Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
CHUYỂN NGỮ
|
Elfriede
Jelinek
Diễn
văn Nobel
Bên
đường biên giới
Nguyễn
Tiến-Văn dịch
Có
phải viết là cái thiên tư về sự
cuộn mình, hay sự quấn
quít với thực tại? Người ta mê quấn quít lắm, hẳn thế, nhưng gì xảy đến
với tôi
vậy kìa? Gì xảy đến với những kẻ thực sự chẳng hề biết thực tại? Nó
thực rất
bòng bong. Chẳng lược nào, dễ chải cho xuôi. Những nhà văn băng qua nó
và vô
vọng gỡ tóc họ cho thành một phong cách, vốn mau mắn ám ảnh họ hàng
đêm. Có cái
gì sái trong cung cách mình phô. Tóc đẹp chất chồng có thể lại xua khỏi
ngôi
nhà mộng, nhưng chẳng cách gì còn thuần được nữa rồi. Hay buông thõng
thêm một
lần, cái mạng trước mặt, vừa khi nó rốt cuộc bị khuất phục. Hay dựng
đứng vô
tâm trong kinh hoàng trước cái thường hằng xảy đến. Nó đơn giản không
chịu để cho
tươm tất. Nó không muốn chịu. Bất kể bao lần ta chải nó bằng chiếc lược
gẫy mấy
răng, nó vẫn không chịu. Có điều gì còn kém ổn so với trước. Việc viết,
vốn xử
lí với cái xảy đến, chạy qua những ngón tay ta giống như thời gian, và
không
riêng thời gian, suốt khi nó đã được viết, suốt khi đời ngưng. Chẳng ai
mất gì
nếu đời đã ngưng. Cả cái thời đang sống mà không chết, và kẻ không hề
chết đâu.
Khi ta còn viết, thời gian đã tìm ra lối vào tác phẩm của những nhà văn
khác.
Bởi là thời gian, nó có thể làm mọi điều tức thì: tìm ra lối vào tác
phẩm của
riêng ta và đồng thời vào tác phẩm của những kẻ khác, thổi vào những
kiểu tóc
bồng tung của những kẻ khác như một làn gió mát dẫu tinh quái, vốn, bốc
dậy đột
ngột và bất ngờ từ hướng thực tại. Một khi điều gì đã bốc dậy, thì có
lẽ nó
chẳng vội nằm êm. Cơn gió giận thổi và quét sạch mọi thứ. Và nó thổi
mọi thứ
cuốn đi, bất kể là đâu, nhưng chẳng bao giờ về lại thực tại này, là cái
vốn giả
thiết được tái hiện. Mọi nơi, trừ ở đó. Thực tại là cái lẩn dưới lông
tóc, dưới
váy và chính thế: thổi chúng đi và thành cái gì khác. Làm sao nhà văn
có thể
biết thực tại, nếu nó là cái nhập vào y và thổi y đi, mãi mãi sang bên
lề. Từ
đó, một mặt, y có thể nhìn rõ hơn, mặt khác chính y không thể ở lại
trên con
đường thực tại. Không có chỗ cho y ở đó. Chỗ của y luôn ở ngoài. Chỉ
những gì y
nói từ bên ngoài mới có thể nắm bắt ở bên trong, và đó là bởi y nói
nước hai.
Và rồi đã có sẵn hai kẻ thích ngi, hai kẻ mặt mũi trúng cách, họ cảnh
báo rằng
chẳng có gì xảy ra hết, hai kẻ phân giải thực tại theo những chiều
hướng khác
nhau, xới không đủ tới đất nền, vốn đã lở từ lâu như răng lược sún. Bên
ni hoặc
bên nớ. Ðúng hoặc sai. Sớm hay muộn nó cũng đã phải xảy đến thôi bởi
đất nền
làm nền xây cất hoàn toàn không đủ. Và làm sao ta có thể xây trên một
cái hố
không đáy cho được? Nhưng sự bất toàn nhập vào tầm nhìn của nhà văn vẫn
đủ đầy
cho một cái gì đó, mà họ có thể bắt hoặc buông. Họ có thể bắt hoặc
buông nó, và
họ ắt buông nó. Họ không giết nó. Họ chỉ đăm đăm ngó nó bằng đôi mắt
rướm lệ,
nhưng nó không trở nên độc đoán vì cái nhìn lệ nhoà này. Cái nhìn nhắm
đúng.
