Coetzee
ngay trong tác phẩm đầu
tay của ông, tuy giả tưởng, nhưng còn thực hơn cả sự thực, đã “đau đáu”
vì nỗi đau
Việt Nam.
Dusklands gồm hai
“truyện” ngắn, và mở ra bằng truyện ngắn có tên là Dự Án Việt
Nam, lấy câu của Herman Kahn, làm đề từ:
Obviously it is difficult
not
to sympathize with those European and American audiences who, when
shown films
of fighter-bomber pilots visibly exhilarated by successful napalm
bombing runs
on Viet-Cong targets, react with horror and disgust. Yet, it is
unreasonable to
expect the U.S. Government to obtain pilots who are so appalled by the
damage
they may be doing that they cannot carry out their missions or become
excessively depressed or guilt-ridden.
[Hiển nhiên, khó mà không thông
cảm với khán giả Âu Châu và Mẽo, coi phim chiến tranh Việt Nam, cảm
thấy tởm,
nhìn mấy tên phi công Mẽo sướng điên lên khi dội bom VC chạy có cờ.
Nhưng chẳng
lẽ Quân Đội Mẽo lại tuyển mấy tên chết nhát làm phi công, và sau một
phi vụ là
phải chuyển chúng vào nhà thương tâm thần?]
Cái chuyện, mấy anh VC nằm vùng
sướng điên lên, khi chơi cái màn đặt bom, gài mìn nhà hàng quán nước,
trong thời
gian chiến tranh, điều này có thể hiểu được, nhưng sau khi hết chiến
tranh, đất
nước rớt xuống hố sâu thăm thẳm của băng hoại, của bọ, của ruồi, của ô
nhiễm, của
ô nhục… vậy mà chúng vẫn tự hào vì những tội ác như vậy, cái đó thật
lạ. Cũng
như đám Yankee mũi tẹt, khi ra được hải ngoại, bất cứ vì lý do, nguyên
nhân gì,
mặt mày vẫn vênh lên vì chiến thắng Miền Nam, thống nhất đất
nước….Chúng không
nhục vì đất nước thống nhất, mà đúng là giật lùi, là chia rẽ, là đau
thương… mà
lại nhục khi bị “hiểu lầm là được điểm hải ngoại”, quái đản thật!
*
The Arcades
book, whatever our verdict on it - ruin, failure, impossible project -
suggests
a new way of writing about a civilization, using its rubbish as
materials
rather than its artworks: history from below rather than from above.
And his
call (in the 'Theses') for a history centred on the sufferings of the
vanquished, rather than on the achievements of the victors, is
prophetic of the
way in which history-writing has begun to think of itself in our
lifetime.
(2001)
Coetzee: Walter
Benjamin, the Arcades
Project (1)
"Thương Xá", cho dù chúng ta đánh giá nó như thế nào – điêu tàn, thất
bại, một dự án bất khả, impossible project – đề nghị một đường lối mới,
để viết
về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm chất liệu, thay vì
những nghệ
phẩm của cái nền văn minh đó; lịch sử từ đáy thay vì lịch sử từ đỉnh.
Và lời
kêu gọi của Benjamin (trong "Những luận đề" - "Theses"),
cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người thua, thay vì thành
tựu của
những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính tiên tri, về cung cách mà
việc
viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn lại ngắn ngủi
của chúng]
ta.
*
Đám Yankee mũi tẹt và những nhà văn của chúng chắc là chẳng bao giờ
biết đến
thứ lịch sử của thời của chúng ta, thứ lịch sử xoáy vào nỗi đau khổ của
người
thua, thay vì thứ lịch sử của kẻ thắng.
(1) Bài viết sau được in trong Inner
Workings, tập tiểu luận, với cái tít như trên. Gấu đọc Coetzee, lần
đầu
tiên, là bài này, bèn dịch liền, với tí vốn Anh văn ăn đong những ngày
mới tới
xứ lạnh, và đã được ông bạn NTV giúp đỡ rất nhiều. Cả hai thường ngồi
trong một
tiệm cà phê bình dân của thành phố Toronto,
nơi gần nhà ông, và có lần say sưa bàn cãi về một từ cần phải dịch như
thế nào,
ồn ào đến nỗi anh chủ quán phải đến nhắc nhở.
Dân Mít chúng ta thiếu những nhà văn như Coetzee, và lại càng thiếu
những nhà
phê bình, điểm sách như ông. Nên nhớ, tác phẩm đầu tay của ông, lấy đề
tài Việt Nam
(2).
Trong những kỳ tới Tin Văn sẽ giới thiệu bài viết giới thiệu ông, ở đầu
cuốn
Inner Workings.
(2) John Michael Coetzee sinh tại Cape Town (Nam Phi) ngày 19.2.1940.
Học tại Đại học Cape
Town và sau đó tại Đại học Texas, lấy bằng Ph.D (1969), và trở lại Nam
Phi năm
1972, dậy Anh ngữ tại Đại học Cape Town. Tiểu thuyết gia, nhà phê bình,
dịch
giả; những cuốn tiểu thuyết của ông là về hậu quả của chủ nghĩa phân
biệt chủng
tộc. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, thực ra là hai truyện vừa,
"Dusklands"
(1974), ông đối chiếu sự hiện diện của người Mỹ tại Việt Nam với những
người
Hòa Lan đầu tiên định cư tại Nam Phi. Trong lịch sử 31 năm của giải
thưởng văn
học The Booker, ông là người đầu tiên hai lần đoạt giải, lần thứ nhất
vào năm
1983 với cuốn "Đời và Thời của (Life and Times of) Michael K.", và
năm 1999, với cuốn "Disgrace" (Ô Nhục).
J. M.
Coetzee
The Marvels of Walter Benjamin
Những kỳ tích về Walter Benjamin.
"To great writers, finished works weigh lighter than
those fragments on which they work throughout their lives."
("Với những nhà văn lớn, những tác phẩm hoàn tất nhẹ ký hơn, so với
những mẩu đoạn mà họ miệt mài suốt đời.")
Walter Benjamin (1892-1940)
1.
Bây giờ, câu chuyện về ông được nhiều người biết cho nên cũng chẳng
cần kể lại một cách chi tiết.
Nơi chốn: biên giới Pháp-Tây Ban Nha. Thời gian: 1940. Benjamin chạy
trốn một nước Pháp bị chiếm đóng, tới gặp bà vợ một anh chàng Fittko
nào đó, mà ông gặp gỡ ở trong trại tù. Theo ông, Bà (Frau) Fittko có
thể dẫn ông và những người cùng đi vượt dẫy núi Pyrenees tới xứ Tây Ban
Nha trung lập. Dọc đường, thấy ông ì ạch với chiếc cà tạp nặng nề, bà
dẫn đường hỏi: cái gì vậy, có cần thiết [mang theo nó] không? Trong đó
là một bản thảo, ông
trả lời. "Tôi không thể chịu rủi ro mất nó. Nó… PHẢI được gìn giữ. Nó
còn
quan trọng hơn cả tôi."
Hôm sau, họ vượt dẫy núi. Đi được mươi phút là Benjamin phải ngưng để
thở, do đau tim.
Tới biên giới, họ bị chặn lại. Giấy tờ không hợp lệ, cảnh sát Tây Ban
Nha phán, phải trở về Pháp. Nản quá, trong đêm đó, Benjamin làm một
liều thuốc phiện thật nặng. Cảnh sát làm biên bản những món đồ của
người quá
cố. Không có bản thảo nào hết trong biên bản đó.
Trong cà tạp có gì, và nó biến đi đâu, chúng ta chỉ phỏng đoán. Gershom
Scholem, bạn của Benjamin, gợi ý: đó là bản sửa chữa lần chót, tác phẩm
chưa hoàn tất, Passagen-Werk, được biết qua tiếng Anh bằng cái tên
"Arcades
Project" ("Thương Xá"). ("Với những nhà văn lớn," Benjamin viết, "những
tác phẩm hoàn tất nhẹ ký hơn, so với những mẩu đoạn mà họ miệt mài suốt
đời."). Bằng một cố gắng anh hùng, nhưng vô vọng – làm sao cho lửa Nazi
đừng thiêu đốt bản thảo, làm sao mang nó tới một vùng đất an toàn,
trước
tiên là Tây Ban Nha, sau đó là Mỹ quốc – chỉ với một cố gắng như vậy đủ
khẳng định, đây chính là một huyền tượng trong giới học giả của thời
đại
chúng ta.
Câu chuyện không đến nỗi quá bi đát, với đứa con tinh thần của ông,
bởi vì một bản sao của "Thương Xá" không đi theo chủ nhân, ở lại Paris,
và được bạn thân của Benjamin là Georges Bataille giấu giếm tại Thư
viện
Quốc gia. Sau chiến tranh, được xuất bản nguyên xi vào năm 1982, nghĩa
là bằng một thứ tiếng Đức xen những mảng lớn tiếng Pháp ở trong.
Bây giờ chúng ta có dịch bản tiếng Anh tác phẩm chính (magnum opus:
đại tác phẩm) của Benjamin. Dịch giả là Howard Eiland và Kevin
McLaughlin.
Và bây giờ, sau cùng, chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao lại [có
người]
quan tâm tới mức như thế, về mỗi một chuyện đi mua sắm, ở nước Pháp thế
kỷ 19?
**
Benjamin sinh năm1892, tại Berlin, trong một gia đình Do Thái đã hội
nhập. Cha ông là một người thành công trong nghề đấu giá những nghệ
phẩm, và sau đó tách ra làm ngành đầu tư tài sản; dòng họ Benjamin
thịnh vượng, về nhiều mặt. Sau một thời thơ ấu ốm yếu, được đùm bọc,
vào lúc mười hai tuổi, Benjamin được gởi tới một trường nội trú có
khuynh hướng tiến bộ ở
miền quê, và rơi vào ảnh hưởng của một trong những vị giám đốc trường
là
Gustav Wyneken. Nhiều năm, sau khi đã rời ngôi trường, Benjamin vẫn
hoạt động trong phong trào chống lại tính quyền thế, trở lại với thiên
nhiên, của
Wyneken; ông chỉ đoạn tuyệt với nó khi Wyneken ra mặt ủng hộ Đệ Nhất
Thế
Chiến.
Vào năm 1912, Benjamin ghi tên học ngành ngữ văn tại Đại học Freiburg.
