Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
CHUYỂN NGỮ
|
Những Hình Hài Nobel
Elfriede Jelinek
Trong
nhật ký đề ngày 1 tháng Tám 1914, Arthur Schnitzler
ghi có nhận một lá thư báo cho ông biết rằng Áo là quốc gia được chọn
để nhận
giải Nobel Văn học năm nay (1914), và giải này được cưa đôi giữa ông ta
và nhà
biếm văn ấn tượng Peter Altenberg.
Ông
không thật sự hài lòng. Bà vợ ông lại càng bực mình khi
nghĩ đến chuyện phải cưa đôi giải thưởng. Tuy nhiên, vài ngày sau, mọi
người có
chuyện khác để cùng nhau lo ngay ngáy. Chiến tranh thế
giới. Tàn lụi thế giới. Ông ghi nhật ký như
vậy.
Năm
đó không có giải thưởng.
Trái
với giả định của Schnitzler, giải thưởng Nobel không
trao trên căn bản quốc gia, xứ sở. Nếu không, Áo đã chẳng phải đợi ròng
rã
những chín mươi năm mới thực sự vớ được nó: Nobel năm nay, 2004, về tay
nhà
viết tiểu thuyết và kịch Elfriede Jelinek. Giống như Schnitzler,
Jelinek là
người bị những đồng bào của bà bêu riếu, coi như một “Nestbeschmutzer”,
kẻ làm
ô danh đất nước mình, bằng cách vạch áo cho người xem lưng, bày cái mặt
bẩn
thỉu đê tiện của Áo quốc ra cho thế giới bên ngoài nhìn thấy. Tour du
lịch vào
thế giới chìm sex-xiếc ở Vienna, mà Schnitzler dâng hiến, mời gọi chúng
ta
trong tác phẩm gây xì-căng-đan, Reigen (Round Dance: Khiêu vũ vòng
tròn, 1900)
có thể đặt sóng đôi bên cuốn tiểu thuyết được nhiều người biết nhất, và
có lẽ,
tuyệt nhất, của Jelinek, Die Klavierspielerin, 1983, do Joachim
Neugroschel
dịch qua tiếng Anh với nhan đề The Piano Teacher, Cô giáo dạy dương
cầm,
Michael Haneke dựng thành phim năm 2001.
Jelinek
bóc trần những gì được coi là cấm kỵ của cuộc sống
văn hoá và trong gia đình người Áo, trình diện cho chúng ta một cô giáo
dương
cầm nghiêm trang, khéo ăn khéo mặc là Erika Kohut, nhưng cũng chính cô
giáo
nghiêm trang ăn vận khéo léo này lén lút dòm những màn trình diễn khiêu
dâm,
rình mò những cặp trai gái làm tình, và luôn thủ trong người một lưỡi
dao cạo,
dùng nó để dấm dúi cắt da xẻo thịt của chính mình. Cuốn tiểu thuyết bày
ra một
liên hệ rất ư là không bình thường giữa cô giáo và bà mẹ già độc đoán.
Xung đột
mẹ con đạt đỉnh cao khi cô gái đánh đập bà mẹ già. Hay những cách đối
xử của cô
giáo với người học trò, Walter Klemmer, anh này bình thường nói chuyện
âm nhạc
với cô giáo rất ư là tình cảm, rất ư là say mê, cho tới khi anh bắt cô
giáo
phải làm tình bằng mồm với anh ta tại nhà xí. Tất cả những chuyện đó
được kể
bằng một văn phong linh hoạt, bóng loáng, tỉnh bơ, mà, như cái mốt của
thời hậu
hiện đại, văn phong này không cố tình dấy lên ở độc giả một cảm xúc
nào; một
thứ văn phong “nó chỉ là nó”, được biểu hiện qua những qui chiếu mang
tính liên
văn bản và hoàn toàn chỉ là chữ nghĩa của riêng nó. Trang chót cuốn
tiểu thuyết
là cảnh Erika bị anh học trò đập cho một trận, tự làm mình bị thương ở
vai, cứ
thế lê về nhà, máu chảy ròng ròng trên lối đi, xen này được thêm thắt
bằng
những trích dẫn lấy từ đoạn kết thúc cuốn Vụ án của Kafka. Đoạn tả cảnh
hành
quyết Joseph K.
Jelinek
không đơn độc khi trắng trợn vạch áo cho người xem
lưng nước Áo. Bà đại diện cho cả một thế hệ nhà văn Áo - trong số đó có
Felix
Mitterer, Peter Turrini và nhà văn quá cố Thomas Bernhard - họ công
kích tính
phi nhân và giả đạo đức của đất nước của họ.