Bất kể sự gì cái nhìn này chạm tới đều cất tiếng, ngay cả khi nó chìm
lỉm, dẫu
nó cơ hồ chẳng được ngó ngàng, dẫu nó còn chưa hề được phơi ra trước
cái nhìn
sắc sảo của công chúng, bất kể sự gì đã được chạm tới đều chẳng hề cất
tiếng,
rằng nó rất có thể là một cái gì khác, trước khi nó đã ngã gục làm nạn
nhân cho
chính cái mô tả này. Nó nói lên đúng cái điều tốt hơn bỏ mặc đừng nói
ra (bởi
lẽ nó đã có thể đã được nói ra hay hơn?), cái điều vẫn đã phải còn là
không
minh bạch và không nền tảng. Quá nhiều thứ đã chìm lỉm trong nó đến họ
đầy cả
dạ. Nó là cát lầy, nhưng nó không giục giã cái chi. Nó không nền, nhưng
chẳng
phải vô căn cứ. Nó là tuỳ bạn thích, nhưng nó chẳng được ai ưa.
Những
đường biên là phục vụ cho cái
đời sống, vốn chính thị
không xảy ra ở đó, bằng không chúng ta tất cả hẳn đã chẳng vướng sâu
trong nó,
trong cái sung mãn, cái đầy ắp của kiếp người, và nó là phục vụ cho sự
quan sát
về cái đời sống, vốn luôn xảy ra ở một chốn nào khác. Nơi ta không ở.
Cớ sao
nhục mạ một kẻ nào đó, vì y không tìm ra lối về đường hành trình, của
đời sống,
của đường đời, nếu y đã gánh vác nó – và sự gánh vác này chẳng phải là
gánh vác
ai kia, mà cũng chẳng phải là bất cứ cam chịu nào – đơn giản đã tình cờ
mang
phải nó, như cát bụi trên đôi giầy, mà người nội trợ săn đuổi không
thương
tình, có chăng chỉ ít nhẫn tâm hơn so với một người ngoài bị dân địa
phương săn
đuổi. Ðó là loại bụi nào? Phải chăng là bụi phóng xạ hoặc tự hoạt, tôi
chỉ đang
hỏi, bởi nó lưu lại vệt sáng dị kì này trên đường đi? Phải chăng cái
đang chạy
song hàng và chẳng hề bắt gặp lại nhà văn, là con đường, hay nhà văn
mới là kẻ
đang chạy song hàng, sang bên lề. Y chưa qua đời, nhưng hẳn đã băng
đường rồi.
Từ đó y thấy những kẻ đã chia tay với y, mà cả với nhau nữa, đủ kiểu,
để miêu
tả họ, trong hoàn toàn cả tin, để tạo hình thức về họ, vì hình thức là
điều
quan trọng nhất, dù sao, y cũng nhìn thấy họ rõ hơn từ đó. Nhưng rồi,
điều ấy
cũng bị vạch phấn chống y nữa, vậy phải chăng đó là những vạch phấn chứ
không
phải là những hạt quang chất vạch dấu con đường viết? Dù gì đi nữa đó
là một sự
vạch rõ, nó đồng thời trưng và ám rồi sau cẩn trọng che lấp tung tích
để lại.
Ta chưa hề ở đó. Tuy thế, ta biết sự tình ra sao. Lời lẽ đã từ tấm màn
đi
xuống, từ những khuôn mặt bết máu quặn đau, từ những khuôn mặt hoá
trang, cười
ha hả, với những chiếc môi vều bơm sẵn để hoá trang hoặc từ những kẻ
khác, họ
giải đáp đúng câu hỏi trong một trò đánh đố, hay những cái miệng xạo
bẩm sinh,
những người đàn bà không có gì để bênh và không có gì để chống, họ đứng
dựng và
cởi áo khoác để hướng về phía máy hình những bộ ngực mới được làm săn
cứng, một
thuở đã trui thành thép và thuộc về đàn ông. Thêm nữa bao nhiêu cổ họng
tuôn ra
những hát ca như thể hơi thở nặng mùi, chỉ ồn ào hơn. Ðó là những gì có
thể
thấy trên đường, nếu ta còn ở đó. Ta tránh lối con đường. Có lẽ ta thấy
nó từ
xa, nơi đành lẻ loi, và vui sao, bởi ta muốn thấy con đường, nhưng
không muốn
bước nó. Phải chăng lối này vừa gây tiếng huyên náo? Phải chăng bây giờ
nó muốn
thu hút sự chú ý bằng những inh ỏi chứ không phải chỉ bằng những ánh
đèn, người
ồn ào, đèn ồn ào. Phải chăng con đường, mà ta không thể bước, lại sợ
chẳng hề
được bước, khi biết bao tội lỗi rốt cuộc đang thường xuyên bị dấn vào,
tra tấn,
xúc phạm, trộm cắp, hành vi đe doạ, sự đe doạ cần thiết trong sự chế
tạo những
số phận thế giới có ý ngĩa? Con đường chẳng hề hấn gì. Nó cưu mang mọi
thứ,
cách vững chãi, dẫu vô căn cứ. Chẳng có nền. Trên nền mất. Tóc tôi, như
đã nêu,
đang dựng đứng, mà chẳng hề có dầu giữ thẳng đâu, thứ có thể ép nó vững
chắc.
