnh mà nó
cưu
mang thực không chịu nổi, bởi vì chiêm ngưỡng, cũng đành chấp nhận vực
thẳm,
cho dù chân thật, cho dù không phải những trò dàn trải tình cảm, những
ẩn dụ
nhằm tự hạ mình: chúng đều đẩy chúng ta tới mép bờ. Sự đối đầu của lý
trí và
hình thức với tận điểm của phi lý, hay trò sa-đích [lại Pascal [2] ở
đây, trong
hình ảnh của ông về "cái chết và mặt trời"]: chỉ kéo dài giây phút,
nếu trọn vẹn. Tiếng kêu trầm thống đó, con người chỉ có thể bi kịch
hóa, giả
tưởng hóa, bằng phương tiện ngăn kéo: nén chặt nó lại. Không-điểm là
vậy: một
điểm, thu gom mọi tối đen vào nó. Muốn chịu nổi sự xét lại, chỉ cần
(rất hiếm
hoi) dàn trải năm ba hồi cho một bi kịch, vài đoạn cho một câu chuyện
ngụ ngôn,
một bi ca, một bầy tỏ ngắn gọn (như của Swift hay Artaud). Hiện nay,
phát ngôn
viên tuyệt bi, là một nhà châm ngôn (Cioran). Chỉ có tản mạn, ở đó hoàn
tất là
cắt xẻo, là chấm hết - nhờ vậy mà được miễn dịch, dưới ánh sáng.
Hiển
nhiên - phần lớn bi kịch Hy-lạp không tới được chúng ta
- bảng danh sách bi kịch thật ngắn ngủi. Nó gồm có, loại đầu bảng: Vua
Oedipus
và Antigone của Sophocle, một số kịch của Euripide như là Medea,
Hecuba, Những
Người Đàn Bà Thành Troy, Bacchae; nút chính trong Faustus của Marlowe;
Timon of
Athens của Shakespeare; Bérénice của Racine (tuyệt bi chủ yếu là ở câm
nín, và
kín bưng của nó) và Phèdre của Racine; The Cenci của Shelley, cùng với
mô phỏng
của Artaud; Woyzeck của Buchner; những "lỗ đen" trong guignol [3] và
những độc thoại của Beckett.
Chỉ
trong những kịch đó và một dúm giả tưởng và những màn
nói hay vẽ - những họa phẩm chót của Goya, Wozzeck của Alban Berg -
xuyên qua
chúng, lập luận về tuyệt bi được suy tưởng chiêm nghiệm, được trình
diễn, một
lần rồi thôi. Chỉ trong một dúm văn bản, chúng ta nhận ra, tràn đầy ở
trong đó,
là ý niệm về đời người như một trừng phạt mà chẳng cần luật lệ, một mẩu
chuyện
tếu thô bỉ nhắm vào con người, hay là, mượn một bảng hiệu đã được cả
hai
Dostoevsky và Nietzsche sử dụng, viễn ảnh thực tại như đã được chỉ ra
một cách
tuyệt vời qua sự tra tấn nhẩn nha một đứa bé, hay một con vật. (Trong
Cái Chết
Của Bi Kịch, tôi đã không chi li về sự khác biệt, cũng không nhìn ra
đâu là
giới hạn của bảng phân loại bi kịch).
Trong
những màn diễn, sức bật tự nhiên, là của bi-hài kịch.
Chất người bầy ra, được bắt chước, được văn phong hóa, được lựa chọn
theo số
nhiều. Nơi nào có điêu tàn, lang bạt, thiếu quê hương; ở đó có lạc thú,
hy
vọng. Sự thực sinh động, chốn chung chạ thiết yếu cho sống còn của con
người
được nhìn qua chuyển động nào đó của con lắc đồng hồ, hay một chuyển
động đồng
thời như thế. Ngay đúng vào phút giây Agamemnon bị sát hại, hay Hamlet
trúng
độc, một đám cưới, một bữa ăn được san sẻ rất đỗi hòa bình, hay trong
trang
trọng, đang xẩy ra tại một nhà nào đó, không xa tòa lâu đài, biết đâu ở
trong
một căn phòng tòa lâu đài, chẳng đỗi cách biệt phòng tắm vương giả, hay
nơi
xung đột. Kinh nghiệm đời thường xác nhận nó là vậy, và kịch nghệ nắm
lấy hiểu
biết này.
Hết
đỗi bi, bằng nút thắt hay bằng trình diễn: bi kịch
Hy-lạp có vẻ "tuyệt đối". Nhưng đây chỉ là một ảo tưởng thị giác. Với
một ngoại lệ hết sức quan trọng, chúng ta biết không có một bộ ba [4]
đầy đủ mà
chỉ là những đoạn rời. Oresteia là một hài kịch, commedia, theo nghĩa
chân xác
và ngắn gọn mà Dante đã đem đến cho từ này. Nó dẫn dắt, nó chấm dứt
bằng xá
miễn và bằng hy vọng mang tính chính trị-cá nhân. Chúng ta không biết
kịch-bộ-ba-như-tranh-tam bình [5] của Aeschylus là một trường hợp ngoại
lệ hay
là một chuẩn mẫu. Điều mà chúng ta biết, đây là dàn dựng một bộ ba
Hy-lạp,
những huyền thoại bi đát - chồng chéo hoặc tách rời - tiếp theo sau
bằng một
biếm kịch. Như chúng ta có thể biết được cho tới nay, khúc bạt này châm
chích,
diễu cợt, tóm bắt chất bi trước đó qua những thành phần của kịch, vào
vài nét
biếm họa, vài cú chọc cho nó xì hơi, xẹp xuống. Chúng ta không biết, về
hiệu
quả của phản ứng ngược này. Nhưng thật khó nói, rằng biếm kịch đạt hiệu
quả
triệt để, đảo ngược cái nhìn bi, làm bật tiếng cười, bằng sự trái cựa
thô bạo.