Nhận thấy không hợp khẩu vị với môi trường trí thức, ông lao vào phong
trào vận động cải cách học vấn. Khi chiến tranh bùng nổ, ông trốn tránh
quân
vụ, lúc đầu giả vờ bệnh, sau dời tới nước Thụy Sĩ trung lập. Ông ở đây
tới
năm 1920, học triết và lo làm luận án tiến sĩ ở Đại học Berne. Bà vợ
phàn
nàn, họ không có một cuộc sống xã hội.
Bạn của ông là Theodor Adorno nhận xét, Benjamin mệt vì những đại học,
như Kafka mệt vì những công ty bảo hiểm. Dù nghi ngại, Benjamin vẫn đi
suốt qui trình lấy bằng tiến sĩ thực thụ cho phép ông làm giáo sư, bằng
cách
đệ trình luận án "Kịch nghệ Đức thời đại Baroque" với Đại học Frankfurt
vào
năm 1925. Thật lạ lùng, luận án không được chấp nhận; nó rớt đài vì
không
chịu nằm gọn trong lãnh vực văn học, hoặc triết học, và Benjamin thiếu
một
vị thầy bảo trợ, bênh vực cho trường hợp của ông.
Những chương trình, kế hoạch khoa bảng kể như hỏng, Benjamin lao vào
ngành dịch thuật, phát thanh, và làm ký giả tự do. Trong số những việc
làm
lấy tiền hoa hồng, có việc dịch "Đi Tìm Thời Gian Đã Mất" của Proust;
ba,
trong bẩy cuốn, đã được hoàn tất.
**
Vào năm 1924 Benjamin đến Capri, vào lúc đó, là trung tâm nghỉ mát được
giới trí thức Đức ưa thích. Ông gặp Asja Lacis, nữ giám đốc kịch viện ở
Latvia, và là một người Cộng Sản. Cuộc gặp gỡ đúng là định mệnh, "mỗi
lần
tôi đụng vô một mối tình lớn, là mỗi lần hoá thân", ông sửng sốt về
mình,
khi ngoái lại. "Một tình yêu thứ thiệt biến tôi thành người đàn bà mà
tôi
yêu". Với người tình này, còn kéo thêm sự thay đổi về đường hướng chính
trị. "Với những người tiến bộ, nếu tuân theo cảm quan đúng đắn của
mình,
con đường suy tưởng của họ sẽ dẫn tới Moscow chứ không phải tới
Palestine",
nàng nói một cách thật nghiêm nghị với chàng. Thế là mọi dấu vết của
chủ
nghĩa duy tâm trong tư tưởng của ông, chưa nói tới chuyện láng cháng
với
chủ nghĩa quốc gia Do Thái (Zionism), phải bị bỏ đi. Ông bạn tâm phúc
Scholem
đã di cư qua Palestine, mong Benjamin đi theo. Ông nại cớ này cớ nọ, và
cứ thế chần chờ cho tới chót.
Vào năm 1926, Benjamin tới Moscow vì có hẹn với nàng. Lacis coi bộ
không hoan hỉ đón tiếp (nàng lúc này có bồ khác). Ghi nhận về chuyến đi
cho thấy Benjamin không được thoải mái cái đầu cho lắm, có cả nỗi băn
khoăn có nên gia nhập Đảng Cộng Sản, và tự đặt mình vào đường lối của
Đảng. Hai năm sau đó, chàng và nàng lại có dịp tái hợp, tuy ngắn ngủi,
tại Berlin; họ sống bên nhau, tay trong tay cùng tham dự những cuộc họp
của Liên minh những Nhà văn Cách mạng Vô sản. Cuộc tình làm cho vụ li
dị với người vợ đầu nhanh chóng thêm.
Benjamin có ghi nhật ký chuyến đi Moscow, và sau đó sửa lại và cho xuất
bản. Ông không nói được tiếng Nga, nhưng thay vì nhờ mấy thầy thông,
ông cố gắng nhìn thành phố qua bề ngoài của nó [nguyên văn: đọc Moscow
từ phía bên ngoài, read Moscow from outside], và ông gọi đây là thuật
xem tướng
mặt, chắc là theo kiểu người Việt mình nói, "trông mặt mà bắt hình
dong,
con lợn có béo thì [bộ] lòng mới ngon!". Ông giải thích thêm về phương
pháp
của mình: khoan trừu tượng, khoan phê phán… hãy trình bầy thành phố
[Moscow],
theo kiểu như thế này: tất cả tính sự kiện, thì đã là lý thuyết (all
factuality is already theory; câu này của Goethe, theo Coetzee).
Những khẳng định của Benjamin về kinh nghiệm "mang tính lịch sử về thế
giới", như ông nhìn thấy xẩy ra ở Liên bang Xô viết, bây giờ có vẻ ngây
thơ; tuy nhiên con mắt của ông thật là sắc bén. Rất nhiều cư dân mới
của Moscow vẫn giữ nguyên bộ vó dân quê, sống cuộc sống làng mạc, theo
nhịp sống
quê mùa; sự phân biệt giai cấp có thể đã bị bãi bỏ, nhưng bên trong
Đảng,
một hệ thống đẳng cấp mới đang thành hình. Một cảnh tượng nơi chợ trời
cho
thấy tình trạng hạ thấp tông giáo: một thánh tượng được kèm bởi những
bức
chân dung của Lênin, "như một tù nhân giữa hai tay công an".
Mặc dù sự hiện diện của nàng, Asja Lacis, là cái nền thường trực của
những trang nhật ký lần thăm viếng ("Moscow Diary"), và tuy chàng, như
nhận
ra, cuộc tình chăn gối của đôi bên không ổn, chúng ta chẳng biết gì về
con người nàng. Là nhà văn, nhưng chàng không có tài làm cho những
người khác sống dậy, qua những miêu tả của mình. Trái lại, trong những
bản viết của riêng Lacis, chúng ta có một hình ảnh sống động hơn, về
Benjamin: đôi kính như hai ngọn đèn pha, ôi đôi bàn tay của "ảnh" mới
vụng về làm sao!
**
Trong suốt quãng đời còn lại, Benjamin tự nhận hoặc một tay Cộng Sản,
hoặc một bạn đồng hành. Chúng ta tự hỏi, cuộc tình giữa ông với chủ
nghĩa Cộng Sản say đắm, sâu xa tới mức nào?
Nhiều năm sau khi gặp gỡ Lacis, Benjamin có lẽ vẫn lập đi lập lại những
‘chân lý’ù Mác xít, mà chẳng cần đọc Marx, thí dụ như "giai cấp trưởng
giả… bị kết án phải suy sụp do những mâu thuẫn nội tại, và nó sẽ tiêu
luôn
theo với đà phát triển của những mâu thuẫn này". "Trưởng giả" là một từ
nguyền rủa đối với ông, và nó có nghĩa là chạy theo vật chất, thờ ơ,
ích
kỷ, giả hình, và trên tất cả, hoàn toàn tự mãn về mình – và ông tỏ ra
rất
thù nghịch, do bản năng. Tự coi mình là Cộng Sản là một hành động chọn
bên, vừa về mặt đạo đức vừa về mặt lịch sử, nhằm chống lại giai cấp
trưởng
giả và luôn cả dòng dõi trưởng giả của chính ông. "Một điều không thể
khá
được, đó là quên không chạy trốn cha mẹ", ông viết như vậy trong "Đường
Một Chiều", một tuyển tập những mẩu nhật ký, những nghi thức của cõi
mơ,
những châm ngôn, những tiểu luận bỏ túi (mini-essays), và những nhận
xét
chì chiết về nước Đức thời cộng hoà Weimar. Với cuốn sách đó, ông tự
tuyên
bố về mình, vào năm 1928: một trí thức tự do (freelance intellectual).
Do
chạy trốn cha mẹ không sớm sủa cho lắm, ông bị kết án phải chạy xa [cha
mẹ là] Emil và Paula Benjamin trong suốt quãng đời còn lại: trong khi
phản
ứng ngược lại ý muốn của cha mẹ muốn hội nhập vào giai cấp trung lưu
Đức,
ông giống nhiều người Do thái nói tiếng Đức cùng thế hệ, kể luôn cả
Kafka.
Điều gây bối rối, ở nơi bè bạn của ông, về chủ nghĩa Marx của ông: hình
như có một điều gì gượng gạo, một điều chi giống như là thù đáp
(reactive).
Những bài viết tả khuynh đầu tiên của Benjamin đọc thật nản. Người ta
đành phải nói, một "sự ngu xuẩn cố tình", khi đọc những dòng ông "thổi"
(rhapsody) Lênin; ("những lá thư của Lênin mới hoành tráng ngọt ngào
làm
sao", nhưng bài này bị những biên tập viên bản dịch của Harvard loại
bỏ);
hay là hùa theo lối nói khéo léo, nhưng ẩn tàng mầm tai tương, của
Đảng:
"Chủ nghĩa Cộng Sản không mang tính triệt để. Do đó, nó không có ý định
giản
dị xoá bỏ mọi liên hệ gia đình. Nó chỉ thử nghiệm những liên hệ này, để
kiểm
tra khả năng của chúng, trước chuyển đổi. Nó tự hỏi chính nó: Liệu gia
đình
có thể được tháo gỡ ra, nhờ vậy mà những thành phần của nó có thể được
tái
phối trí vào xã hội?"
Những dòng trên đây, là từ bài điểm một vở kịch của Bertolt Brecht.
Ông gặp nhà soạn kịch người Đức này qua Lacis. "Kiểu suy tư thô,
nguyên"
– lột bỏ những nhận xét tinh tế trưởng giả – của Brecht, có một dạo, đã
quyến rũ Benjamin. "Đường Một Chiều" được đề tặng người tình: "Con
đường
này mang tên em, vị kỹ sư đã phóng nó qua người anh." [nguyên văn: "Con
đường này mang tên Phố Asja Lacis, theo tên nàng, một người mà giống
như
một vị kỹ sư, đã cắt nó xuyên qua tác giả"]. So sánh đấy, mà là khen
ngợi
đấy. Kỹ sư là một người, nam hay nữ, của tương lai; một người - bực bội
với
ba cái trò lắm lời; được trang bị bằng tri thức thực hành - hành động,
và
quyết tâm hành động nhằm thay đổi toàn cảnh. (Stalin cũng ái mộ những
kỹ
sư. Theo quan điểm của ông, nhà văn phải trở thành những vị kỹ sư của
tâm
hồn, theo nghĩa, họ phải coi đây là chức năng của mình: tái phối trí
nhân
loại, từ phía bên trong mà ra).