Bản thân tôi cũng không có vững chắc nào. Chẳng có trên tôi, chẳng có
trong
tôi. Khi ta ở trên đường biên, ta luôn phải sẵn sàng nhảy một chút, và
rồi một
chút nữa sang bên lề, vào chỗ hư không, vốn sát cạnh những đường biên.
Và những
đường biên mang theo hầm sụp suốt bên mình, sẵn sàng bất cứ lúc nào há
ngoác dụ
ta ra xa thêm. Dụ ra là dụ vào. Xin làm ơn, tôi không muốn bây giờ
chẳng trông
thấy con đường, trên đó còn chưa có tôi. Tôi mong mỏi sao là mô tả nó
một cách
lương thiện, và trên hết một cách chân thật và chính xác. Nếu tôi hiện
đang đăm
đăm ngắm nó, nó cũng nên làm một chút gì cho tôi. Nhưng còn đường này,
không
miễn gì cho tôi. Nó không dành gì cho tôi. Còn có gì khác sót lại cho
tôi? Tôi
bị ngăn không hiện hữu trên đường của mình. Tôi khó thể nào mảy may tạo
con
đường của mình. Tôi ở ngoài, trong khi không đi ra ngoài. Và ở đó, nữa,
tôi
nhất định muốn có sự bảo vệ chống sự bất định của chính mình, nhưng còn
chống
cả sự bất định của cái nền, trên đó tôi đang đứng. Nó ruổi rong để làm
cho xác
định, không chỉ để bảo vệ tôi, cái ngôn ngữ ngay bên cạnh tôi, và kiểm
điểm,
xem tôi có đang làm nó đúng đắn không, có mô tả thực tại đúng đắn cách
sai trái
không, bởi nó luôn luôn phải được mô tả cách sai trái, không có lối nào
khác,
nhưng phải là cách sai trái đến độ bất cứ ai đọc hoặc nge nó cũng lập
tức nhận
ra cái giả ngay. Những thứ đó là đồ nói láo! Và con chó này, ngôn ngữ,
trong
giả thiết là để bảo vệ tôi, và đó là lí do tôi có nó, sau cùng, nay
đang táp
gót tôi. Kẻ bảo vệ tôi muốn cắn tôi. Kẻ bảo vệ duy nhất của tôi chống
sự bị mô
tả, ngôn ngữ, vốn, ngược lại, hiện hữu để mô tả một cái gì khác, tức
cái không
phải là tôi – đó là lí do tôi phủ kín ngần ấy giấy – kẻ bảo vệ duy nhất
của tôi
quay ngược lại tôi. Có lẽ trong mảy may nào tôi giữ nó, cũng chỉ là để
trong
khi giả bộ bảo vệ tôi, nó lại chồm lên tôi. Bởi tôi đã kiếm tìm sự bảo
vệ trong
cái viết, cái hữu thể trên đường mình, ngôn ngữ, nó khi vận động, khi
nói năng,
đã hiện hình như một nơi trú ẩn an toàn, nay quay ngược lại tôi. Chẳng
lạ gì,
tôi lập tức ngờ vực nó, sau cùng. Cái ấy là lối nguỵ trang nào, nó hiện
hữu,
không để làm ta vô hình, mà để ngày càng thêm riêng biệt?