[Người nào còn nhớ sự thay đổi tuyệt vời của kịch sĩ Lawrence Olivier
trong vai
Mr. Puff, nhảy bổ lên sàn chỉ trong vài giây hề - cho dù có vẻ như vậy
- của
Sheridan, sau tiếng rú và cuộc tắm máu kết thúc màn diễn Oedipe, người
đó sẽ có
một ý nghĩ về "tu tận hoan" [6] sau tai ương bi thảm; đây có thể coi
như yếu tố quyết định của kịch bộ tứ [7] mang chất Nhã-điển [8]].
Thí
dụ lấy từ Shakespeare lại càng trinh nguyên, rõ nét.
Theo Dr. Johnson, nếu mở rộng "hài kịch", theo ý nghĩa và cách sử
dụng của Dante và Balzac, chúng ta sẽ khám phá ra, chất bẩm sinh của
kịch
Shakespeare không cho bi mà cho hài, đó là mầm sáng của kịch. Chưa bao
giờ sức
tưởng tượng tạo hình lại gây được ấn tượng mạnh mẽ, về một tiếng hát
lưỡng tính
cao vút của cuộc đời, về sự trộn trạo giữa hy vọng và chán chường, đông
và
xuân, giờ tý và buổi đứng ngọ đời người. Hầu như không có gì trong kịch
Shakespeare là đơn tính, hoặc chỉ một bản chất, một hậu quả. Dùng một
trong những
hình ảnh của riêng ông, về sự ám muội nhập nhằng hai mặt hoài hoài
trong thực
tại: có tiếng cười ở ngay cổ họng của cái chết. Từ đó, chuyển động bi
hài nền
tảng của tinh thần và của nút thắt, ngay cả ở trong những bi kịch lớn -
một
chuyển động mà sức mạnh đời sống không loại trừ những cực điểm của cơn
hấp hối,
và sự bất công.
Scotland
sẽ tái sinh, vương triều hợp pháp sẽ tiến tới vinh quang, sau cái chết
của
Macbeth. Với chúng ta, rõ ràng xứ sở Cyprus
sẽ được cai trị một cách trang nghiêm, một cách hiệu quả bởi Cassio,
như nó
chẳng hề được như vậy với Othello. Fortinbras sẽ là một ông vua nặng
nề, phàm
phu hơn so với Hamlet, tổn thất thật nhiều mặt, nhiều nơi, nhưng những
tháng
ngày sẽ tới, xứ Denmark qui về một mối, người dân được cung cấp những
dịch vụ
xã hội. Lear là một thách đố hiển nhiên
một cách đọc đại cương như thế. Cuộc hành quyết Cordelia hình như đã
đóng lại
cuốn sách của cuộc đời và của lẽ phải. Nhưng tiếng nhạc cuối sao thật
kỳ bí,
qua những âm thanh e ấp giã từ. Cái xấu cái ác đã bị huỷ diệt, một cách
khủng
khiếp. Vương quốc lại có được sự thống nhất. Gần như luôn luôn có một
nốt nhạc
ân sủng, không khác chi một lời nguyện cầu, in pacem [9], không chỉ ở
đoạn cuối
của riêng Lear, mà còn ở trong những trích dẫn, hay tóm gọn, mà nó đề
ra. Những
ghê rợn như vậy sẽ không tái diễn.
Độc
nhất "đen tuyền" ("đen trên đen"),
theo tôi, là Timon of Athens, một khối không ngừng gây lầm lạc, ngỡ
ngàng.
Trong bản văn méo mó, gợi hứng một cách lạ lùng này, vũ trụ được tạo
thành như
là một cái đích, của những lời nguyền rủa thậm tệ. Không một hành động
tốt nào
mà không bị trừng phạt. Không một thiện ý nào không gây diễu cợt, làm
nhỏ máu.
Đời người tiếp nối, sinh sinh nở nở, chẳng là chi, nếu có chăng, chỉ là
những
gây gổ ngu đần đưa tới đau thương và phản bội. Dứt khoát là vậy, trên
những mộ
bia rõ ràng chờ biển cả sói mòn, Timons hứa hẹn "cáo chung của ngôn
ngữ". Cho tới nay, như tôi hiểu được, đây là một lần, và một lần độc
nhất
William Shakespeare dóng lên hồi chuông báo tử của ngôn ngữ; bậc thầy
vô địch
về ngôn ngữ, hiểu rõ đó là trụ cột của nhân loại, là khí cụ để định
nghĩa con
người, địa vị của nó trên thế gian. Ở đây, một lần rồi thôi, chúng ta
thấy hư
vô chủ nghĩa, số không, tuyệt bi đóng lại.
Chúng
ta nghe thấy nó, không một chút hàm hồ, ở Racine. Ông
ăn dầm ở dề nơi huyền thoại cổ xưa đâu chỉ vì khiếu thưởng ngoạn tân-cổ
điển.
Như những bậc thầy Jansenists [10] và những địch thủ của ông, Racine
coi những
kẻ tội lỗi đẩy tới thất vọng, tới trầm luân trước khi Christ tới: những
kẻ đọa
đầy đặc thù, vô phương cứu chữa. Từ đó, cơn tuyệt vọng thảm thương của
Phèdre
khi thoáng nhìn ra con đường xuống Âm Cung của mình. Trong niềm tin bi
đát vào
Chúa của Racine, những kẻ trầm luân này sẽ chẳng bao giờ có được một sự
cứu
chuộc thông qua ân sủng. Athalie chết dưới lời nguyền của Cổ Luật; bóng
ma đầy máu
của nàng sẽ hoài hoài than khóc. Racine có thể kết tinh, "như qua một
tấm
kiếng tối đen", toàn thể sự thừa thãi bi thảm và nỗi thống khổ, vào
chỉ một cử chỉ, hay một chuyển động.