Trong số những bài viết được khá nhiều người biết tới, bài "Tác giả
như người sản xuất" ("The Author as Producer", 1934) cho thấy ảnh hưởng
của Brecht thật rõ rệt. Trọng tâm của bài viết là một "vấn nạn" cũ rích
của mỹ học Mác xít: Cái gì quan trọng, hình thức hay nội dung? Benjamin
đề nghị, rằng một tác phẩm văn học sẽ "chỉ đúng về lập trường chính trị
nếu nó cũng đúng về lập trường văn học". "Tác giả như người sản xuất"
là
một bài viết nhằm bảo vệ nhóm khuynh tả thuộc lực lượng tiên-phong hiện
đại - với Benjamin, là nhóm Siêu thực - chống lại đường lối của Đảng
đối
với văn học, vốn chỉ nhắm những gì dễ cảm thông, những câu chuyện hiện
thực
nặng khuynh hướng tiến bộ. Để bênh vực cho trường hợp của mình,
Benjamin,
một lần nữa, đành phải kêu gọi tới sức quyến rũ của [vai trò] kỹ sư:
nhà
văn, như người kỹ sư, là một chuyên viên kỹ thuật và phải có tiếng nói
của
mình trong những vấn đề kỹ thuật.
Lập luận ở mức thô thiển như thế thật không dễ dàng đối với Benjamin.
Liệu lòng trung với Đảng khiến cho ông chẳng hề băn khoăn, vào lúc mà
sự bách hại nghệ sĩ của Stalin đang ở đỉnh cao? (Asja Lacins, chính
nàng, cũng trở thành một trong những nạn nhân của Stalin, và phải trải
qua nhiều năm trong trại lao động cải tạo). Một mẩu viết trong cùng năm
đó, 1934, có thể cho chúng ta một chút manh mối. Ở đây, Benjamin chế
nhạo đám trí thức "coi đó là niềm hãnh diện, khi toàn thân thể hiện
trong mọi vấn đề [mà Đảng vạch ra]," từ chối không chịu hiểu, để thành
công, họ phải trình bầy những bộ mặt khác nhau cho những khán thính giả
khác nhau. Ông nói, họ giống như một gã đồ tể, không chịu cắt từng
mảnh, cứ nài nỉ bán trọn con thịt. Chúng ta phải hiểu câu nói của ông
ra sao? Phải chăng Benjamin ca ngợi một cách châm biếm sự liêm khiết
trí thức đã lỗi thời? Hay đây là lời thú nhận bóng gió về mình, ‘dzậy
mà không phải dzậy", theo cách nói của người Việt miền nam (that he,
Walter Benjamin, is not what he seems to be)? Hay ông đưa ra một quan
điểm thực tế, nếu không muốn nói là chua chát, về cuộc sống của một nhà
văn chuyên viết thuê làm mướn. Một lá thư gửi bạn tâm phúc, Scholem (mà
không
phải Benjamin bao giờ cũng tiết lộ toàn bộ sự thực), cho thấy, cách
hiểu
chót có lẽ đúng hơn cả: trong thư, Benjamin bảo vệ chủ nghĩa cộng sản
của
ông như là "một toan tính hiển nhiên, có suy nghĩ, của một người đã
hoàn toàn,
hoặc hầu như đã hoàn toàn, bị tước đoạt bất cứ một phương tiện sản
xuất,
để mà đòi hỏi quyền của mình, về những phương tiện sản xuất." Nói một
cách
khác, ông theo Đảng với cùng một lý do như bất cứ một tay vô sản nào
khác:
bởi vì đây là lợi lộc vật chất của mình.
2.
Vào lúc Nazi lên nắm quyền, nhiều người cộng sự với Benjamin, đọc ra
cái điềm báo trước của thời đại, đã theo nhau mà bôn tẩu. Benjamin vốn
từ
lâu cảm thấy không có đất cắm dùi ở Đức, lại hay lai vãng Pháp và
Ibiza, bèn theo gót bạn bè. (Ông em trai, Georg, bất cẩn hơn, ở lại, bị
bắt vì những hành vi chính trị, và tàn đời tại Mauthausen vào năm
1942).
Định cư tại Paris, cố kiếm cơm bằng cách cộng tác với những nhật báo
Đức dưới những bút hiệu đọc lên nghe có tí dòng giống tối thượng Aryan
(Detlef Holz, K. A. Stempflinger); lúc quá kẹt, sống bằng của bố thí.
Khi chiến
tranh bùng nổ, Benjamin thấy mình ở trong trại tù, như là một ngoại
nhân
thù nghịch. Được thả, nhờ Hội Văn Bút (PEN) Pháp can thiệp; ngay lập
tức
ông kiếm mối manh, tìm đường đào tẩu qua Mỹ, và sau cùng là chuyến đi
định
mệnh, kết thúc tại Port-Bou, biên giới Pháp-Tây Ban Nha.
Những chiếu rọi sắc sảo của Benjamin, khi ông nhìn chủ nghĩa phát xít,
kẻ thù tước đoạt gia đình, sự nghiệp, và sau cùng đã giết chết ông, là
từ những phương tiện mà nó sử dụng để chiêu dụ dân chúng Đức: tự biến
thành tuồng hát. Những chiếu rọi thần tình này được diễn tả đầy đủ nhất
ở trong (dùng cái tên được Harvard ưa thích) "Nghệ phẩm trong thời đại
tái sản xuất bằng kỹ thuật" (The Work of Art in the Age of Its
Technological Reproducibility", 1936), nhưng chúng đã thấp thoáng ở
trong bài điểm, vào năm 1930, cuốn ‘Chiến tranh và những Chiến sĩ’, do
Ernst Junger biên tập.
Quan niệm thông thường cho rằng, những đại hội diễu hành ở Nuremberg
của Hitler, đã lấy khuôn mẫu từ những ca nhạc kịch của Wagner ở
Bayreuth [một thành phố Đức]: réo rắt hùng hồn, âm thanh hớp hồn, vũ
điệu dành cho đám đông, và đột biến bi thảm. Nhưng điều được coi là
uyên nguyên, ở Benjamin, đó là ông cho rằng chính trị - như là kịch
nghệ hoành tráng hơn là như tranh luận – không chỉ là những mặt nổi huy
hoàng, giầu sang của chủ nghĩa phát xít: nó chính là chủ nghĩa phát
xít, tự yếu tính.
Trong những cuốn phim của Leni Riefenstahl cũng như trong những phim
thời sự, được trình diễn trong mọi rạp hát nội địa, quần chúng Đức được
dâng hiến những hình ảnh của chính họ, như những nhà lãnh đạo kêu gọi:
hãy là như vậy. Chủ nghĩa phát xít sử dụng quyền năng nghệ thuật của
quá khứ – điều mà Benjamin gọi là nghệ thuật hào quang, cộng thêm quyền
năng được nhân lên nhiều lần của phương tiện truyền thông đại chúng mới
mẻ thời kỳ hậu-hào quang, trên tất cả là phim ảnh, để tạo ra những công
dân phát xít mới của nó. Với những người dân Đức bình thường, căn cước
độc nhất đem trình diễn, cái căn cước từ trên màn ảnh chiếu xuống họ,
là căn cước phát xít trong
bộ đồ phát xít, và những dáng đứng phát xít, hoặc chế ngự hoặc tuân
phục.
Phân tích của Benjamin về chủ nghĩa phát xít gây ra nhiều câu hỏi. Phải
chăng chính trị như là kịch cảnh (spectacle) thực sự là trái tim của
chủ nghĩa phát xít, chứ không phải sự phẫn uất, hay những giấc mơ về sự
phục
thù lịch sử? Nếu Nuremberg là chính trị được thẩm mỹ hoá, tại sao những
cuộc
diễu hành ngày 1 tháng 5 và những vụ án phô trương của Stalin, không
được
coi là chính trị thẩm mỹ hóa? Nếu thiên tài của chủ nghĩa phát xít, là
xóa
bỏ lằn ranh giữa chính trị và phương tiện truyền thông, đâu là thành tố
phát xít của chính trị-do truyền thông-điều động của những nền dân chủ
Tây phương? Lẽ nào chẳng có những biến điệu khác nhau của chính trị
thẩm mỹ?
*
Quan niệm chìa khóa mà Benjamin sáng chế ra - mặc dù trong nhật ký của
ông lờ mờ cho thấy, sự thực đây là sáng kiến của nữ sĩ Adrienne
Monnier, chủ nhà bán sách và chủ nhà xuất bản ở Paris - để miêu tả
chuyện gì xẩy ra cho nghệ phẩm trong thời đại tái sản xuất bằng kỹ
thuật (chủ yếu là thời đại chụp hình – Benjamin không nói gì nhiều về
in ấn), đó là [hiện tượng] "mất hào quang" ("loss of aura"). Gần như
tới giữa thế kỷ 19, ông nói, một hình thức tương liên người với người
còn tồn tại, giữa một nghệ phẩm và người nhìn nó: người nhìn, ngắm, và
nghệ phẩm, ngắm lại, đại khái như vậy. "Để cảm
nhận hiện tượng hào quang có nghĩa là gán cho nó cái khả năng nhìn lại
chúng
ta." Do đó, có điều chi huyền diệu về hào quang, gốc gác cổ xưa còn sót
lại,
giờ nhạt nhòa đi, giữa nghệ thuật và nghi lễ tôn giáo.
Lần đầu tiên Benjamin nói tới hào quang, là ở trong bài viết "Lịch sử
nho nhỏ về chụp hình" (1931), trong đó ông cố gắng giải thích tại sao
(dưới mắt ông), những bức hình chân dung ở cái thời thoạt kỳ thủy của
môn chụp hình – cổ bản của nhiếp ảnh, hãy nói như vậy - [lại] có hào
quang trong khi những bức hình một thế hệ sau đó không còn. Trong "Nghệ
phẩm", ý niệm hào quang được nới rộng khá tùy tiện, từ những bức hình
cổ xưa tới những tác phẩm nghệ thuật nói chung. Sự chấm dứt hào quang,
Benjamin nói, sẽ được bồi đáp dư dả bằng những khả năng giải phóng của
những kỹ thuật tái sản xuất mới. Phim ảnh sẽ thay thế nghệ thuật hào
quang.