Ðôi
khi ngôn từ tìm thấy chính tự thân
trên đường do sơ ý,
nhưng nó không ra khỏi đường. Nói bằng ngôn ngữ, đó không phải là tiến
trình
độc đoán gì, chính ta mới là kẻ vô tình hoá ra độc đoán, dù ta có ưng
hoặc
không. Ngôn ngữ biết cái nó muốn. Tốt cho nó, bởi tôi không biết, không
chẳng
chút nào. Nói chuyện, nói năng đại khái tiếp tục nói năng kia kìa bây
giờ, bởi
luôn có nói năng, nói năng, vô thuỷ vô chung, nhưng chẳng hề có nói
lên. Vậy là
có nói năng ở kia kìa, bất cứ nơi đâu những kẻ khác đang lưu lại, bởi
họ không
muốn nấn ná, họ rất bận rộn. Chỉ có họ kia kìa. Không phải tôi. Chỉ
riêng ngôn
ngữ, đôi lúc dời xa khỏi tôi, đến với nhân dân, không phải lớp nhân dân
khác,
mà là dời xa đến cái thật, chân chất, trên con đường có lộ tiêu đàng
hoàng (ai
mà đi lạc được ở đây?), dõi theo từng vận động của họ như một máy chụp
hình, để
ít nhất ra nó, ngôn ngữ, tìm ra được đời sống ra sao và là gì, bởi khi
ấy nó
đích xác không phải là thế kia, và về sau, toàn bộ đời sống phải được
mô tả, dù
trong cái đích xác không phải là nó, chúng ta hãy nói về sự kiện giả
thiết,
rằng chúng ta phải đi kiểm tra y khoa lại một lần nữa. Nhưng đồng loạt
chúng ta
thình lình cất lên tiếng nói, với niềm bất khuất thích đáng, như một
đấng nào
có quyền chọn lựa, hoặc bằng nói lên hoặc bằng không. Dù gì xảy ra, chỉ
có ngôn
ngữ đi xa lìa tôi, còn bản thân tôi, tôi ở lại xa ngái. Ngôn ngữ đi xa,
tôi ở
lại, nhưng xa ngái. Không ở trên đường. Và tôi thì không lời.
Không,
nó vẫn còn đó. Không chừng thuỷ
chung nó đã có đó, nó
có cân nhắc, nó có thể đè nặng những ai? Bây giờ nó đã nhận ra tôi và
lập tức
sủa quát tôi, cái ngôn ngữ này. Nó dám lấy cái giọng ra lệnh này với
tôi, nó
giơ tay đe tôi, nó không ưa tôi. Nó ắt hồ hởi ưa lớp nhân dân quy củ
trên đường
mà nó chạy kề song song, như vốn là con chó, giả vờ phục tùng. Trong
thực tế nó
không những chỉ bất phục tùng tôi, mà mọi người khác nữa. Nó chẳng vì
ai ngoài
chính nó. Nó kêu la suốt đêm, vì chẳng ai đã nhớ, bật lên những ngọn
đèn bên
đường này, những ngọn đèn chẳng được tiếp liệu gì ngoài mặt trời và
không còn
cần dòng điện tí nào từ ổ điện, hoặc đã nhớ tìm ra một cái tên lộ tuyến
thích
ngi cho lộ tuyến. Nhưng nó có quá nhiều tên, đến mức không thể theo sát
nổi với
toàn bộ việc đặt tên, dù ta có rán sức. Tôi hét xéo qua, trong nỗi cô
đơn của
mình, giẫm xéo qua những nấm mồ này của những người đã lìa khuất, bởi
vì lẽ
đang chạy dọc bên rồi, tôi không thể cùng chú tâm tới cái gì tôi đang
chà lên,
những ai đang đạp xuống, tôi chỉ muốn bề nào cũng tới được nơi mà ngôn
ngữ tôi
đang ở rồi, và ở đó nó cười mỉm diễu cợt xéo qua tôi. Bởi nó biết rằng,
nếu có
bao giờ tôi rán sống, nó ắt sẽ ngoéo ngay chân tôi, rồi xát muối vào
những vết
thương của tôi. Tốt thôi. Vậy tôi sẽ rắc muối trên đường của những kẻ
khác, tôi
ném nó xuống, để cho băng của họ chảy tan, muối thô, để cho ngôn ngữ
của họ mất
cái nền vững chắc. Ấy vậy mà nó cũng đã thiếu nền từ lâu. Thật là thứ
ngôn ngữ
trâng tráo không đáy! Nếu tôi không có nền chắc dưới hai bàn chân, ắt
là ngôn
ngữ của tôi cũng không thể có được. Cho đáng đời nó! Cớ sao nó đã không
chịu ở
lại cùng tôi? Nó đã muốn thấy nhiều hơn tôi ư? Trên xa lộ kia kìa, nơi
có nhiều