Trong những khoảnh khắc không một tiếng động này, tận thế là đây, vũ
trụ -
những nhân vật thượng thừa của Racine bầy dựng nên - tiến tới điểm
ngưng. Chẳng
có chi ở trong đó, nếu có chăng, là nỗi thống khổ thê lương; không một
thì thào
chữa trị, không một sinh khí của ngày mai. Vũ trụ (và điều này không
thể chấp
nhận được ở Shakespeare, ngoại trừ trong Timon) trở nên một toàn thể bi
đát
đóng băng. Tôi coi Bérénice là viên đá mẫu của tuyệt bi trong văn
chương
tây-phương hiện đại, chính vì cái bề mặt lặng lờ, chính vì sự níu lại,
về mọi
lối ra, mọi cảnh báo, về những cánh rừng đang đi, hay những cơn bão tố
gào
thét. Một người đàn ông một người đàn bà nói lời từ giã. Thiên thu,
vĩnh viễn.
Trong cơn tận, mọi ánh sáng cùng một lúc được thu gom để tắt ngấm. Như
trong
một viên ngọc, của một mầu đen huyền, tuyệt, tuyệt.
Chẳng
có một tí dấu vết của công lý hay của cảm thông, những
chiến thắng thô bỉ, sa-đích, trong Cenci của
Shelley. Với nhân vật Woyzech của Buchner, cũng
chẳng lấy đâu ra
phẩm giá và niềm an ủi, về một điều gì được bầy tỏ một cách rõ ràng
(một điều
vốn luôn luôn dũng mãnh trong Shakespeare). Anh ta lẩm bẩm trên đường
tới cái
chết rỗng. Nhưng tôi nhắc lại: những đề nghị và những đoạn đọc đơn
tính, nhất
nguyên này, về hiện sinh, thật quá hiếm hoi. Cuộc đời, như chúng ta cảm
thấy:
rằng nó bình thường, rằng nó mang tính phạm trù, cho dù theo ý nghĩa
sinh học,
xã hội, hay tâm linh, nó "không như thế đó". Và trong kịch, có lẽ hơn
bất cứ một thế cách trình diễn nào khác, cái như là, điều xác tín, sức
quy tâm
tiềm ẩn bên dưới nguyên lý thực tại: chúng thật lì lợm, dai dẳng. Như ở
trong
những hùng ca Homer, vốn là nguồn của kịch. Niobe nhìn mười đứa con của
mình bị
sát hại. Nỗi bi thương của bà làm cho đá bật khóc. Nhưng dịu dần, bà
chịu ăn
uống. Homer nhấn mạnh vào điều này. Đó là sự xen lấn của sự thực sáng
chói, vốn
cũng là trung tâm của (kịch) Shakespeare. Hữu cơ là bi-hài, ở ngay nơi
chắt
chiu nhất của nó [11]. Từ đó, bi tuyệt bi, sức người chịu không nổi;
không chỉ
như vậy: nó là đồ dởm, so với cuộc đời.
Phê
phán bi huy động cả hai, nhận xét thực nghiệm và tình
cảm tự do. Giờ đây, vì những lý do thật quá hiển nhiên, và u tối, nó
cần được
tra hỏi.
Thế
kỷ này đã và đang chứng kiến lễ hội thú. Đây là thế kỷ
của những trại tử thần, những cánh đồng giết người, những phương sách
mang tính
hệ thống về tra tấn, những chế độ chính trị và những xã hội có những
cách chiêu
dụ thật đa dạng. Thời đại của chúng ta là của nạn đói-hàng loạt, của
những tống
xuất và cầm giữ con tin. Sự khả thi về một cuộc chiến nguyên tử và sinh
học, sự
huỷ hoại trái đất, tất cả có nghĩa, tình huống sau cùng - nhân loại tự
huỷ diệt
bằng chém giết, và một thảm họa sinh thái - không còn là những ngông
cuồng giản
đơn của điều tưởng tượng ghê rợn. Thu và Đông 1989, cùng với sự sụp đổ
của bức
tường Bá-linh, đã đem ánh sáng ban ngày, thật không trông mong, gần như
nhiệm
mầu, tới những khu vực Trung và Đông-Âu. Không khí mát dượi. Nhưng
trước buổi
rạng đông, và điều này thật đáng cho phần lớn cái phần còn lại của nhân
loại:
sự khôn ngoan muốn, rằng phải tin Kafka có lý, khi ông chiêm nghiệm
thật cay
đắng, độc địa "có hằng hà sa số hy vọng, nhưng không cho chúng ta, dù
chỉ
một": không cường điệu, đây là một thông báo nghiêm trọng.
Nếu
chúng ta có thể, nếu phải ôm riết lấy nhận thức này, nếu
phải "suy tư" (theo nghĩa năng nổ mà Heidegger đem đến cho từ này):
liệu chăng, tái sinh bi kịch là một hệ quả khả hữu có thể xẩy ra, do
tiềm lực,
do tương tự? Ngẫu nhiên tính về những điều xẩy ra, hoặc tình cờ hoặc
cũng chẳng
có chi là quan trọng, cộng thêm khí hậu cảm tính của con người khi nóng
khi
lạnh, nói: chúng chống lại một sự tái sinh như vậy. Bạo lực leo thang
và nỗi
thất vọng hiện đại cưỡng lại dạng mỹ học. Nó không thể được nhìn toàn
thể, họa
may như cái xắc của Miletus, hay sự điêu tàn của một bộ lạc vương giả.