Ngay cả những người bạn của Benjamin cũng thấy khó mà nắm bắt được hào
quang. Brecht - người được Benjamin nói nhiều về quan niệm này trong
những lần Benjamin ghé thăm nhiều ngày ở nhà ông, tại Đan Mạch - đã
viết như sau, trong nhật ký của ông: "[Benjamin] nói: ‘khi bạn cảm thấy
cái nhìn chăm
chăm của một người nào đó, nóng bỏng trên bạn, ngay cả ở đằng sau lưng,
sự
mong mỏi rằng bất cứ cái chi bạn nhìn tới, đang nhìn [lại] bạn, tạo nên
hào
quang… tất cả rất huyền bí, mặc dù những thái độ phản-huyền bí, đây là
cách
tiếp cận lịch sử được thích nghi bởi các nhà duy vật! Ôi thật kinh
khiếp." Những bạn bè khác cũng chẳng thể nào mà hồ hởi hơn [khi nghe
Benjamin nói về hào quang].
Trong suốt thập niên 1930, Benjamin loay hoay phát triển một định nghĩa
mang tính duy vật có thể chấp nhận được, về hào quang và mất hào quang.
Phim ảnh là hậu hào quang, ông nói, bởi vì cái máy thu hình, vốn chỉ là
một dụng cụ [cho nên] không thể nhìn. (Một lập luận đáng thắc mắc: các
diễn
viên chắc chắn đã đáp ứng với cái máy thu hình như thể nó đang nhìn
họ).
Trong bản văn viết lại sau đó, Benjamin đề nghị, rằng sự chấm dứt hào
quang
có thể xác định thời điểm được, trong lịch sử: đó là khi cư dân thành
thị
trở nên đông nghẹt – những người qua kẻ lại – đến nỗi chẳng còn ai thèm
đáp
lại cái nhìn chăm chăm của người khác nữa. Trong "Thương Xá", ông coi
mất
hào quang là một phần trong sự phát triển rộng rãi hơn, mang tính lịch
sử:
càng ngày càng có nhiều người cho rằng, sự độc đáo, bao gồm cả sự độc
đáo
mang tính truyền thống của nghệ phẩm, đã trở nên thương phẩm, như bất
cứ
thương phẩm nào khác. Kỹ nghệ thời trangï chuyên việc sản xuất những
nghệ
phẩm độc nhất – những sáng tạo – kể từ nay sẽ được tái sản xuất theo
kiểu
đại trà, [và nó] đã chỉ lối cho sự phát triển này.
*
Benjamin không đặc biệt quan tâm đến tiểu thuyết, như là một thể loại;
những câu chuyện ông viết, được in trong Tập 2 hiển nhiên cho thấy, ông
không có tài của một nhà văn tự sự. Thay vì tự sự, những bản văn mang
tính tự thuật của ông được xây lên từ những thời điểm đứt đoạn, căng
thẳng. Hai tiểu luận về Kafka coi Kafka như là một nhà ngụ ngôn và ông
thầy dậy minh triết (wisdom), hơn là một tiểu thuyết gia. Nhưng điều mà
Benjamin trường kỳ gớm ghiếc nhất, là dành cho [thể loại] lịch sử tự sự
(narrative history). "Lịch sử tan rã thành hình ảnh, không phải thành
tự sự", ông viết. Lịch sử
tự sự áp đặt tính nhân quả và động cơ từ phía bên ngoài; những sự vật
cần
có cơ hội tự nói về chúng.
"Một ấu thời ở Berlin vào khoảng năm 1900", một trong những tác phẩm tự
thuật ấp ủ, tha thiết nhất, không được xuất bản khi ông còn sống, sẽ
xuất hiện trong Tập 3 của "Tuyển Tập" ("Selected Writings"). Bản văn mà
chúng
ta có được ở trong Tập 2, là "Ký sự Berlin" ("Berlin Chronicle") sớm
sủa
hơn tác phẩm kể trên, và cũng được viết dưới cái bóng của Proust. Mặc
dù
cái tên, bản văn này xây dựng, không phải theo biên niên, mà như một
dàn dựng những mẩu đoạn, xen lẫn những suy tưởng về bản chất của tự
thuật, và sau cùng, là về những thăng trầm của hồi ức, hơn là về những
biến cố có
thực trong thời thơ ấu của Benjamin. Benjamin sử dụng một ẩn dụ mang
tính
khảo cổ học để giải thích tại sao ông chống tự thuật, như là tự sự về
cuộc
đời. Ông nói, nhà tự thuật nên nghĩ về chính mình, như một tay khai
quật,
đào sâu, sâu mãi, ở một vài chỗ, trong cuộc tìm kiếm những điêu tàn
chôn
giấu, của quá khứ.
Ngoài "Nhật Ký Moscow" và "Ký sự Berlin", Tập 1 và 2 gồm một số những
bản văn tự thuật ngắn ngủi hơn: một báo cáo khá văn vẻ về chuyện bị một
người yêu cho leo cây; những ghi nhận về những lần thử chơi cần sa
(hashish); những ghi chép về những giấc mơ; những mẩu đoạn nhật ký
(Benjamin đã bị ám ảnh bởi chuyện tự tử vào năm 1931 và 1931); và một
nhật ký Paris, được ông để tâm hoàn tất cho xuất bản, trong đó bao gồm
chuyến đi thăm một nhà thổ nam, nơi Proust thường xuyên lui tới. Trong
số những phát giác gây nhiều ngạc nhiên, là sự ái mộ [của Benjamin]
dành cho Hemingway ("Tu tập về nghĩ đúng, qua cách viết đúng", "an
education in right thinking through correct writing"), và [sự kiện ông]
không ưa Flaubert (quá nặng tính kiến trúc học, too architectonic).
*
Cơ sở triết học và ngôn ngữ của Benjamin được đề ra ngay từ khi khởi
nghiệp. Trong tiểu luận chìa khóa, "Về Ngôn ngữ tự thân và về Ngôn ngữ
của
Con người" ("On Language as Such and on the Language of Man", 1916),
ông
khẳng định, một từ không chỉ là một ký hiệu, một thế thân cho một điều
chi
khác, nhưng là tên của một Ý tưởng (the name of an Idea). Trong "Nhiệm
vụ
của Dịch giả" (The Task of the Translator", 1921), ông cố gắng đưa ra
bộ
khung cho ý nghĩ của mình, về Ý tưởng, viện dẫn trường hợp Mallarmé và
một ngôn ngữ thơ tự do, thoát ra khỏi chức năng truyền thông của nó.
Làm sao mà một quan niệm mang tính Biểu tượng về ngôn ngữ lại có thể
giao lưu hòa giải với chủ nghĩa duy vật lịch sử của Benjamin ở giai
đoạn sau đó, điều này thật không rõ ràng, nhưng Benjamin duy trì [quan
điểm], rằng một cây cầu có thể xây dựng, "tuy nhiên, cây cầu này có thể
căng thẳng, và mang tính vấn nạn". Trong những tiểu luận văn học của
thập niên 1930, ông đã mơ hồ cho thấy một cây cầu như vậy, hình dáng
của nó ra làm sao. Ông
nói, trong Proust, trong Kafka, trong những nhà Siêu thực, từ ngữ rút
lui
khỏi sự tạo ý nghĩa trong cung cách trưởng giả và lấy lại quyền năng sơ
khởi mang tính điệu bộ của nó (the word retreats from signification in
the
"bourgeois" sense and resumes its elementary, gestural power). Do đó,
trong
"Tòa Lâu Đài", hai phụ tá của Trắc địa viên K. diễn ra cái trạng thái
bào
thai chưa sinh, bằng cách khoanh tròn chân tay bất cứ lúc nào mà họ có
thể
làm được, cuộn mình như trái banh. Điệu bộ là "hình thức tối thượng
theo đó
sự thực có thể xuất hiện trước chúng ta trong một thời đại bị tước đoạt
thần
học (theological doctrine)."
Thời Adam, từ ngữ và điệu bộ [dùng để] gọi tên [sự vật] là như nhau.
Rồi sau đó, ngôn ngữ đã trải qua một sa đọa dài, mà [tháp] Babel chỉ là
một giai đoạn. Nhiệm vụ của thần học là khôi phục từ ngữ, với tất cả
quyền năng bắt chước bản gốc của nó, từ những bản văn thiêng liêng mà
nó còn được gìn giữ ở trong đó. Nhiệm vụ của phê bình thiết yếu cũng
không khác, bởi vì các ngôn ngữ sa đọa, trong toàn thể những ý hướng
của chúng, vẫn có thể chỉ cho chúng ta hướng về cái ngôn ngữ thuần
khiết kia. Do đó, nghịch lý ở trong "Nhiệm vụ của người dịch thuật" là:
dịch thuật còn cao hơn cả bản chính, theo nghĩa, nó ra điệu bộ về phía
cái ngôn ngữ tiền-Babel.
Bejamin có viết một số bài về khoa chiêm tinh, chúng là những đối trọng
cần thiết so với những gì ông viết về triết lý ngôn ngữ. Khoa chiêm
tinh mà chúng ta có ngày nay, ông nói, là một văn bản suy thoái của một
nền tri thức cổ xưa, ở những thời đại mà khả năng bắt chước, còn mạnh
mẽ, cho phép những tương ứng mô phỏng (imitative), có thực, giữa đời
người và chuyển
động của những vì sao. Ngày nay chỉ trẻ con là còn giữ được, và đáp ứng
được với thế giới, bằng một quyền năng bắt chước có thể so sánh được
[với
những thời đại kể trên].
Trong những tiểu luận tính từ 1933, Benjamin phác thảo một lý thuyết về
ngôn ngữ dựa trên sự mô phỏng (mimesis). Ngôn ngữ thời Adam mang tính
tượng thanh, ông nói; những từ đồng nghĩa trong những ngôn ngữ khác
nhau, tuy không đọc lên như nhau, hoặc trông không giống nhau (lý
thuyết này được sử dụng cho cả ngôn ngữ nói cũng như viết), chúng có
những tương tự "phi cảm quan", những tương tự mà từ đó chúng có ý
nghĩa, như những lý thuyết "huyền bí", hay "thần học", về ngôn ngữ,
luôn luôn nhìn nhận. Những từ
"bánh mì", "pain", "Brot", "xleb", mặc dù bề ngoài khác hẳn nhau, nhưng
chúng giống nhau, ở mức độ sâu xa hơn, [bởi vì trong chúng đã] cưu mang
Ý
tưởng về bánh mì. ( Để có thể thuyết phục chúng ta về một điều mơ hồ
như
vậy, Benjamin chắc là phải vận dụng hết quyền năng của mình). Ngôn ngữ,
phát
triển tối thuợng của khả năng bắt chước, mang trong chính nó một thư
khố
những tương tự phi cảm quan đó. Việc đọc có tiềm năng trở thành một thứ
kinh
nghiệm mơ mòng, mở cho chúng ta cõi vô thức chung của loài người: cõi
ngôn
ngữ, miền ý tưởng.
