Trong
những người nước ngoài gắn bó với Việt Nam, học giả
Pháp Georges Boudarel (1926-2003) có một vị trí và số phận thật khác
thường,
tới mức không thể nói về ông mà tránh lời phán xét. Song lịch sử có
quyền phán
xét một cá nhân bị cuốn vào và trở thành chứng nhân của nó hay không,
một cá
nhân giữa những say mê và thất vọng bởi lí tưởng, những mù quáng, tỉnh
táo và
ân hận suốt một đời? Hết khôn đến dại, hết dại đến khôn. Dù muốn hay
không,
thời điểm lịch sử nào cũng có những Boudarel của nó.
Bi
kịch cá nhân của Boudarel vừa cùng ông ra đi, nhưng bi
kịch lịch sử của cuộc đời và sự nghiệp ông còn lại, với nước Pháp và
với Việt Nam.
Chúng tôi xin giới thiệu một bài viết đăng trên nhật báo lớn Le Monde
của Pháp
khi ông qua đời.
talawas
Jean-Claude Pomonti
Georges
Boudarel: "Tôi chỉ là một thằng ngu" [1]
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Sau một thời gian dài
lâm bệnh, ông Georges Boudarel, sử gia sáng suốt về Việt nam cộng sản,
cựu
chính uỷ theo chủ thuyết Stalin [2] , đã mất ngày thứ Sáu, 26 tháng
Chạp, tại
vùng Paris, thọ 77 tuổi. Cuộc đời ông là câu chuyện của một vị giáo sư
trẻ, say
mê chính trị, theo dòng đời xô đẩy mà trở thành trung tâm của một cuộc
tranh
luận xuất phát từ việc ông từng làm việc trong trại giam tù binh Pháp
của Việt
Minh với tư cách chính uỷ, tức là ở về phía những người cai tù, trong
thời gian
chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.
Sinh tháng Chạp năm
1926 tại tỉnh Loire, xuất thân từ một gia đình công giáo, cử nhân
triết,
Georges Boudarel gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp năm 1947 và cũng năm đó
xuống tầu
sang Đông Dương. Sau hai năm dạy trường trung học Marie Curie tại Sài
gòn, năm
1950 ông vào bưng theo Việt Minh, khi đó ông 24 tuổi.
Cuộc sống trong hàng
ngũ du kích rất gian khổ, như chuyến ông băng rừng vượt núi ra tới miền
bắc
Việt nam. Ông kể lại hành trình này trong cuốn Tự thuật (Jacques
Bertoin,
1991). Được Việt Minh biệt phái tới trại tù 113, ông phụ trách lớp
chỉnh huấn
mà học viên là những tù binh Pháp. Sự bổ nhiệm này là nguồn gốc của
những cuộc
tranh luận sôi nổi kéo dài gần ba thập niên sau đó. Sau những thái quá
của Cải
cách ruộng đất và những cuộc thanh trừng thời gian 1955-56 tại miền
Bắc, thất
vọng về chế độ cộng sản, ông cho xuất bản cuốn Trăm hoa nở trong đêm
Việt nam
(Jacques Bertoin, 1991), mà trong đó ông là một chứng nhân chủ chốt.
Sau đó,
ông tị nạn tại Prague.
Bị nước Pháp kết án
tử hình vì tội bất phục tùng và đào ngũ, Georges Boudarel trở về Pháp
khi sắc
luật ân xá được ban hành vào ngày 18 tháng Sáu năm 1966. Rất rành tiếng
Việt và
Việt nam, triết gia Georges Boudarel trở thành sử gia về Việt nam. Cùng
lúc,
ông chọn vị thế chống chế độ Hà nội. Ông đả kích nó, coi đây là một hệ
thống
tín điều, nhồi sọ. "Vào năm 1975, trước cả lớp triết gia mới, Boudarel
là
một trong số hiếm hoi đã cảnh báo chúng ta về thực tại đẫm máu của chủ
nghĩa
toàn trị", một trong số những tân triết gia ấy phát biểu như vậy với
nhà
báo Dominique Guilledoux (Le Monde số ra ngày 20 tháng Ba 1991). Ông
cũng cho
xuất bản một tác phẩm phê phán chế độ Hà nội "Chế độ thư lại Việt
nam" (L'Harmattan, 1983). Nhưng quá khứ của những ngày ở trại tù 113
tóm
lấy ông ít lâu sau đó, đúng lúc ông đang là phó giáo sư tại Đại học
Jussieu-Paris-VII. Ngày 13 tháng Hai năm 1991, trong một cuộc hội thảo
về Việt
nam tại Thượng nghị viện có Boudarel tham dự, Jean-Jacques Beucler, đại
diện
của cựu tù nhân, đã buông ra những lời bất nhã nhắm vào Boudarel, và
bầy tỏ
"sự khinh bỉ sâu sa nhất" đối với vị sử gia. Cựu bộ trưởng quốc
phòng, và sau đó cả chủ tịch hội cựu tù nhân từ năm 1977 đến năm 1978,
nói
thêm: "Bàn tay ông dính máu. Sự hiện diện của ông ở diễn đàn này là một
điều xúc phạm." Cuộc tranh luận tiếp tục với lời chứng của Claude
Baylé,
tác giả cuốn "Tù nhân trại tù 113" (Perrin, 1991). Ông này kể lại
tình trạng tù bị giam, những binh sĩ kiệt sức, đói lả, ngoài ra còn
phải liên
tục tham dự những buổi tự kiểm điểm mà mục đích chỉ là để tố cáo chính
những
bạn tù và để ban quản giáo hài lòng. Ông giơ tay chỉ thẳng vào Boudarel.