Chúng ta
trở nên vô cảm qua chuyện thường ngày của những cú sốc được gói sẵn,
được
phương tiện truyền thông đại chúng khử trùng, và tính xác thật giả tạo
tức
thời. Cùng lúc, cái nhìn trực tiếp như thế làm cho những phương tiện
trình diễn
đòi hỏi sự cần cù nhẫn nại, trở thành buồn chán, mang vẻ cổ xưa. Như
một tiên tri,
lời mở đầu Faust của Goethe đưa ra vấn nạn: một cảm tính, một hệ thần
kinh và
tri thức được điều hợp theo nhịp độ, theo khối lượng khổng lồ tức thời
và những
giản đơn ngắn gọn, của cái gọi là báo chí (chuyện "thường ngày"),
liệu có thể đáp ứng được những nhịp điệu biểu tượng vô thường của kịch,
bi đát
hay triết học?
Về
mức độ (làm sao phù hợp với) qui ước xã hội, sự tế nhị
của tinh thần và con tim, người ta có thể khẳng định, như vốn đã khẳng
định,
rằng ngay với những tầm cỡ phi nhân như chúng ta đã từng đưa vào tác
phẩm, từng
kinh nghiệm, trong lịch sử vừa đây, rằng chức năng vô danh, máy móc của
chủ
nghĩa sa-đích tập thể [12] hiện đại, và sự đàn áp - chúng áp đặt một
điều: hãy
câm nín. Vấn đề là, nghệ thuật, sự hùng biện, hình thức được kiểm tra,
ngay cả khi bắt nguồn từ cơn giận giữ của
con người
và từ hy vọng sáng chói - chúng chỉ là những trò điểm trang, làm dáng,
không
thể tránh được. Liệu chăng, nghệ thuật sẽ rủi ro: vinh danh trò man rợ?
Tiếng
kêu ngắc ngứ từ cái miệng đen ngòm trong ngụ ngôn Beckett có thể coi
như là một
đáp ứng; đừng coi thường một tiếng thét không trọn vẹn như thế (khác
với tiếng
kêu kịch tính trong Guernica của Picasso).
Đó
là những chuẩn mẫu có giá trị, và đáng tin cậy về mặt tâm
lý, chống lại bi đát. Chúng soi sáng sự kiện, phát minh bi đát hiện đại
thuyết
phục nhất, là ở điện ảnh (trong những tuyệt phẩm của Bunuel, hay của
Bergman,
thí dụ vậy). Điều này, đến lượt lại cho thấy, rằng cái đọc bi đát về
tình trạng
nhân sinh hiện thời sẽ tỏ ra hiệu quả nhất, khi nó chấp nhận, nhưng
khống chế -
vì mục đích sâu hơn của nó - những kinh tế-bề mặt, tính tức thời của
truyền
thông đại chúng thống trị. Khi kịch nghệ thế kỷ hai mươi quay về với
chất liệu
và tiếng nói của bi kịch, nhằm trả lời cho hoàn cảnh hiện thời của
chúng ta, nó
mang tính truy chứng như là chủ tâm của nó. Chính là qua Oresteia mà Hauptmann, T. S. Eliot, O'Neill, Sartre
tìm cách nói lên tình cảm của họ về những hỗn loạn và những trò sát
nhân hiện
đại. Chính là qua Những Người Đàn Bà Thành Troy và
"kịch sống động" mà Sartre bầy tỏ thái độ về
chiến tranh
tại Algeria và Việt Nam. Hiện đại hóa theo nhiều dạng, Bacchae đã phục
vụ một
thế hệ, trong việc tìm cách nghiên cứu theo lối biểu tượng, tìm một
nghĩa nào
đó, cho văn hóa-ma tuý và trẻ-hoa [13]. Oedipus, Elektra, Prometheus đi
tới đi
lui trên sàn diễn hiện đại, từ Gide và Cocteau tới Robert Lowell. Những
Antigones sinh sôi nẩy nở trong một thời đại vốn chứng kiến những cái
chết chôn
sống, và sự từ chối kinh tởm một nấm mồ, cho những kẻ thù và nạn nhân.
Nhưng
những tái sinh tái động này, những hiện diện cổ xưa thật nhanh chóng
như thế
đó, thật hấp dẫn, thật tỉ mỉ, thật giầu có, như chúng vốn luôn luôn là
vậy
(nhất là ở trong opera hiện đại): chúng không tạo nên, không thể tạo
nên một
cách trình bầy, một cách nhập thân, của bi kịch - nguyên sản, tự nhiên
- cho
hoàn cảnh của chúng ta. Sự thực mà nói, đa số những chấn động ma quái
của
Oedipus, Orestes hay là Elektra, là do nhân chủng học và phân tâm học
của Freud
đem tới thế kỷ hai mươi. Hầu hết kịch bi đát mới đây, nói theo nghĩa
của Yeats,
chỉ là bắt chước khùng điên, một buổi phụ đồng (séance) [14] phù thuỷ,
nhiều
hay ít. Khi có quá nhiều máu: nhung nhúc những hồn ma. Nhưng chúng vẫn
chỉ là
những hồn ma. Người ta trực giác ra một điều, sự thiếu khả năng "làm nó
trở nên mới" [15] của chúng ta, đã có những lý do ở ngay trái tim của
hiện
đại tính.