Tiếp cận ngôn ngữ của Benjamin hoàn toàn trật bản lề so với khoa học
ngôn ngữ thế kỷ 20, nhưng nó ban cho ông một lối đi vương giả vào thế
giới của huyền thoại và ngụ ngôn, đặc biệt là, (như ông cảm nhận được
điều này), nó đưa ông tới gần "thế giới đầm lầy" ban sơ, hầu như trước
khi có con người, của Kafka. Một cách đọc miệt mài Kafka đã để dấu ấn
không phai mờ trên những bản viết sau cùng, bi quan, của chính Benjamin.
3.
Câu chuyện về "Thương Xá" đại khái như sau.
Vào cuối thập niên 1920 Benjamin thai nghén một tác phẩm được gợi hứng
từ những hành lang, hai bên có cửa hàng buôn bán, trên có mái che hình
cung của Paris. Nó đề cập tới kinh nghiệm đô thị; nó sẽ là một văn bản
về Người Đẹp Ngủ Trong Rừng, một câu chuyện thần tiên mang tính biện
chứng, được
kể theo kiểu siêu thực, qua phương pháp dàn dựng bằng những đoạn văn
mảnh
mún. Giống như nụ hôn của vị hoàng tử, nó sẽ đánh thức quần chúng Âu
châu,
đối diện với sự thực về cuộc đời của họ dưới chủ nghĩa tư bản. Nó sẽ
dài
cỡ chừng năm chục trang; trong khi sửa soạn cho việc viết bản văn trên,
Benjamin bắt đầu lấy những trích dẫn, từ những gì ông đọc, để dưới
những
đầu đề như là U Uất, Thời Trang, Bụi Bặm. Nhưng khi ông đính chúng lại
với
nhau thành một bản văn, nó trở nên quá khổ: từng phen đính là từng phen
thêm ghi chú, trích dẫn. Ông bàn những khốn khó của mình với Adorno và
Max
Horkheimer, họ thuyết phục ông, rằng ông không thể viết về chủ nghĩa tư
bản mà không nắm vững tư tưởng của Marx. Thế là, ý tưởng về Người Đẹp
Ngủ
Trong Rừng mất tiêu luôn phong quang của nó.
Vào năm 1934, Bejamin có một chương trình mới, đầy tham vọng và tràn
trề tính triết học: dùng ngay phương pháp dàn dựng trên, ông vạch ra
con đường từ thượng tầng cấu trúc văn hóa của nước Pháp thế kỷ 19, trở
lại, tới những thương phẩm và quyền năng của chúng, để trở nên những
bái vật. Khi những ghi chú của ông trở thành cồng kềnh, ông phân chúng
thành một hệ
thống hồ sơ tỉ mỉ dựa trên ba mươi sáu cuốn (convolutes, từ tiếng Đức,
Konvolut,
có nghĩa là sheaf, dossier, hồ sơ), với những từ chìa khoá và những đối
chiếu. Dưới tựa đề "Paris, Thủ đô của thế kỷ 19", ông viết một bản tóm
lược
tư liệu được sắp xếp, rồi trình cho Adorno (lúc này đang ăn lương của
Viện
Nghiên cứu Xã hội, và theo một mức độ nào đó, có trách nhiệm với Viện,
khi
đó đã được Adorno và Horkheimer chuyển từ Frankfurt tái định cư ở New
York).
Benjamin nhận được những lời phê bình khắc nghiệt từ Adorno, đến nỗi
ông quyết định tạm thời để dự án qua một bên, và rút ra từ khối lượng
tài liệu đó một cuốn sách về Baudelaire. Adorno được coi một phần của
cuốn sách,
và tỏ ra nghiêm ngặt: chỉ mới đưa ra sự kiện để chúng tự nói về chúng,
chưa đủ lý thuyết. Benjamin nhuận sắc lại, sau đó, và được đón nhận
nồng nhiệt hơn.
Baudelaire là trung tâm của chương trình Thương Xá bởi vì, dưới mắt
Benjamin, Baudelaire qua tác phẩm "Ác Hoa" ("Les Fleurs du Mal"), là
người
đầu tiên khám phá ra đô thị hiện đại: như một đề tài của thi ca.
(Benjamin
hình như lúc đó chưa đọc Wordsworth, là người năm mươi năm trước đó, đã
viết về cái cảm giác khi là một phần trong đám đông trên đường phố: ba
bề bốn bên chịu trận trước những cái nhìn xiên xéo, và bị quáng gà vì
những
tấm biển quảng cáo).
Tuy nhiên, Baudelaire đã diễn tả kinh nghiệm của mình về thành phố,
bằng ám dụ (allegory), một hình thức văn học lỗi thời, kể từ thời kỳ
Baroque. Thí dụ như trong bài thơ "Thiên Nga", ông ám chỉ nhà thơ như
là một loài chim phong nhã, một con thiên nga, quờ quạng trên hè phố,
không làm sao xoải cánh để bay vút lên.
Tại sao Baudelaire chọn hình thức ám dụ? Benjamin sử dụng "Tư Bản Luận"
của Marx để giải thích câu hỏi của chính mình. Marx nói, sự nâng giá cả
thị trường thành thước đo giá trị duy nhất đã giản lược thương phẩm
thành
chẳng là chi hết, mà chỉ là ký hiệu – một ký hiệu của cái nó bán ra.
Dưới
sự ngự trị của thị trường, vật thể sẽ tương quan với giá trị thực thụ
của
chúng một cách độc đoán chẳng khác nào như thời Baroque, biểu tượng sọ
người
tương quan với [sự kiện] con người bị lệ thuộc vào thời gian, thí dụ
vậy.
Do đó, các biểu tượng bất ngờ quay ngược về một giai đoạn lịch sử dưới
dạng
thương phẩm, là những thứ trong chủ nghĩa tư bản không còn như dạng bề
ngoài
của chúng, và như Marx cảnh cáo, chúng chứa đầy những tế vi siêu hình
và
những chi li thần học." Benjamin lập luận, ám dụ chính là phong cách
đúng
đắn cho một thời đại thương phẩm.
Trong khi làm việc với cuốn sách chẳng bao giờ hoàn tất, về Baudelaire,
Benjamin tiếp tục những ghi chú về Thương Xá, thêm vô những cuốn
(convolutes). Sau chiến tranh, người ta lôi ra, từ chỗ giấu giếm tại
Thư viện Quốc gia, một xấp dầy chừng chín trăm trang, bao gồm những
trích dẫn, chủ yếu từ
những nhà văn thế kỷ 19, nhưng cũng từ những người đương thời với
Benjamin,
được chia thành từng nhóm, với những tiêu đề, xen những bình luận, cộng
những chương trình, những đề cương này nọ. Được Rolf Tiedemann xuất bản
năm 1982, dưới nhan đề là "Passagen-Werk". Bản dịch của Harvard,
"Thương
Xá’, dùng bản văn của Tiedemann, nhưng bỏ đi rất nhiều tài liệu làm nền
và
khung biên tập, của Benjamin. Tất cả những đoạn tiếng Pháp đều được
dịch
qua tiếng Anh, cộng thêm những ghi chú bổ ích, và tràn đầy hình ảnh
minh
họa. Đây là một cuốn sách rất bảnh, và trong cách xử lý những đối chiếu
phức
tạp của Benjamin cho thấy: đây là một thắng lợi của kỹ thuật in tinh
xảo.
Lịch sử của "Thương Xá" – một lịch sử của lần lữa, và những khởi đầu
hỏng cẳng, của những lang thang trong những mê lộ thư khố, tìm kiếm cho
đến triệt để, tất cả những nét này đúng là đặc trưng của một tính khí
sưu tập, xoay chuyển cơ sở lý thuyết hoài hoài, của sự phê bình quá dễ
dàng gánh chịu, và thường cho rằng, Benjamin không hiểu chính đầu óc
mình – lịch sử ấy có nghĩa, cuốn sách chúng ta hiện có, cơ bản phải là
dở dang: dở dang trong thai nghén, và hiểu theo nghĩa thông thường, khó
thể gọi [đây] làø một
cuốn sách được sáng tác. Tiedemann so sánh nó như những vật liệu xây
cất
một căn nhà. Giả dụ như căn nhà được xây cất, thì chất keo gắn bó ắt sẽ
là
tư tưỡng của Benjamin. Phần lớn tư tưởng đó nằm dưới dạng những đoạn
chêm
vào của Benjamin, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng biết cách làm
cho
tư tưởng kia phù hợp, hoặc quán xuyến khối vật liệu.
Trong tình trạng như vậy, Tiedemann nói, tốt nhất là chỉ in những từ
của riêng Benjamin, gạt bỏ những trích dẫn. Nhưng ý định của Bejanmin,
tuy
không tưởng, là, tới một điểm nào đó, lời bình của ông sẽ được âm thầm
rút
ra, để cho tài liệu trích dẫn chịu đựng toàn thể sức nặng của cấu trúc.
Trong một cuốn sách chỉ dẫn vào năm 1852, có đoạn: Những vòm cung ở
Paris là "những đại lộ nội…, những hành lang trên có vòm thuỷ tinh, mở
ra trọn một khu cao ốc… chạy dài hai bên hành lang là những gian hàng
lịch
sự nhất, một vòm cung như thế là một thành phố, một thế giới thu nhỏ
lại."
Vòm thuỷ tinh mở ra bầu trời, và kiến trúc bằng thép của chúng chẳng
bao
lâu được những thành phố Tây phương khác rập theo. Thời hoàng kim của
những
thương xá kéo dài tới cuối thế kỷ, khi chúng bị những cửa hàng bách hoá
lấn
át.