"Một kẻ lí tưởng
chủ nghĩa ư? Không, một thằng ngu".
Cũng như ở những trại
tù khác (xem Tuyên ngôn của trại số 1 của tác giả Jean Pouget, Fayard
1969), số
người chết tại trại tù 113 rất cao, và những người sống sót, được thả
sau hiệp
định Genève năm 1954, ở trong một tình trạng thật là thê thảm. Còn
những người
cai tù, họ cũng chịu cảnh thiếu thốn (thực phẩm, thuốc men) chẳng thua
gì tù
binh, vì vùng này bị quân viễn chinh Pháp phong toả. Vì không công khai
tuyên
chiến, nước Pháp chẳng có một phương tiện nào để bảo đảm cho quân của
mình đang
lâm cảnh tù nhân, thí dụ như buộc đối phương tôn trọng công ước Genève
về tù
binh chiến tranh, hay kêu gọi sự trợ giúp của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế.
Dù thế
nào, cánh cực hữu nhảy vào cuộc, chụp lấy "vụ Boudarel", trong khi
cánh tả bênh vực vị giáo sư nhưng cũng không miễn thứ cho ông.
Pierre-Vidal
Naquet (Le Monde số ra ngày 23 Tháng Ba, 1991), từ chối, "bảo đảm cuộc
săn
người, dù chỉ bằng một sự im lặng." Thỉnh nguyện thư theo thủ tục khẩn
cấp, yêu cầu tòa án ra lệnh rút bỏ một số đoạn trong bài tựa do
Jean-Jacques
Beucler ký tên cho cuốn Tù nhân trại 113 và cái tiểu tựa của nó ("Trại
tù
Boudarel") bị toà bác bỏ. Một tựa đề như vậy biến Boudarel thành kẻ cầm
đầu, trong khi ông chỉ là một bánh xe trong guồng máy.
"Tôi là một kẻ
theo chủ thuyết Stalin, và tôi ân hận về chuyện này, ân hận một trăm
phần
trăm", vị cựu chính uỷ tuyên bố với tờ Le Monde vào năm 1991. Cùng thời
kỳ
này, lúc kết thúc cuộc phỏng vấn trên đài Châu Âu số 1, khi Jean-Pierre
Elkabbach hỏi: "Rốt cuộc, ông là người theo đuổi một lý tưởng...hay chỉ
là
một tên khốn kiếp?", Boudarel trả lời: "Không, tôi chỉ là một thằng
ngu." Những tự phê của Boudarel, dù thế nào đi nữa cũng không thể làm
lu
mờ các lời chứng sống động, cốt tuỷ của ông, không chỉ về tinh thần đối
kháng,
mà còn về sự đàn áp khủng khiếp xẩy ra vào thời kỳ 1955-56, bởi khi đó
những
nhân vật quan trọng trong Đảng thường thuộc phe cổ hủ, mà nạn nhân của
họ là những
chiến hữu bị coi là đã đi sai đường lối chính trị do Đảng đề ra, đứng
đầu là
những tiểu địa chủ, tiểu tư sản thành phố, trí thức, hay những người bị
kẹt
trong những cuộc thanh trừng cục bộ.
LE MONDE | 29.12.03 |
13h14
http://www.lemonde.fr/web/article/0,1-0@2-3382,36-347428,0.html
©
2004 talawas
[1]Đầu
đề của talawas
[2]Chữ
của tác giả bài báo trong nguyên bản. Theo talawas,
Georges Boudarel không thể giữ chức "chính ủy", là chức cán bộ chính
trị cao trong quân đội, chỉ có từ cấp trung đoàn trở lên.
Chú thích: Bản dịch trên là bản
đã được hiệu đính.
Chân thành cảm
ơn sự chỉ bảo của các văn hữu và độc giả.
Nguyễn Quốc Trụ