Về
những thể loại văn chương tây-phương, và điều này cũng
chỉ của riêng nó, kịch bi đát thật gần gụi với tôn giáo. Chúng ta biết
rất ít
nguồn gốc của nó, và cái rất ít này nói cho chúng ta biết về thụ thai
thánh, về
nghi lễ thiêng. Nội dung huyền thoại thực tiềm ẩn trong kịch Hy-lạp,
kịch
tân-cổ điển, và hầu như toàn thể kịch bi đát thế kỷ hai mươi, chúng đều
là
những cuộc đụng độ sinh tử với những tác nhân siêu nhiên của số mệnh,
với những
va chạm, rung động siêu việt, với những sự can thiệp "khác con
người", theo một trật tự hàm hồ hoặc mang tính huỷ diệt. Bất khả tri
luận
trong kịch Shakespeare so với thần học và siêu hình tính: một điều
không thể
chối cãi được. Nó dẫn tới, như chúng ta đã thấy, mẫu mã bi-hài. Tuy
nhiên ở
đây, là tiền đề: rằng số kiếp nhân sinh phải khổ đau vì những ép buộc,
những
chen lấn theo một trật tự vượt ra khỏi cõi thực nghiệm, cõi thuần lý:
số mệnh
muốn như vậy. Làm sao có Hamlet, nếu không có Bóng Ma?
Sẽ chẳng có Macbeth, nếu thiếu Những Hiển
Linh. Thế giới-Lear ngổn ngang những sức
mạnh, những tác nhân xa lạ với con người.
Sự
trộn trạo giữa bi kịch và những phạm trù tôn giáo có
những nền tảng ngay từ đầu và thật tầm thường. Nghiêm ngặt tưởng tượng,
cặn kẽ
tra hỏi, những phỏng đoán về nguồn gốc khổ đau con người, bản chất của
Cái Xấu,
của điều bất hạnh không sao giải thích nổi, hay sự thành công đạo đức
không sao
chấp nhận: chúng đều có nội dung tôn giáo. Cũng sẽ là vậy, mọi toan
tính làm
sao cảm nhận ý niệm "bao dung, bất đắc dĩ phải chấp nhận", về đàn ông
và đàn bà vốn sinh ra như thế [16], một khi họ ăn ở chung chạ không hợp
pháp
(cf. trầm tư bằng tiếng hát, về sự dã man của con người trong Antigone
của
Sophocle, hy vọng tả tơi của con người trong đoạn cuối Bacchae, Timon
trên bãi
biển, Woyzeck tìm cách giải mã tiếng khóc của những hòn đá câm, và chết
đuối
giữa những đám sậy rì rầm). Tự yếu tính, bi kịch là một hỏi tra, và một
xét
nghiệm hoàn tất về một ông trời vốn thiện, vốn công minh. Nó hỗ trợ, về
những
hồ nghi cơ bản, và những phản đối, trong cuộc đụng đầu giữa nhân bản và
phi
nhân, một khi mà những chỉ định này có hai nghĩa, có một bề ngoài hết
sức thê
lương: chúng truy về một điều gì hết sức dũng mãnh, hết sức dai dẳng,
còn xa
xưa hơn cả loài người, và về một điều, hiển nhiên, không chia sẻ (quan
niệm)
đạo đức, cảm thông, những bài kiểm tra lương tâm, những ân sủng của tha
thứ và
lãng quên ở nơi con người. Artemis của Euripides, bị chường ra trước
cơn hành
hạ tới chết đứa con thân yêu của mình là Hippolytus, bà đã quay mặt đi,
sợ rằng
nỗi khổ đau của con người làm ô nhiễm sự rạng ngời vô cảm của điều
thánh thiện.
(Chúng ta muốn gì, khi để cho Đức Cha bước xuống, hay vắng mặt trong
thời gian
xẩy ra cơn hấp hối của Christ?).
Hỏi
phải chăng, "ông trời giết chúng ta như trò du hí,
thể thao", theo như định nghĩa, là làm cho có thể tin cậy, có thể tra
hỏi
được, bắt buộc phải như thế: có trời, và có trời có ta. Một câu hỏi
tương ứng,
về khả thể một suy luận mang tính thần học-siêu hình học đối với hài
kịch, theo
tôi, là một trong những câu hỏi khó khăn nhất và ít được khai phá nhất.
Chỉ
những tác phẩm như Đêm Thứ Mười Hai, những kịch phẩm của Chekhov, và ở
mức độ
tuyệt cao, Cosi fan tutte, của Mozart, trong đó câu hỏi này đã được đặt
ra một
cách triệt để.
Như
thế, một nhận định về thế giá và tiềm năng bi
kịch trong ánh sáng (hay trong bóng tối)
của hoàn cảnh lịch sử-xã hội hiện thời của chúng ta, bắt buộc phải hàm
chứa một
số đề nghị về chỗ đứng của tôn giáo trong những vấn đề tây-phương đương
thời.
Trong Nietzsche, tuy điều này ít được chú ý, những luận đề đầu tiên về
sự ra
đời của bi kịch, đã tạo một nút thật chặt với ám dụ bi thảm về "cái
chết
của Thượng Đế". Vòng tròn, bên trong nó bản đồng ca bi kịch Attic [17]
được trình diễn, và vòng tròn Qui Hồi Vĩnh Cửu, là bà con. Nếu chúng ta
tra hỏi
về bi kịch hiện đại hay tương lai, tách bạch hẳn với những biến điệu về
những
đề tài và huyền thoại bi đát cổ xưa của những nhà viết kịch thế kỷ hai
mươi, đó
là chúng ta đang tra hỏi về sự nhập-hóa trong tâm thức và trong văn hóa
của
chúng ta, những ghi nhận phức tạp về cái chết của Thượng Đế và sự lu mờ
của tôn
giáo.
Nói
về đề tài này, chỉ có vậy. Những tham chiếu, vốn có một
sức nặng hiển nhiên, về sự trỗi dậy hiện nay của những trào lưu thủ cựu
(hàng
triệu tín đồ thủ cựu điên cuồng ở tây-nam Hoa-kỳ, bị thần nhập, đâu có
thua
những tín đồ Shiites ở Iran); những khẳng định, sức nặng cũng chẳng
thua, về sự
ngạo mạn hết thuốc chữa của quá nhiều khoa học hiện đại và kỹ thuật,
hay về sự
tự mãn tầm phào của tâm lý học và xã hội học, chúng không đi vào trung
tâm (vấn
đề). Câu hỏi hiển nhiên vẫn y nguyên: có hay không một sự hiện hữu của
Thượng
Đế, một sự hiện hữu như thế có giúp gì cho ý nghĩa nhân sinh chúng ta,
và cho
chính sự hiện hữu về một ý nghĩa như vậy: đây là một vấn đề sống động.