người hơn, nhất là nhiều những kẻ dễ ưa hơn, tán gẫu với nhau một cách
đãi bôi
ư? Nó đã muốn biết nhiều hơn tôi ư? Nó vốn bao giờ chẳng biết nhiều hơn
tôi,
đúng thế, nhưng nó vẫn còn phải biết nhiều hơn thế. Nó rốt cuộc sẽ giết
chính
mình vì ăn lấn vào chính mình, ngôn ngữ của tôi. Nó sẽ quá lạm về thực
tại. Cho
đáng đời nó! Tôi đã nhổ nó ra, nhưng nó chẳng nhổ gì ra cả, nó giỏi
việc dằn ép
mình. Ngôn ngữ tôi réo gọi tôi vói qua những đường biên, nó thích nhất
là réo
gọi tới những đường biên, nó không cần phải nhắm cẩn thận như thế,
nhưng nó
không cần phải, bởi nó luôn trúng đích, không phải bằng việc nói điều
này hoặc
điều khác, mà là bằng việc cất tiếng nói với “sự khổ hạnh của vô vi”? –
như
Heidegger [1] nói về Trakl [2] . Nó gọi tôi, ngôn ngữ đấy, ngày nay bất
cứ ai
cũng có thể làm điều ấy, bởi mọi người luôn mang theo ngôn ngữ của mình
quanh
họ trong một chiếc máy con để họ có thể nói, họ còn học nó làm gì? Vậy
là nó
gọi tôi nơi tôi đang mắc bẫy và kêu gào, và vùng vẫy, nhưng không,
không đúng,
ngôn ngữ tôi không phải đang gọi đâu, cả nó cũng đi rồi, ngôn ngữ tôi
đã đi
khỏi tôi, đó là lí do nó phải gọi, nó hét trong tai tôi, bất kể là từ
máy con
nào ra, một máy điện toán, một điện thoại di động hay một trạm điện
thoại công
cộng, từ đó nó rống vào trong tai tôi, rằng chẳng tích sự gì khi nói
lớn một
điều nào, bề gì nó cũng đang làm việc đó rồi, tôi chỉ nên đơn giản nói
điều gì
nó bảo tôi, bởi còn vô tích sự hơn khi ít nhất một lần nói lên những gì
trong
tâm mình với một người thân, kẻ đã gục ngã đương trường và là người ta
có thể
tin cậy, vì y đã ngã và sẽ không đứng dậy mau lẹ lắm đâu, để rượt theo
ta và,
vâng, để tán gẫu sơ sơ. Vô tích sự. Những lời lẽ của ngôn ngữ tôi kia
kìa trên
đường vui (tôi biết nó vui hơn của tôi, vốn thực sự chẳng đường lối mảy
may,
nhưng tôi không thể thấy nó rành rành, nhưng tôi biết, rằng tôi nữa ắt
cũng
muốn ở đó), những lời lẽ của ngôn ngữ tôi đã, vì vậy, trong khi chia
lìa khỏi
tôi, lập tức trở thành một sự nói thẳng. Không, phải nói chuyện cho ra
lẽ với
ai. Một sự nói thẳng. Nó lắng nge tự thân khi nói thẳng, ngôn ngữ tôi,
nó tự tu
sửa, bởi sự nói lên vẫn còn có thể cải thiện bất cứ lúc nào; vâng, nó
luôn luôn
có thể được cải thiện và rồi tạo một quy củ ngữ học mới, nhưng rồi chỉ
để có
thể lập tức lại lật nhào các quy luật. Vậy đó sẽ là đường lối mới cho
giải
thoát, tất nhiên tôi ý nói giải pháp. Một giải quyết chóng vánh. Xin
làm ơn,
ngôn ngữ thân thương ơi, mi không muốn một lần mà thôi trước hết lắng
nge sao?
Ðể cho mi học một điều gì, để cho mi rốt cuộc học quy luật của nói
rằng... Mi
đang la lối và càu nhàu về chuyện chi kia kìa? Phải mi đang làm thế,
ngôn ngữ
ơi, để cho ta lại ân cần thâu nhận mi? Ta đã ngĩ, mi đã không hề muốn
trở về
cùng ta! Chẳng có dấu hiệu nào, rằng mi đã muốn trở về cùng ta, đằng
nào ắt
cũng là vô tích sự, ta ắt đã chẳng hiểu ra cái dấu hiệu. Mi chỉ đã
thành ngôn
ngữ là để lìa xa ta và để bảo đảm rằng ta tiếp tục ư? Nhưng chẳng có gì
được
bảo đảm. Và không hề vì mi như ta biết rành mi. Ta còn không nhận ra mi
nữa. Mi
muốn trở lại cùng ta do chính người tự đồng tình ư? Ta sẽ không thâu
nhận mi
nữa, mi nói sao về chuyện đó? Lìa xa là lìa xa. Lìa xa là hết đường.