Có
lẽ Jelinek là người có nhiều lý do hơn hết, trong số họ,
để làm như vậy. Cha của bà, một người nửa Tiệp, nửa Do Thái, vậy mà
không bị
tống vô trại tập trung, chỉ vì ông là một nhà hóa học nhờ vậy mà có ích
cho Đệ
Tam Reich, một nhà nước mà Áo quốc rất mong được kết nhập. Bằng một sự
can đảm
đáng nể, bà lên tố cáo những hoạt động của Kurt Waldheim cho Wehrmacht
(Quân
lực Quốc xã) trong thời gian chiến tranh, cùng những trò ma mãnh của
tay chính
trị cực hữu Jorg Haider. Được gợi hứng từ vở kịch của một kịch tác gia
thế kỷ
19, Johann Nestroy, Hauptling Abendwind (1862) về những giống dân ăn
thịt
người, văn minh nửa vời, bà phác họa Waldheim, một “Tổng thống
Abendwind”, và
bà coi Áo quốc là “vô địch thế giới trong cái trò vờ vĩnh, bị bệnh
quên”
(amnesia).
Những
tấn công nhắm vào Jelinek của giới truyền thông thì
rất ư cay độc, có lẽ bởi một người đàn bà ‘mồm loa mép giải’ mà lại
toàn về
những chuyện thật không đáng nói ra, là chuyện không nên, mà có lẽ còn
là do
hoàn cảnh chính trị khó xử của bà nữa. Là người công khai tuyên bố mình
ủng hộ
chủ nghĩa Cộng sản, bà ngang ngạnh và không chút khoan nhượng trong
việc phân
tích sự dính dấp giữa quyền lực kinh tế với quyền lực về tính dục.
Trong tác phẩm
của bà vào năm 1977, viết tiếp Nhà búp bê, kịch của Ibsen, nhân vật
Nora trở
thành tình nhân của một thương gia, người này bắt cô sử dụng những trò
dâm đãng
của mình để moi tin tức từ người chồng cũ, rồi sau đó bỏ rơi cô gái.
Dưới nhãn
hiệu nữ quyền, Jelinek quan sát, miêu tả bằng cách nào quý bà thông
đồng với
nhau trong trò chơi bạo dâm, cái đã khiến mấy bà bị chế ngự, đành chịu
phục
tùng, chỉ biết đáp ứng lại bằng trò tự làm nhục, làm tổn thương chính
mình, như
nhân vật Erika, hay bằng cách giết con mình, như nhân vật bà vợ giữ nhà
bị hành
hạ, lạm dụng quá cỡ trong Dâm tính (Lust, 1989).
Tới đây, chúng ta thấy có những
vấn đề. Bởi vì với bà, là một thứ chủ nghĩa phản nhân bản mang tính Mác
xít
[Marxist anti-humanism] tự nó biểu lộ ra, qua sự kiềm chế khắt khao lên
những
nhân vật của bà, và chỉ được nới lỏng một chút, ở trong Cô Giáo Dương
Cầm.
Chính một thái độ như vậy đã chối bỏ những thân phận đàn bà, bỏ mặc họ
mắc bẫy
ở trong những trò dâm đãng vinh danh giống đực ngạo nghễ [triumphant
male
sadism], và những trò bạo dâm vô phương cứu giúp của phái nữ [helpless
female
masochism]. Allyson Fiddler, nhà học giả quan trọng nhất về Jenikek ở
trong thế
giới nói tiếng Anh, đã trích dẫn một câu nói của Jelinek, trong một
cuộc phỏng
vấn; bà thừa nhận: “Tôi không thể nào miêu tả bất cứ một sự vật gì theo
kiểu
hướng thượng... Mặc dù là một người Mác xít, tôi không thể nào cổ xúy
cho một
chủ nghĩa lạc quan cách mạng”.