Bụi Cây
vẫn chói chang, hay chỉ là món đồ gợi tò mò của tâm lý gia, sử gia,
được tái
sinh chỉ vì những nhu cầu ẩn dụ, do bệnh lý học hồi tưởng? Nếu giả
thuyết sau
sự thực là trường hợp (ở đây), nếu ngay cả một sự khả hữu mang tính vấn
nạn về
sự hiện hữu của Thượng Đế, giờ này tắt ngấm giữa những nhà tưởng tượng
sáng
tạo, những nhà khai phá, những du hành gia "vượt quá" ngôn ngữ thông
thường, những người đã soạn những bi kịch của chúng ta; chúng ta hãy
nói ra một
điều: vậy là thật khó khăn vô cùng, khi tưởng tượng chuyện làm mới, hay
chuyển
kiếp hình thức (kịch).
Hãy
nhìn hai nhà bi kịch hiện đại. Phương tiện thơ ca, nghệ
thuật dàn dựng, sự chọn lựa đề tài của họ làm cho chuyện so sánh với
những bi
kịch gia Hy-lạp và Shakespeare, là điều hợp tình hợp lý. Brecht và
Claudel, cả
hai đều là những tác giả kịch mê-lô [18]. Điều này muốn nói, về cái
nhìn thế
giới của họ, cách thảm kịch hóa những nỗi đau khổ của con người, sự bất
công,
sự lầm lẫn, và ngay cả sự chán chường, như chúng ta nhận ra trong Mẹ
Đảm, hay
Đôi Giầy Sa-tanh, qua bốn hồi bi đát. Hồi thứ năm là sửa chữa, hay cứu
chuộc.
Trong cách thực hành của Brecht, bộ máy bù trù của ông có hai mặt: Sự
khủng bố
và lòng thương hại được thanh tẩy bằng
hiểu biết chính trị, bằng cách làm cho khán thính giả "dửng dưng" sau
cùng hiểu, những nhân vật muốn sao thì được vậy, họ biến chính mình trở
thành
nạn nhân là do tham lam, ích kỷ, hay do mù lòa về chính trị. Thứ đến,
những vở
kịch loại trừ hứa hẹn, về một sửa đổi
tổng quát. Hãy để chủ nghĩa duy vật lịch sử hiện ra trước mặt anh, như
một cột
lửa trong đêm trường tư bản, những biến động bi thảm mô phỏng như đang
xẩy ra
trên sàn diễn với dụng ý đạo đức, chúng sẽ lui dần vào viện bảo tàng
của những
nỗi thống khổ vô ích. Lối hết mình cho ân sủng của Claudel mang tính
thần học
thô thiển. Những vở kịch vỡ bờ [19] của ông là những "bí ẩn thánh
thể" [20], theo nghĩa thời trung cổ và baroque. Đau khổ, mất mát, phẫn
uất
vì yêu là một dẫn nhập dài đưa tới chuyển hóa. Kiểu nguỵ biện đầy hứng
khởi
trong Phân Ngọ, Le Partage de midi, tự thân là một suy tưởng về
Bérénice của
Racine, đã ban vé siêu thoát cho cả chuyện tự sát. Kịch mê-lô là một
thể loại
(kịch) thiên sứ. Vị deus ex machina [21] hiện xuống trước khi màn sau
cùng khép
lại, có thể là Chúa Cứu Chuộc hay viên chính uỷ. Vị này đã sẵn sàng, và
đang
đợi "bên cánh gà" - một nơi chốn thật thích hợp dành cho thiên thần.
Hai
thí dụ trụ cột này đề nghị: chúng ta phải gạn lọc những
định nghĩa của chúng ta. Nội dung tôn giáo và những định đề siêu thoát,
hứa hẹn
cứu chuộc Ky-tô hay xã hội chủ nghĩa không tưởng - tự thân nó là một
tục hóa
mạt thế luận Do-thái giáo [22]- gì gì cũng không sinh sản ra bi kịch.
Chúng là
đề mục được diễn đạt bởi nhà soạn kịch cách mạng Xô-viết Vishnievsky
qua vở Một
Bi Kịch Lạc Quan. Nhìn theo kiểu thần học, trong bối cảnh duy lịch sử
mang chất
tôn giáo về những gì được viết ra, cái mà tôi gọi là "tuyệt bi" không
chỉ giả dụ Sự Sa Ngã Của Con Người. Nó không chỉ miêu tả phận người như
hậu quả
trực tiếp của sự thất sủng mang tính cội nguồn cơ bản, khi mà sự u tối,
khi mà
nửa đêm không thể tưởng nhớ được của thảm họa đầu tiên, tất cả là một
phần của
cơn chấn động chưa ngưng, đúng như vậy. Tuyệt bi làm chúng ta trực
giác, hoặc
mơ hồ hoặc rõ rệt, rằng sẽ chẳng có xuất hiện một đấng Cứu Thế, hay một
tái lâm
của Chúa Ky-tô, cũng chẳng có sửa chữa, bù đắp. Chẳng có tội phước,
felix
culpa, [23] chỉ có thiên thu vĩnh hằng, hết lỗi lầm này tới lỗi lầm
khác, và
phẩm giá - tuy bị nguyền rủa nhưng xuất sắc - của con người, khi từ
chối tự tha
thứ cho mình, hay tha thứ nỗi thống khổ giáng lên hình hài con người
(đây là từ
chối kép trong Faustus, của Marlowe). Mỗi một tuyệt bi (chỉ vài vở
thôi, như
chúng ta đã được biết) tái-diễn sự huyền nhiệm và cơn căm phẫn nóng
bỏng về cái
ác bẩm sinh, về xung động đưa tới đui mù, tới tự huỷ diệt, chúng khắc
sâu vào
đàn ông đàn bà, vô phương sửa chữa. Tiếng la hồ hởi tuyên giáo, vương
miện cho
tấn kịch thế gian của Claudel: "Giải thoát cho những linh hồn ngục
tù", sẽ chẳng bao giờ được nghe, và nếu nghe được, chẳng khác gì một
lời
chế nhạo.