Cuốn "Thương Xá" không hề được viết ra theo ý hướng: một lịch sử kinh
tế (mặc dù một phần trong tham vọng của nó, là hành động sửa sai, đối
với toàn thể môn lịch sử kinh tế). Một phác thảo sơ khởi gợi ra một
hình ảnh rất giống như ở trong" Thời thơ ấu ở Berlin":
Người ta biết, Hy lạp cổ có những nơi, con đường đưa xuống thế giới
ở bên dưới. Tương tự, cuộc sống [khi] thức giấc của chúng ta, là một
vùng
đất mà, ở vài điểm che giấu nào đó, đưa xuống thế giới ở bên dưới – một
vùng đất đầy những nơi chốn kín đáo, từ đó những giấc mơ trỗi dậy. Suốt
ngày, chẳng nghi ngờ chi, chúng ta đi ngang qua, nhưng vừa mới chợp
mắt, là chúng ta hăm hở mò mẫm con đường trở lại, để mất mình trong
những hành lang tối đen. Ban ngày, mê cung của những nơi chốn thị tứ
giống như ý thức; những vòm cung… lối xuống phố không dấu hiệu, không
bảng chỉ tên đường (unremarked). Tuy nhiên, đêm đến, dưới khối lượng âm
u của những căn nhà, bóng đen dầy đặc của nó nhô ra như đe dọa, và
khách bộ hành đêm rảo bước – trừ phi có gan
rẽ vào một ngõ hẹp.
Hai cuốn sách Benjamin dùng làm khuôn mẫu: "Một người nhà quê ở Paris",
của Louis Aragon, trong đó tác giả thân ái ca ngợi hành lang hý viện
("Passage de l’Opéra"), và "Spazieren in Berlin" ("Lang thang ở
Berlin"), của Franz Hessel, cuốn này tập trung vào Kaisersgalerie
[Kaisers là tên một thành phố ở Đức, nổi tiếng vì có một nhà thờ từ hồi
đầu thời kỳ Gothic – thế kỷ 13-14 – và một phòng trưng bầy tranh], và
quyền năng của nó: làm sống lại một thời vang bóng. Trong cuốn sách của
mình, Benjamin mong làm sao nắm bắt
được cái kinh nghiệm lang thang ở Paris giữa những gian hàng, một kinh
nghiệm
vẫn có thể hồi sinh được, vào thời của ông, khi "những vòm cung chấm
phá
điểm tô cảnh quang đô thị, như những hang động còn giữ những bộ xương
hóa
đá của một loài quái thú đã tuyệt chủng: đó là khách tiêu thụ thời
tiền-đế quốc của chủ nghĩa tư bản, [là] loài khủng long cuối cùng của
Âu châu." Sự đổi mới lớn lao của Thương Xá chính là dạng thức của tác
phẩm. Nó dựa trên nguyên tắc dàn dựng [của điện ảnh], đặt những đoạn
văn thuộc quá khứ và
hiện tại cạnh kề nhau, với ước mong rằng, chúng sẽ nháng lửa và soi
sáng cho nhau. Thí dụ như, nếu mục 2,1 của cuốn L, chiếu về việc mở ra
một viện bảo tàng nghệ thuật ở cung điện Versailles vào năm 1837, được
đọc nối kết với mục 2,4 của cuốn A, vẽ lại sự phát triển thương xá
thành những cửa hàng bách hóa, như thế là trong trí người đọc lý tưởng,
sẽ loé lên sự tương tự, "viện bảo tàng so với cửa hàng bách hóa, thì
cũng giống như nghệ phẩm so với
thương phẩm."
Theo Max Weber, mất tín ngưỡng và bỏ cõi thiên đàng là dấu ấn của thế
giới hiện đại. Benjamin nhìn theo một góc độ khác: chủ nghĩa tư bản đã
ru ngủ người ta, và họ chỉ thức giấc khỏi cơn mê ly tập thể, khi nào
người
ta làm cho họ hiểu được, chuyện gì đã xẩy ra với họ. Câu tiêu đề của
cuốn
N, là từ Marx: "cải tạo ý thức CHỈ gói trọn vào điều … thức tỉnh thế
giới,
khỏi cơn mê tự thân." (The reform of consciousness consists solely in….
the awakening of the world from its dream about itself").
Những giấc mơ của thời kỳ tư bản đã nhập thể vào thương phẩm. Toàn thể,
chúng tạo hồn ma bóng quế, thay hình đổi dạng hoài hoài tùy theo sự
trồi sụt của thời thượng, [những thương phẩm như thế đó] được ban cho
đám đông, là lũ tín đồ mê ly đắm đuối, như hiện thân của những dục vọng
sâu thẳm nhất ở trong họ. Hồn ma bóng quế luôn luôn giấu gốc gác của nó
(vốn là lao động bị vong thân). Hồn ma bóng quế với Benjamin cũng giông
giống như ý hệ với Marx – một mạng những gian dối công cộng được quyền
năng của tư bản duy
trì, nhưng nó càng giống hơn [nếu so sánh với] sự tạo mộng của Freud,
[khi
nó] tác động lên tập thể, xã hội.
**
"Tôi không cần nói điều chi. Chỉ bầy ra thôi, " (I need’nt say
anything. Merely show," Benjamin nói; và ở một chỗ khác, "Ýùtưởng so
với vật thể, như tinh hà so với những vì sao." Nếu bức khảm của những
trích dẫn được thiết dựng đúng đắn, thì một dạng thức sẽ xuất hiện, một
dạng thức [còn] hơn [cả] tổng số những thành phần, nhưng không thể hiện
hữu độc lập với các thành
phần đó. Đây là yếu tính của một hình thức mới, trong cách viết duy vật
lịch
sử mà Benjamin tin rằng ông đang hành xử.
Điều làm Adorno ngán ngẩm về dự án vào năm 1935, đó là niềm tin của
Benjamin: rằng chỉ cần lắp ghép những vật thể (trong trường hợp này,
những
trích dẫn tách ra khỏi ngữ cảnh), là có thể tự nói về nó. Ông viết,
"Benjamin ở ngã ba đường, giữa huyền thuật và chủ nghĩa thực chứng."
Vào năm 1948, Adorno đã có dịp may được đọc toàn bộ văn bản "Thương
Xá"ù, nhưng lại một lần nữa, tỏ ra nghi ngờ, rằng nó quá nhẹ về lý
thuyết.
Đối với những phê phán kiểu trên, cách trả lời của Benjamin là phát
minh ra ý niệm về hình ảnh biện chứng – để làm điều đó, ông trở lại với
khoa biểu tượng của thời kỳ Baroque – những ý tưởng đại diện bằng hình
ảnh
– và ám dụ theo kiểu Baudelaire – sự tương tác, the interaction, của ý
tưởng được thay bằng sự tương tác của vật thể làm biểu tượng. Ám dụ,
theo ông, có
thể đoạt vai trò của tư tưởng trừu tượng.
Những vật thể và hình tượng (figures) ở trong những thương xá – những
con bạc, những gái điếm, những tấm gương soi, những hình tượng bằng
sáp, những con búp bê chạy bằng dây thiều – (đối với Benjamin) là những
biểu
tượng (emblems), và sự tương tác giữa chúng tạo nên nghĩa; nghĩa ám dụ
này
không cần du nhập lý thuyết. Theo cùng những dòng, những mẩu đoạn của
bản
văn, lấy ra khỏi quá khứ, đặt vào trong dẫn trường (charged field), của
hiện
tại mang tính lịch sử, chúng có thể ứng xử chẳng khác chi những thành
phần
của một hình ảnh Siêu thực, tức thời tương tác để phát ra năng lượng
chính
trị. (Benjamin viết, "Những biến cố quanh nhà sử học, và trong đó, ông
tham
dự, sẽ làm nền cho sự trình bầy lịch sử của ông, như một văn bản viết
bằng
một thứ mực vô hình."). Như vậy, các mẩu đoạn tạo nên hình ảnh biện
chứng,
[trong khi] vận động biện chứng bị ngưng đọng trong khoảnh khắc, mở
phơi
cho thẩm sát, [đây là] "phép biện chứng ở điểm đứng" ("dialectic at a
standstill"). Chỉ những hình ảnh biện chứng mới là những hình ảnh đích
thực.
Lý thuyết là thế đó, khéo léo đấy, và là điều cuốn sách, bề sâu mang
tính phản lý thuyết của Benjamin, hướng vọng. Nhưng với những độc giả
không bị lý thuyết kia thuyết phục, đối với độc giả mà những hình ảnh
hiện hữu kia chẳng bao giờ trở thành sống động như trong giả thuyết,
những độc giả có lẽ chẳng tiếp thu lối tự sự chủ chốt về giấc ngủ triền
miên của chủ nghĩa tư bản, tiếp theo là bình minh của chủ nghĩa xã hội:
đối với độc giả đó, cuốn "Thương Xá" có gì để cống hiến?
Danh sách ngắn ngủi trong những thứ cống hiến sẽ gồm: một kho báu những
thông tin kỳ lạ về Paris; vô vàn những trích dẫn gợi suy tư, sự thu
hoạch của một trí tuệ sắc bén và đặc dị bủa lưới qua hàng ngàn cuốn
sách; những nhận xét cô đọng, được mài giũa để ánh lên, sắc nước như
châm ngôn, và
hầu hết những chủ đề ưu ái của Benjamin (thí dụ: "mại dâm có thể đòi
được
coi là ‘lao động’, vào lúc mà lao động trở thành mại dâm."
(Prostitution
can lay claim to being ‘work’ the moment work becomes prostitution.");
và
những thoáng nhìn của Benjamin, khi ông đùa giỡn với một cách nhìn mới
về
chính mình: như là một nhà sưu tập những "từ chìa khóa trong một cuốn
từ
điển bí mật," người biên soạn cuốn "bách khoa huyền ảo". Bất thình
lình,
Benjamin, độc giả nhập thất của một thành phố ám dụ, có vẻ gần gụi với
người
đồng thời của ông, là Jorge Luis Borges, nhà ngụ ngôn về một vũ trụ
được
viết lại.
Từ một khoảng cách, tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi nhớ một
điêu tàn lớn lao khác của văn học thế kỷ 20, "Thi khúc" ("Cantos"), của
Pound. Cả hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng đọc sách
theo kiểu cú vọ (jackdaw reading). Cả hai đều được dựng nên từ những
mẩu đoạn và những trích dẫn, và trung thành với một thẩm mỹ học hiện
đại bậc cao, về hình ảnh và dàn dựng. Cả hai đều có tham vọng kinh tế
và đều nằm dưới sự chứng giám của những nhà kinh tế (một bên là Marx,
và một bên là Gesell và Douglas). Cả hai tác giả đều có đầu tư vào
trong những ngành cổ học, và cả hai đều đánh giá quá cao sự thích nghi
của chúng đối với thời đại của
chính họ. Chẳng người nào biết, khi nào thì dừng. Và cả hai, sau cùng
đều
tiêu ma vì con quái vật là chủ nghĩa phát xít. Với Benjamin, là một kết
cục
bi đát. Với Pound, ô nhục.