Sự
bi quan của Jelinek cũng hiển nhiên không kém trong những
sáng tác “xanh” (green writing) của bà. [Đây là muốn nói đến cách mạng
xanh,
hoà bình xanh, bảo vệ thiên nhiên môi trường. - ND]. Áo, vùng đất của
Mozart,
còn tự khoe mình như là một thiên đàng của môn leo núi vốn chưa bị hư
hỏng bởi
những đầu óc chỉ nghĩ tới lợi nhuận. Jelinek thuộc vào một chuỗi nhà
văn dẫn
đầu bởi Thomas Bernhard, trong cuốn Frost (1963), thay vì ca ngợi miền
đất
thiên đàng của môn chơi thể thao ‘vua’ này, thì lại mô tả nó với những
xóm làng
miền núi già cỗi, suy tàn, dân làng rặt những bệnh cùng tật, tính tình
hung
hăng, lỗ mãng, trong một khung cảnh đất đai đã bị khai thác tối đa bởi
nạn phá
rừng, đập thủy điện và thú săn bắn. Totenauberg (1991), kịch của bà, về
Heidegger, giáo chủ của giáo phái hiện sinh, tấn công cái trò thờ phụng
sự
trinh nguyên của thời tiền kỹ thuật mang tính nhà quê của ông này cùng
cái việc
thập thò thì thụt đi đêm với bọn chính trị phản động là đám Nazi. Cuốn
tiểu
thuyết mới nhất, Gier (Tham lam, 2000) trong đó có cảnh mô tả một cái
hồ hôi
thối, không phải do thiên nhiên mà do con người tạo ra, bằng chất nổ,
để dùng
làm nơi thải những rác rưởi, đồ phế thải trong xây cất đường xá. Nhân
vật chính
trong cuốn tiểu thuyết, một anh chàng cảnh sát đồi bại, cộc cằn, tàn
nhẫn, ném
xuống hồ thi thể những ngưòi đàn bà mà anh ta lừa dối rồi sau đó giết
chết.
Có
lẽ chúng ta sẽ lĩnh hội những cảnh trên đây một cách rõ
ràng nhất nếu đọc tác giả của nó như là một nhà biếm văn (satirist).
Như
Bernhard, những tác phẩm chỉ trích kịch liệt mang tính ám ảnh của ông
kết án
người Áo về mọi cái xấu xa đê tiện, từ việc phò tá Đức quốc xã tới
chuyện không
chịu thay vớ, Jelinek là một ‘Übertreibungskunstler” - từ của nhà phê
bình
người Áo Wendelin Schmidt-Dengler, tức một nghệ sĩ luôn thái quá (an
artist of
exaggeration). Nhìn dưới ánh sáng đó, sự bất lực của những nhân vật của
bà
tương xứng với cái nhìn của phái Thi Sơn về nghệ sĩ châm biếm. Tôi đặc
biệt
nghĩ tới cảnh này ở đầu cuốn Die Kinder der Toten (Những đứa con của
Thần chết,
1995): một chiếc xe buýt chở học sinh, do một anh tài xế say rượu bị
trật ra
khỏi một con đường vùng núi, nằm giữa cánh đồng “như một bọ cánh cứng
cẩu thả,
bị đá đến nỗi quật ngược ra phía sau, bốn chân thò ra ngoài, quẫy lung
tung,
tuyệt vọng”. “Quẫy lung tung, tuyệt vọng” áp dụng đúng y chang vào kiểu
tự sự
của Jelinek, với những xen lập đi lập lại, để diễn tả tình trạng trì
đọng của
cuộc sống của những nhân vật của bà. Sau cùng, thiên nhiên trong tác
phẩm của
bà không chỉ đóng vai trò đối thể bị con người lạm dụng mà còn như một
quy
chuẩn châm biếm (a satiric norm). Cái bản tính vật dục của Erika Kohut,
được
tượng hình con vật, chính nó chế nhạo những nỗ lực của cô nhằm tự kiểm
soát
mình. Và ở cuối Những đứa con của Thần chết, thiên nhiên đến lượt nó
trả thù:
khách sạn dành cho du khách, với cái tên sặc mùi “lãng mạn rẻ tiền”
(kitsch) là
Alpenrose (Bông hồng An-pơ), bị một trận đất chuồi khổng lồ nuốt chửng,
như thể
sự thực về một nước Áo hiện đại không còn bị ém nhẹm được nữa.
Tôi
không tin tưởng rằng Jelinek là một nhà văn lớn. Nhưng
bà là một nhà văn đáng đọc và có ích. Có thể xem việc trao giải Nobel
cho bà
không chỉ là công nhận tác phẩm và tư thế đối kháng chông chênh của bà,
mà còn
như là một cử chỉ đẹp, tuy muộn màng, đối với cả một hội những kẻ bị từ
chối,
gồm những nhà văn Áo nổi tiếng trong đó có Rilke, Hofmannsthal, Musil,
Broch,
Karl Kraus, Joseph Roth và Ingeborg Bachmann.
Robertson, Ritchie
Nguồn: Nobel Bodies, Phụ trang văn học Thời báo London
(TLS), số ngày 15/10/2004.
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Chú thích:
Đăng lại bản dịch trên e_Văn. Cám ơn BBT, đặc biệt TTCĐ, đã sửa giùm
một số sai sót.
NQT
|