Vậy nên
nếu nói cô đơn của tôi, nếu sự vắng mặt thường hằng của tôi, sự hiện
hữu không
gián đoạn của tôi trên những đường biên đích thân kiếm tìm lại ngôn
ngữ, để cho
nó, được tôi chăm sóc cẩn thận, sau chót đã về nhà, với một thanh âm
đẹp, mà nó
có thể thốt lên, rồi chuyện chỉ xảy ra, để cho với thanh âm này, tiếng
hú rền
tẩm nhập, xuyên thấu của một long nữ, cuốn bay theo gió, nó có thể đẩy
tôi xa
hơn, mãi xa nữa khỏi những đường biên. Bởi vì sự phản hồi của ngôn ngữ
này, mà
chính tôi sản sinh ra và nó đã chạy lìa xa tôi (hay tôi đã sản sinh nó
vì mục
đích ấy? Ðể cho nó lập tức chạy lìa tôi, bởi tôi đã không xoay xở được
để chạy
lìa chính tôi kịp thời chăng?), tôi bị săn đuổi ngày càng sâu hơn vào
cõi vượt
những đường biên. Ngôn ngữ tôi đang đầm mình cực lạc trong ao bùn của
nó, nấm
mồ nhỏ tạm trên đường, và nó ngó lên ngắm nấm mồ trên không, nó nằm
ngửa đầm mình,
một sinh vật bằng hữu, nó ắt là ưa làm con người hoan lạc như bất cứ
ngôn ngữ
khả kính nào, nó đầm mình, giang rộng đôi cẳng, chắc hẳn để được vỗ về,
còn cớ
nào khác đâu. Nó tham lam mơn trớn, nói cho cùng. Ðiều đó ngăn nó đăm
đăm dõi
ngắm kẻ chết, vậy nên tôi phải dõi ngắm họ thay vào đó, và dĩ nhiên rốt
cuộc
xuống đến tôi. Nên tôi đã chẳng có thời gian nào mà kiềm chế ngôn ngữ
mình, nó
hiện vô liêm sỉ lăn mình dưới những bàn tay của những kẻ mơn trớn. Ðơn
giản là
có quá nhiều người chết, những kẻ tôi phải chăm nom, đó là một từ kĩ
thuật
tiếng Áo cho: những kẻ tôi phải săn sóc, những kẻ tôi phải đối xử tử
tế, nhưng
vả lại chúng tôi nổi danh về việc ấy, về việc luôn đối xử mọi người tử
tế. Thế
giới đang trông vào chúng tôi, không cần gì phải lo. Chúng tôi không
phải để
tâm gì đến điều ấy. Tuy nhiên iêu cầu này, việc ngó ngàng đến kẻ chết,
càng
vang rõ trong tôi, thì tôi càng ít có thể chú tâm tới lời lẽ của mình
hơn,
trong khi đồng thời những kẻ đi dạo đang ve vuốt cái ngôn ngữ thân
thương thuở
nào và nựng cằm nó, điều chẳng làm cho người chết bớt nhăn răng. Không
ai đáng
bị trách. Ngay cả tôi, rối bời cả người lẫn mái tóc, cũng không đáng
trách về
việc kẻ chết vẫn chết. Tôi muốn ngôn ngữ kia kìa rốt cuộc chấm dứt việc
tự thân
làm nô lệ của những bàn tay các kẻ xa lạ, cho dù nó cảm thấy thoải mái
đến đâu,
tôi muốn rằng, nó khởi sự bằng việc chấm dứt nêu những đòi hỏi, mà
chính nó trở
thành một đòi hỏi, rằng rốt cuộc nó ngước mặt, không phải để đón những
vuốt ve,
mà đón một đòi hỏi trở lại cùng tôi, bởi ngôn ngữ luôn luôn phải ngước
mặt, chỉ
là không phải luôn luôn biết điều đó, và không lắng nge tôi. Nó phải
ngước mặt,
bởi người ta muốn thu nạp nó thay vì thu nạp một đứa trẻ, nó thật đáng
iêu, nếu
ta iêu nó. Vì thế người ta chẳng bao giờ ngước mặt, họ quyết định, họ
không đáp
lại những lời kêu gọi, nhiều kẻ còn tức khắc huỷ diệt, xé tan, thiêu
đốt cả
lệnh triệu tập vào xã hội tính, luôn cả ngọn cờ kèm theo: vậy là càng
thêm
người tiếp đón lời mời của ngôn ngữ tôi để gãi bụng nó, để vỗ xoa đâu
đó, để
iêu dấu thu nhận sự thân hữu, thì tôi càng trượt xa, rốt cuộc tôi mất
ngôn ngữ
mình cho những kẻ đối xử với nó tốt hơn, tôi hầu như bay, trên trái đất
đâu là
lối này, mà tôi cần để vội đáp xuống? Cách nào tôi tới đâu để làm gì?