Tôi
coi một cách đọc như thế, về trường hợp nhân sinh, là mang
tính dị giáo. Chúng giả dụ, hoặc là một Thượng Đế không tha thứ, và cơn
căm
giận vì bị xúc phạm của Ngài sản sinh sự trả thù vĩnh cửu; hay là một
biện
chứng nhị nguyên, trong đó nguyên lý phủ định luôn luôn lấn lướt; chừng
nào mà
con người trên hành tinh bị ăn cướp, bị đục ruỗng, còn
liên hệ với nhau. Cả hai, chẳng quan niệm nào
được chấp nhận theo thuyết viễn đích của Do thái-Ky tô
[24]; hay cải thiện luận [25] thế tục, thuần
lý, và điều này thật sinh tử. Định nghĩa một cách riết róng, tuyệt bi
là cung
cách trình diễn của tuyệt vọng. Nó "tội lỗi" chống lại Thánh Linh
[26] của hy vọng. Những từ tuyên ngôn của nó, là "chẳng có gì", và
"chẳng bao giờ", như chúng ta nghe chúng la hú trong King Lear, và
trong ghi nhận tuy ít lời nhưng chẳng kém phần không thỏa hiệp: trong
tiếng
"Vĩnh biệt", "Adieu" [hãy chú ý đến cú đảo
ngược thần học bằng một từ vốn
nhẹ tênh theo qui
ước này [27]], nó tận-ngưng vũ trụ, trong Bérénice của Racine.
Nhưng
ngay cả những dị thuyết quyết liệt nhất cũng đòi hỏi
một phản-hiện diện mang tính chính thống. Tuyệt bi có thể tiếp cận, hay
ẩn dụ
hóa một vị thần linh thối lui, khánh kiệt, què cụt. Đây là những phạm
trù được
khai triển trong Euripides và Beckett. Chúng là những trí trá [28] âm u
ở ngay
trái tim những câu chuyện ngụ ngôn của Kafka. Bi kịch có thể được trình
diễn
trước một Thượng Đế "giấu mặt", như là nó đã được diễn đạt thật cách
thật minh nhiên trong Racine. Ngày nay, vấn đề là thế này: phản-hiện
diện có
thể khả hữu một cách có ý nghĩa hay không? Có thể nào, những qui ước,
và nguyên
liệu mang chất huyền thoại vốn là định đề cho bi kịch, sẽ bừng sống lại
khi vấn
đề, hay vấn nạn về Thượng Đế, là: hoặc Ngài vắng mặt - bất kể điều này
có ý
nghĩa gì - hoặc không còn là vấn nạn nữa, nếu Thượng Đế chỉ là tàn dư
hay bóng
ma của sự phi lý?
Chủ
đề [topos, trope, [29]] Thượng Đế vắng mặt, sau những
lần chôn cất của Nitezsche, hay Darwin, hay Freud, cùng với điều trí
trá
Kabbala [30] về sự Tránh Mặt Của Ngài
sau một cuộc tạo dựng sai lầm, thật cực kỳ trừu tượng. Từ
"trừu tượng" ở đây đúng nghĩa như
vầy: một sự tháo lui khỏi, một sự làm trống vắng. Tuy nhiên, ẩn dụ đắc
địa về
sự trống vắng này có trọng lượng lạ lùng. Nó thật không thể kham nổi,
khi nói
về những cố gắng đem đến cho hiện tượng luận về Auschwitz, bất cứ một
chỗ đứng
nào, trong tầm tưởng tượng và thấu hiểu của con người. Chỉ có mỗi một
nhà thơ,
Paul Celan, là đã tìm ra một diễn tả xứng đáng, cho một "Chẳng ai
hết" [31], đó là Thượng Đế, trong
thời kỳ những lò thiêu. Nghệ thuật đương thời, có - và ở đây, lại một
lần nữa,
"trừu tượng" là một tính từ hùng hồn - nó chạm tới cõi hư vô: sự trần
trụi mang tính hình tượng của nó gợi lên, một cách mạnh mẽ rằng, vừa
mới bỏ đi,
là một hiện diện vốn một thời có giá trị. "Mô-típ" tái đi tái lại, về một bóng ma, bóng hề để
lại, sau khi từ ngôi, tôi đã kể ra rồi,
trong guignol đen thui của Beckett (hay Jarry, hay Pinter).