Số phận của "Thi Khúc": chỉ được trích dẫn đưa vào tuyển tập, cái còn
lại cứ thế mà âm thầm bị bỏ rơi. Số phận của "Thương Xá" chắc cũng
tương tự. Người ta có thể tiên đoán, về những ấn bản dành cho sinh
viên, rút ra chủ yếu là từ Cuốn B ["Thời Trang"), H ("Kẻ Sưu Tập), I
("Nội Thất"), J
("Baudelaire"), K ("Thành Phố Mộng"), N ("Tri Thức Luận "), và Y
("Nhiếp
Ảnh"), trong đó, những trích dẫn sẽ bị cắt bỏ chỉ còn tối thiểu và hầu
hết văn bản sót lại sẽ là do chính Benjamin viết.
Đó chắc không phải hoàn toàn là một điều xấu.
4.
Phạm vi những đề tài quan tâm được trình bầy trong "Tuyển Tập" thì
rộng. Ngoài những bản văn được bàn tới ở trong bài điểm sách này, còn
có tuyển thêm những bài viết thuở mới khởi nghiệp, rõ nét duy tâm, về
giáo dục; nhiều tiểu luận phê bình văn học, gồm cả hai tiểu luận dài về
Goethe, một dẫn giải về cuốn tiểu thuyết "Tương khí tương cầu" ("The
Elective Affinities"), một tổng quan bậc thầy về sự nghiệp của Goethe;
những tuỳ bút, đề tài đa dạng, về triết học (luận lý, siêu hình, mỹ
học, triết học về ngôn ngữ, triết học về lịch sử); những tiểu luận về
sư phạm, về sách trẻ em, về đồ chơi, một
bài rất lôi cuốn về thú chơi sách của bản thân tác giả; và đủ thứ bài
viết
về du lịch, và những chuyến lãng du vào cõi giả tưởng. Tiểu luận về
"Tương
khí tương cầu" sừng sững như một phong cách chơi kỳ dị: Một trường ca
trữ
tình độc tấu, bằng một văn phong cao sang, tế nhị tuyệt vời, ngợi ca
tình
yêu và cái đẹp, huyền thoại và số mệnh, giọng bổng chót vót nhờ mối
thanh
khí ngầm mà Benjamin nhìn ra giữa lớp lang của cuốn tiểu thuyết kể
trên,
và cuộc tình tay tư đắm đuối, bi hài mà vợ chồng ông bị mắc míu.
Tập thứ ba và là tập chót của "Tuyển Tập" phải tới mùa xuân năm 2002
mới được xuất bản. Sẽ bao gồm những bản tóm tắt của Benjamin, về
"Thương Xá", vào những năm 1935, 1938, và 1939; "Nghệ Phẩm", qua hai
bản văn; "Người kể chuyện"; "Một thời thơ ấu ở Berlin"; "Những luận đề
về Quan niệm Lịch sử" ("Theses on the Concept of History"), và một số
thư chìa khóa trao đổi giữa Adorno và Scholem, trong có cả lá thư quan
trọng vào năm 1938, về Kafka.
Dịch thuật ở Tập 1 và 2, là do nhiều người, và tuyệt hảo. Nếu phải kể
một người kiệt xuất thì đó là Rodney Livingstone, do hiệu quả kín đáo –
thay đổi văn phong và giọng điệu - để ghi dấu con đường phát triển của
Benjamin như một nhà văn. Những chú thích cũng gần đạt tiêu chuẩn cao
đó, nhưng không bằng. Thông tin về những nhân vật mà Benjamin nhắc tới,
đôi khi bị lỗi thời (như với Robert Walser) hay không đúng: niên đại về
Karl Korsch - là người mà Benjamin dựa vào rất nhiều, trong việc tìm
hiểu Marx (Korsch bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Đức vì những quan điểm
lệch lạc) - được ghi là 1892-1939, trong khi đúng ra phải là 1886-1961.
Có một số lầm lẫn về từ Hy lạp và La tinh.
Một vài lối hành xử của nhóm biên tập và dịch thuật cũng gây thắc mắc.
Benjamin có thói quen viết những đoạn dài nhiều trang: lẽ ra dịch giả
phải tự tiện ngắt chúng ra. Đôi khi, hai bản thảo của cùng một văn bản
được đưa cả vào sách mà không nêu rõ lý do. Những bản dịch hiện hữu từ
những văn
bản Đức mà Benjamin trích dẫn, được nhóm biên tập sử dụng, rõ ràng
không đạt
tiêu chuẩn.
**
Walter Bejamin là ai? Một triết gia? Một nhà phê bình? Một sử gia? Hay
"chỉ là" một nhà văn?
Câu trả lời hay nhất có lẽ là của Hannah Arendt: ông ta là một "trong
số những người không thể xếp loại… là những người có tác phẩm không hợp
với trật tự đang có, mà cũng chẳng đưa ra một thể loại mới nào."
Cách tiếp cận độc đáo của ông – tới với một đề tài không theo lối thẳng
băng, mà đi xiên từ một góc độ, bước từng bậc, từ một tổng kết qui mô
đã hoàn hảo, tới bậc kế tiếp – khiến người ta nhận ra ngay, vì chẳng ai
bắt
chước nổi, với trí tuệ sắc bén, với kiến thức nhẹ mang, và với một văn
phong
chính xác và súc tích tuyệt vời, đã có lần ông đành không dám nghĩ về
mình,
là giáo sư tiến sĩ. Làm sao tới được sự thực về thời đại của chúng ta,
đó
là cốt lõi dự án của ông, và nó được nhấn mạnh bởi một tư tưởng, mà
Bejamin
nhận thấy, đã được diễn tả bởi Goethe: làm bật ra những sự kiện, theo
kiểu
này: những sự kiện sẽ là lý thuyết của chính chúng.
Cuốn sách "Thương Xá", cho dù chúng ta đánh giá nó như thế nào – điêu
tàn, thất bại, một dự án bất khả, impossible project – đề nghị một
đường lối mới, để viết về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm
chất liệu, thay vì những nghệ phẩm của cái nền văn minh đóù; lịch sử từ
đáy thay vì lịch sử từ đỉnh. Và lời kêu gọi của Benjamin (trong "Những
luận đề" - "Theses"), cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người
thua, thay vì thành tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy
tính tiên tri, về cung cách mà
việc viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn lại ngắn
ngủi của chúng] ta.
Jennifer Tran chuyển ngữ bài viết của Coetzee, "The Marvels of Walter
Benjamin", trên tờ "Điểm sách New York", số đề ngày 11.1.2001).
Ghi chú thêm về Walter Benjamin, trường phái Frankfurt, và J.M. Coetzee.
Walter Benjamin, văn nhân, nhà mỹ học, hiện nay được coi là nhà phê
bình văn học Đức quan trọng nhất của nửa đầu thế kỷ 20.
Xuất thân từ một gia đình Do thái giầu có, Benjamin học triết tại
Berlin, Freiburg im Breisgau, Munich, và Bern. Định cư tại Berlin vào
năm 1920 và sau đó làm phê bình văn học và dịch giả. Nửa muốn theo đuổi
một chân khoa bảng, nửa không, sau cùng giấc mộng nửa vời này cũng
thành không, khi Đại học Frankfurt không công nhận luận án tiến sĩ của
ông, Nguồn gốc Bi Kịch Đức (1928): sáng chói, nhưng không đúng qui ước.
Khi Quốc Xã lên nắm quyền (1933), ông qua Pháp, định cư tại Paris. Tiếp
tục viết tiểu luận và điểm
sách cho các tạp chí, nhưng khi Pháp rơi vào tay Nazi vào năm 1940, ông
chạy
xuống miền nam với hy vọng tới được Hoa Kỳ qua ngả Tây Ban Nha. Được
viên
cảnh sát trưởng thành phố Port-Bou gần biên giới Pháp-Tây Ban Nha cho
biết
ông sẽ bị giải giao cho Gestapo, Benjamin tự hủy mình.
Tính chất siêu hình trong tư tưởng hồi trẻ làm ông nghiêng về Marxist
trong thập niên 1930, và là một trong những thành viên của trường phái
Frankfurt, gồm một nhóm nghiên cứu liên kết với Viện Nghiên Cứu Xã Hội
ở Frankfurt am Main, Đức quốc. Viện này được thành lập năm 1923, bởi
Carl
Grunberg, và là viện nghiên cứu đầu tiên theo đường hướng Marxist được
kết
hợp với một đại học lớn ở Đức, Đại học Frankfurt. Max Horkheimer nắm
quyền
giám đốc viện vào năm 1930, và qui tụ quanh ông rất nhiều lý thuyết gia
tài
năng, bao gồm T.W. Adorno, Erich Fromm, Herbert Marcuse, và Walter
Benjamin.
Những thành viên của nhóm này cố gắng phát triển một lý thuyết về xã
hội dựa trên chủ nghĩa Marx và triết học Hegel, nhưng còn sử dụng cả
những nhận thức về phân tâm học, xã hội học, triết học hiện sinh, và
nhiều môn học khác nữa. Họ sử dụng những quan niệm Marxist cơ bản để
nghiên cứu những liên hệ ở bên trong những hệ thống kinh tế tư bản.