Cách nào
tôi tới được chỗ, nơi tôi có thể tháo gỡ đồ ngề của mình, nhưng trong
thực tế
có thể thu dọn đồ ngề trở lại? Kia kìa có cái gì sáng lấp lánh dưới
cành cây,
phải chăng đó là chỗ, nơi ngôn ngữ tôi thoạt tiên tâng bốc những kẻ
khác, ru họ
vào một cảm giác an toàn, chỉ để cho chính nó được thân thương ru trở
lại rốt
cuộc ít ra một lần? Hoặc phải chăng nó muốn táp nữa? Nó luôn luôn chẳng
muốn
làm gì ngoài việc cắn, chỉ là những kẻ khác chưa biết nó đâu, nhưng tôi
biết nó
rất rành, nó đã ở cùng tôi một thời gian dài. Trước tiên là những âu
iếm và
những thầm thì êm ái vớ vẩn với con vật dường như thuần hoá này, mà ai
ai dẫu
sao cũng có tại nhà, vì sao họ chịu đem một con thú lạ lẫm vào nhà? Vậy
ngôn
ngữ này lại có khác chút gì so với cái họ đã biết rồi? Và nếu nó khác,
thì có
lẽ đem nó vào có thể nguy hiểm. Có lẽ nó sẽ không thuận hảo với cái thứ
họ đã
có sẵn. Những kẻ lạ thân thiện càng nhiều – những kẻ biết cách sống,
tuy nhiên
còn xa xôi lắm với việc biết đời sống của họ, bởi họ theo đuổi những ý
hướng ve
vuốt, vì họ luôn phải theo đuổi một cái gì – thì cái nhìn của tôi càng
không
nhìn thấy rõ đường qua ngôn ngữ nữa. Muôn dặm chứa chan [3] . Ai khác
có thể
nhìn thấy qua sự vật, nếu không là cái nhìn. Cái nói muốn chiếm cứ luôn
cả cái
nhìn chăng? Nó muốn nói, ngay cả trước khi nó đã nhìn chăng? Nó đầm
mình đằng
kia, được những bàn tay mò mẫm, được những ngọn gió lô xô, được những
bão táp
ve vuốt, và bị rủa sả khi lắng nge cho tới khi nó ngưng hết cả lắng
nge. Hầu
hết ai ai cũng chẳng được lắng nge, mặc dù họ nói. Tôi được lắng nge,
mặc dù ngôn
ngữ tôi không thuộc về tôi, mặc dù tôi khó có thể nhìn thấy nó nữa.
Nhiều điều
đã được nói chống nó. Vậy nên nó không có nhiều để nói cho chính mình,
cũng tốt
thôi: nó được lắng nge, khi nó chậm rãi nhắc lại, trong lúc đâu đó có
một nút
đỏ được nhấn, nút này phát động một vụ nổ khủng khiếp. Chẳng còn gì để
nói
ngoài: lạy Cha chúng tôi, ngài ở. Nó không thể hàm ngĩa tôi, mặc dù rốt
ráo tôi
là cha, tức là: mẹ, của ngôn ngữ tôi, tôi là người cha của tiếng mẹ đẻ.
Tiếng
mẹ có đó từ thuở ban sơ, nó đã ở trong tôi, nhưng không có cha nào ở
đó, kẻ có
thể đã thuộc về nó. Ngôn ngữ tôi đã thường khi không hợp thức, điều đó
thường
khi được vạch khá rõ cho tôi, nhưng tôi đã không muốn tiếp lấy ngụ ý.
Lỗi tại
tôi. Cha tôi rời cái gia đình hạt nhân này cùng tiếng mẹ kèm theo. Cha
đã đúng.
Vào địa vị ông tôi ắt cũng không nán lại. Bây giờ tiếng mẹ tôi đã đi
theo cha
tôi, nó kết liễu rồi. Như đã nêu, nó hiện kia kìa. Nó đang lắng nge
người ta
trên đường. Trên đường của cha, người đã đi quá sớm. Hiện ngôn ngữ ấy
biết được
một điều gì đó, mà bạn không biết, mà cha đã không biết. Nhưng nó càng
biết bao
nhiêu, nó càng nói ít bấy nhiêu. Hiển nhiên, nó thường hằng nói một
điều gì đó,
nhưng nó chẳng đang nói gì cả. Và nỗi niềm cô đơn đang từ biệt. Nó
không còn
cần thiết nữa. Chẳng ai nhìn thấy, rằng tôi còn ở bên trong, trong sự
cô đơn.