Nhưng
những hình dạng của dư ảnh trong phòng tối, theo tôi,
không thể tạo nổi những vận động thực chất cho tu từ hiểu theo nghĩa
tích cực
của bi kịch. Sự hờ hững ít hay nhiều có tính hệ thống, và sự không quan
tâm ít
hay nhiều được tổng quát hóa đối với tư tưởng và linh hồn con người, sự
phối
hợp với giải trí - giải trí là chia-trí, dis-traction, tuôn ra từ trừu
tượng -
(rút lui) ab-traction [32] - tăng dần,
sẽ không còn có thể cung ứng lâu dài, ngay cả cho một Thượng Đế "vắng
mặt". Sẽ không cho phép một vắng mặt như thế, (nếu nói về) sự trầm
trọng
đặc thù vốn (bắt buộc) phải có trong nghệ thuật bi đát. Khi mà thần
học, siêu
hình học, cho dù nguồn gốc Do-thái, hay Ky-tô, nhắm tới chuyện trưởng
thành đối
mặt với những sự kiện, những khiêu khích đinh tai mù mắt, của phi nhân,
trầm
luân đời đời, như chúng thông báo (qua) lịch sử mới đây của chúng ta,
chúng
phải tự mở ra một cách phóng khoáng trên con đường dẫn tới giả thuyết
về tuyệt
vọng. Nếu giả thuyết này là một dị thuyết, như vậy là nó đang nằm ngay
tại
trung tâm. Nhưng một khi chính tôn giáo đưa ra một lối đi như vậy, cơn
oán cơn
hờn quằn quại, thách đố, của tuyệt bi bị trơ ra (bởi vì) chẳng còn một
mục tiêu
nào xứng đáng (cho nó nữa).
Thật
điên khùng khi làm chuyện tiên tri (sự tự do mang tính
bản thể học của nghệ thuật luôn luôn là một tự do, của điều bất ngờ).
Nhưng
người ta trực giác rằng: nếu những hình thức bi kịch tiêu biểu (lại)
nổi lên,
nó sẽ khởi từ sự tủi nhục không khoan nhượng, ngay bên trong chính thần
học, từ
sự chấp nhận trần trụi, về thất bại. Có những vận động tâm linh thực sự
vươn
tới đỉnh cao này trong Kierkegaard, trong bình luận của Karl Barth về
Thư về
La-mã (1919). Sự lạnh nhạt, dửng dưng hiện nay đang phổ biến, có thể bị
bẻ gẫy.
Kafka đã viện dẫn một cái rìu-phá-băng, với nó, có thể chạm tới tâm
linh lạnh
cứng. Nhưng ngay cả điều này có thể xẩy ra, những giả tưởng từ đó mà
có, như
người ta linh cảm, chúng sẽ chẳng thể là tuyệt bi hay một kịch mê-lô
cấp cao.
Chúng chắc chỉ gần gụi với một thứ bài tập nào đó, về những kịch tếu
buổi đêm,
phù hợp như một kết từ, hay khoảng thời gian của một lời bạt.
G.
Steiner
[Tuyệt
Bi, Absolute Tragedy, viết năm 1990, được in lại
trong Mê Đắm Chẳng Hoài, No Passion Spent, essays 1978-1995, nhà xb
Yale
University Press, 1996. Người viết có tham chiếu bản tiếng Pháp, xin
coi tiểu
chú số 2, dưới đây]
[1] ... of man
unhoused in being. Tác giả muốn nhắc tới tư tưởng của Heidegger về ngôn
ngữ.
Bản tiếng Pháp:... l'homme hors de la maison de l'être (con người ở
ngoài căn
nhà hữu thể).
[2] Bản dịch tiếng
Pháp sửa là La Rochefoucault (La Tragédie Absolue, trong Passions
Impunies,
Những Đam Mê Không Bị Trừng Phạt, dịch một số bài trong No Passion
Spent, Mê
Đắm Chẳng Hoài, dịch giả Pierre-Emmanuel Dauzart và Louis Évrard, nhà
xb
Gallimard, 1997).
[3] Hình nộm, anh hề
(tiếng Pháp trong nguyên bản).
[4] trilogy.
[5] triptych.
[6] Nhân sinh đắc ý
tu tận hoan: Cao Bá Quát trích dẫn Lý Bạch.
[7] Tretalogy.
[8] Athens
[9] trong an nghỉ đời
đời.
[10] Jansenism: một
dòng tu Ky-tô giáo La-mã, theo khuynh hướng thần học của người sáng lập
là
Corelius Jansen (1585-1638), được hỗ trợ bởi Pascal và Antoine Arnauld.
Những
tín đồ dòng tu này sau bị tước thông công (excommuciated) vào năm 1719.
[11] The organic is
tragi-comic, in its very essence.
[12] Mass-sadism.
[13] Flower-child.
[14] Tiếng Pháp trong
nguyên bản.
[15] “Make it
new” (chữ của Oscar Wilde, CTND).
[16] In a natural
creation.
[17] Thuộc về Attica,
hay thủ đô của nó, là Nhã Điển.
[18] Melodramatists.
[19] Overwhelming.
[20] ‘sacramental
mysteries’.
[21] Thần giáng lơ
lửng bên trên sàn diễn.
[22] Judaic messianic
eschatology.
[23] Sa ngã hạnh phúc
(happy fall), nói về sự Sa Ngã của Con Người, hay tội lỗi của Adam, như
một
chúc phúc do Cứu Chuộc, từ đó, một lỗi lầm bề ngoài, hay một bi kịch,
lại có
những hậu quả tốt đẹp.
[24] Judaco-Christian
teleology.
[25] Meliorism.
[26] Holy Ghost.
[27] Dieu, tiếng Pháp
nghĩa là Thượng Đế. A Dieu (Adieu: Vĩnh Biệt): Phó Gửi Thượng Đế , của
những kẻ
tuyệt vọng.
[28] Conceit, bản
tiếng Pháp dịch là ý niệm (concept), chúng tôi sợ chỉ tới phần trí, bỏ
mất phần
trá, của từ tiếng Anh, conceit.
[29] Topos: vị tướng
học (tiếng Hy Lạp), danh từ toán học. Trope: qui hướng (như trong hoa
hướng
dương), danh từ sinh học.
[30] Mật tông Do
Thái.
[31] No-oneness
(Personne, bản tiếng Pháp).
[32] Trừu: kéo;
tượng: hiện tượng.