Cách tiếp cận này sau được biết dưới cái tên "lý thuyết phê bình"
(critical theory) nhắm vào những tổ hợp lớn, những cơ sở độc quyền thao
túng thị trường, vai trò của kỹ thuật học, kỹ nghệ hóa văn hóa
(industrialization of culture), và sự thoái hoá của cá nhân con người
bên trong xã hội tư bản. Chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa toàn trị cũng là
những đề tài nghiên cứu nổi bật của họ. Rất nhiều bài
viết được đăng trên tờ báo của viện (Journal for Social Research,
1932-41). Hầu hết những học giả của viện đã bắt buộc phải rời bỏ Đức
quốc, và tị nạn
ở Mỹ sau khi Hitler lên cầm quyền (1933), và viện sau đó được kết hợp
với
Đại học Columbia cho tới năm 1949, khi nó lại trở về nguyên quán là
Frankfurt. Vào thập niên 1960, hầu hết trong số họ đều tỏ ra ‘quá chán’
cái gọi là "chủ nghĩa Marx chính thống", tuy vẫn giữ một thái độ phê
bình cứng rắn đối với chủ nghĩa tư bản. Phê bình của Marcuse về điều mà
ông gọi là sự gia tăng
kiểm soát mọi sắc thái trong cuộc sống xã hội của chủ nghĩa tư bản đã
gây
một ảnh hưởng lớn lao ở giới trẻ (ông này có thời được coi là một trong
ba
đại sư, tên bắt đầu bằng chữ M: Marx, Mao và Marcuse). Tuy nhiên khuôn
mặt
nổi bật nhất của lò Frankfurt những thập niên hậu chiến, là Jurgen
Habermas.
Ông đã cố gắng mở rộng lý thuyết phê bình vào những phát triển trong
triết
học phân tích, cơ cấu luận và cổ văn.
Với Walter Benjamin, những tác phẩm xuất bản sau khi ông đã mất ngày
một làm tăng thế giá của ông, ở cuối thế kỷ 20. Những tiểu luận văn
chương chứa đựng những suy tưởng triết học được viết bằng một văn phong
cô đọng, nặng chất thơ. Phê bình xã hội và nghiên cứu ngôn ngữ tẩm đẫm
nỗi quan hoài
lịch sử, và niềm bi ai.
Tính uyên nguyên, độc lập trong tư tưởng của ông thật là hiển nhiên
trong tiểu luận về Goethe (Goethe’s Elective Affinities, 1924-25), và
những
tiểu luận được in trong "Illuminations", 1961.
(Tài liệu trích từ Bách khoa tự điển Britannica Encyclopedia).
Nhà xuất bản Belknap Press/Harvard University Press vừa mới cho ra lò
những tác phẩm sau đây của ông:
Selected Writings, Volume I: 1913-1926; 520 trang, bìa cứng, giá $37.50.
Selected Writings, Volume II:1927-1934; 870 trang, bìa cứng, giá $37.50.
The Arcades Project; 1,073 trang, bìa cứng, giá $37.50.
**
Trên tờ Người Kinh Tế số ra ngày 19 tháng Hai 2000, dưới đề mục "Những
anh hùng của cuộc chiến. Chẳng bao giờ quên", là bài điểm cuốn "Một
Người Mỹ Trầm Lặng: Cuộc chiến bí mật của Varian Fry", tác giả Andy
Marino (nhà xb St Martin’s Press).
Theo bài viết, vào tháng Tám 1940, một ký giả Mỹ, trẻ, xuất thân
Harvard, đã tới cảng Marseilles "để cứu vớt những gì còn lại của văn
hóa Âu Châu trước khi quá trễ". Ông muốn nói, những con người, chứ
không phải những nghệ
phẩm. Trong số những người nhờ ông mà toàn mạng có những khuôn mặt nổi
cộm,
có số lúc đó ở trong trại cấm Pháp, có số đang ẩn trốn. Rồi tin tức
được
loan truyền, nhiều người không có tên trong danh sách của Fry cũng xúm
nhau
tới gõ cửa nhà Fry. Ông và những người cộng sự có cảm tưởng, họ là
những
"y sĩ trong cơn địa chấn", thứ tình cảm bất lực trước hoàn cảnh, vốn
được
chia sẻ bởi hầu hết những con người làm công việc thiện nguyện.
Danh sách những người được Fry giúp đỡ trở thành một thứ "Who’s Who"
của văn hóa thế kỷ 20, trong đó có Hannah Arendt, Marc Chagall, ba tay
đầu
sỏ của trường phái siêu thực Max Ernst, André Breton và André Masson.
Đó
là những người may mắn. Một trong số họ, nhà văn người Đức, Lion
Feuchtwanger, khi tới được New York, đã "dại đột" kể lại cuộc trốn chạy
may mắn của mình cho báo chí hay. Bởi vậy, một cặp đã bị bắt tại
Madrid: họ ngừng lại để thăm viếng Prado.
Cảnh sát chính quyền Vichy thân Quốc Xã lẽ dĩ nhiên muốn tóm Fry, nhưng
ông còn bị toà đại sứ, lãnh sự Mỹ ghẻ lạnh; ngoại trừ tay lãnh sự ở
Marseilles, số còn lại đều tỏ ra thù nghịch và bài Do Thái. Ngược lại
Fry được giới "dưới hầm" ở cảng Marseilles và nhất là Mafia gốc đảo
Corse, tận tình giúp đỡ.
Chưa đầy một năm Fry bị bắt giữ, và tống xuất. Điểm tống xuất là làng
Banguls, nơi nhiều người tị nạn đã vượt biên giới.
Thật khó mà sống lại một cách bình thường, sau cơn địa chấn ghê gớm
như vậy. Vợ chồng, hôn nhân tan vỡ, làm việc gì cũng thấy chán. Ít
người
chịu ơn còn nhớ tới Fry, ngoại trừ André Malraux, khi giữ chức Bộ
Trưởng
Văn Hoá, đã trao cho Fry huân chương danh dự (La Grande Croix de la
Legion
d’Honneur) vào năm 1967. Bốn tháng sau đó, Fry mất. Vào năm 1996, người
ta trồng một cây để tưởng nhớ ông tại đại lộ The Avenue of the
Righteous
Gentilles, ở Jerusalem.
Không may mắn, có trường hợp của Walter Benjamin. Và cùng với ông, là
bản thảo một tác phẩm mà ông mong nó thoát khỏi Gestapo, còn hơn cả
mạng sống của mình. (I cannot risk losing it. It… ‘must’ be saved. It
is more important than I am).
**
Hannah Arendt đã viết về Walter Benjamin, trong bài giới thiệu tác phẩm
"Illuminations" của ông (trích đoạn):
Fama, nữ thần được (người đời) say đắm nhất, có nhiều bộ mặt, và danh
vọng (fame) tới với họ bằng đủ kiểu - từ tiếng tăm một-tuần cho tới
vượt-thời-gian! Danh vọng "muộn" (posthume) - sau khi đã xuống lỗ - ít
được người đời ham chuộng, tuy đây là thứ vững vàng nhất. Thứ hàng (nhà
văn) có lời nhất, thì đã chết, và do đó, không phải là đồ "lạc xoong"
(for sale).
Trong vài món hiếm muộn, phi-thương, phi-lợi (uncommercial and
unprofitable), có Walter Benjamin. Không nổi tiếng, tuy có được người
đời biết đến, như là một "cộng tác viên" cho vài tạp chí, trang văn
nghệ nhật báo trong thời gian chừng 10 năm trước khi Hitler nắm quyền,
và cuộc tống xuất "tự nguyện" của riêng ông.
Cái chết "tự nguyện" sau đó, vào những ngày sắp sửa đứt phim, thời kỳ
1940, đối với nhiều người cùng gốc gác và thế hệ ông, đã đánh dấu một
thời điểm đen tối nhất của cuộc chiến - mất nước Pháp, Anh quốc bị hăm
dọa,
và hiệp ước Hitler-Stalin (lúc đó) còn nguyên vẹn, và hậu quả đáng sợ
nhất, từ nó: sự hợp tác chặt chẽ giữa hai lực lượng công an quyền lực
nhất tại Âu-châu.
Giả dụ đường đời bằng phẳng: chuyện đời sẽ khác hẳn, nếu những kẻ chiến
thắng trong cái chết, là những kẻ thành công trong cuộc đời (How
different everything would have been "if they had been victorious in
life who have won victory in death"). Danh vọng muộn, một điều chi rất
ư kỳ cục, cho nên không thể trách cứ, rằng không có mắt xanh (người đời
mù hết), hay là chuyện chiếu trên chiếu dưới, xôi thịt, tham nhũng...
trong "đám" nhà văn, "ô nhiễm" trong "môi trường văn chương".
Bất tri tam bách: không thể coi, đây là phần thưởng cay đắng cho một kẻ
đi trước thời của mình, như thể lịch sử là một chạy đua, người chạy
nhanh nhất đã mất hút trước khi người đời kịp nhìn...
Ngược lại: Trước khi có danh vọng muộn, đã có tri âm, dù ít oi, giữa
những kẻ ngang hàng. Khi Kafka mất vào năm 1924, sách của ông bán chừng
vài trăm cuốn, nhưng với bạn văn và một ít độc giả, qua mớ tản mạn này
(chưa
có một cuốn tiểu thuyết nào của Kafka được xuất bản): không nghi ngờ
chi,
đây là một trong những bậc thầy của văn xuôi hiện đại. Walter Benjamin
cũng được vinh dự này. Bertolt Brecht, khi được tin ông mất, đã tuyên
bố:
đây là tổn thất thực, thứ nhất, mà Lò Thiêu đã gây ra cho văn chương
Đức.
George Steiner, khi được hỏi, ảnh hưởng quan trọng nhất tới cõi viết
của ông, là gì, là ai, đã trả lời: Trường phái Frankfurt. Phải chi mà
Benjamin không vội vã ra đi, chắc chắn người viết cuốn "Sau Babel" (tác
phẩm của George Steiner) phải là ông ta. Và nó sẽ tuyệt vời tới cỡ nào!
John Michael Coetzee sinh tại Cape Town (Nam Phi) ngày 19.2.1940. Học
tại Đại học Cape Town và sau đó tại Đại học Texas, lấy bằng Ph.D
(1969), và trở lại Nam Phi năm 1972, dậy Anh ngữ tại Đại học Cape Town.
Tiểu thuyết gia, nhà phê bình, dịch giả; những cuốn tiểu thuyết của ông
là về hậu quả của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Trong cuốn tiểu thuyết
đầu tay của ông, thực ra là hai truyện vừa, "Dusklands" (1974), ông đối
chiếu sự hiện diện của người Mỹ tại Việt Nam với những người Hòa Lan
đầu tiên định cư tại Nam Phi. Trong lịch sử 31 năm của giải thưởng văn
học The Booker, ông là người đầu tiên hai lần đoạt giải, lần thứ nhất
vào năm 1983 với cuốn "Đời và Thời của (Life and Times of) Michael K.",
và năm 1999, với cuốn "Disgrace" (Ô Nhục).
Nguyễn Quốc Trụ