Tôi không được đoái hoài. Có thể tôi được vinh danh, nhưng tôi không
được đoái
hoài. Cách nào tôi có thể đảm bảo rằng tất cả những lời lẽ này của tôi
nói một
điều gì đó, có thể nói một điều gì đó cho chúng ta? Tôi không thể làm
việc ấy
bằng cách cất tiếng nói. Thực tình ngay cả cất tiếng tôi cũng không
thể, bởi
ngay bây giờ bất hạnh thay ngôn ngữ tôi không ở tại nhà. Kia kìa nó nói
một
điều gì khác, mà vốn tôi đã chẳng iêu cầu nó nữa, nhưng nó đã quên phứt
mệnh
lệnh của tôi từ lúc khởi đầu. Nó không bảo tôi hay, dù nó thuộc về tôi,
rốt ráo
ra. Ngôn ngữ tôi không bảo tôi gì hết, vậy làm sao nó bảo những ai khác
điều gì
được? Nhưng chẳng phải nó không nói gì, bạn phải thừa nhận điều ấy! Nó
càng nói
nhiều hơn, khi nó càng lìa xa khỏi tôi, đúng thực, chỉ khi ấy nó mới
dám nói
điều gì, mà tự thân nó muốn nói, khi ấy nó dám bất phục tùng tôi, đề
kháng tôi.
Khi ta nhìn, ta càng dời xa khỏi đối tượng, khi ta càng nhìn nó cho
lâu. Khi ta
nói, ta chụp bắt nó trở lại, nhưng ta không thể giữ chặt nó. Nó giằng
mình tách
ra và hối hả theo sự gọi tên của chính nó, bao nhiêu là lời lẽ tôi đã
tạo và đã
mất. Lời lẽ đã được trao đổi quá thường khi, tỉ suất hối đoái thì tệ
không thể
ngờ nổi, và rồi chẳng khác hơn: không thể ngờ nổi. Tôi nói một điều gì,
và rồi
nó đã bị lãng quên ngay từ lúc khởi đầu. Ðó là cái nó đã tranh thủ, nó
đã muốn
lìa xa khỏi tôi. Ðiều không thể nói lên được nói lên hàng ngày, nhưng
điều tôi
nói, đó là điều không được phép. Ðó là ti tiện so với điều đã được nói
lên. Ðó
là ti tiện không thể ngờ được. Ðiều được nói lên còn ngay cả không muốn
thuộc
về tôi. Nó muốn kết liễu để cho ta có thể nói: đã nói và kết liễu. Tôi
ắt còn
phải hài lòng, nếu nó phủ nhận sự thuộc về tôi, ngôn ngữ tôi, tuy nhiên
nó phải
nên thuộc về tôi. Làm sao tôi có thể đảm bảo, rằng ít ra nó có chút gắn
bó với
tôi? Rốt cuộc chẳng gì đeo đẳng với những kẻ khác, vậy nên tôi hiến
mình cho
nó. Trở lại! Làm ơn trở lại! Nhưng không. Kia kìa trên đường nó, ngôn
ngữ tôi,
đang lắng nge những bí mật, mà tôi giả thiết không được biết, và nó
truyền
những bí mật này cho những kẻ khác họ vốn không muốn nge. Tôi lại muốn
lắm, nó
ắt là cái quyền của tôi, thực tình như thế, nó ắt sẽ êm xuôi, nếu bạn
muốn,
nhưng nó không đứng im, và nói với tôi, nó cũng không làm điều ấy nữa.
Chính
trong chỗ chân không vượt trổi và tự biện biệt với tôi, nơi đó có rất
nhiều
thực hữu. Chân không là đạo. Tôi còn ở trên những đường biên của chân
không.
Tôi đã lìa đường. Tôi đã chỉ nói những điều theo một kẻ khác. Nhiều
điều đã
được nói về tôi, những chẳng mảy may là đúng. Bản thân tôi cũng chỉ đã
nói
những điều kẻ khác đã nói, và tôi nói: bây giờ mới là cái thực sự được
nói. Như
tôi nói: đơn giản là không thể ngờ nổi! Ðã lâu lắm từ khi nhiều điều
đến thế đã
được nói. Sự lắng nge của ta không thể nào giữ vững thêm nữa, mặc dù ta
phải
lắng nge, để cho có thể làm được điều gì. Trong chiều hướng này vốn
thực tế là
một sự nhìn ra, ngay cả một sự nhìn ra xa lìa khỏi tôi, chẳng có gì để
nói về
tôi, chẳng có gì để nói, chẳng có gì để nói nữa. Tôi luôn chỉ ngắm nhìn
cuộc
đời, ngôn ngữ tôi quay lưng lại với tôi, để cho nó có thể phơi bụng cho
những
kẻ lạ ve vuốt, vô liêm sỉ đối với tôi nó chỉ phô trương, nếu có mảy may
nào.
Quá thường khi nó không cho tôi một dấu hiệu nào và cũng chẳng nói gì.
Ðôi khi
tôi còn không thấy nó kia kìa nữa, và bây giờ tôi còn không thể nói
“như đã
từng nói” nữa, bởi trong khi tôi đã nói nó khá thường rồi, bây giờ tôi
không
thể nói nó nữa, tôi lạc mất lời rồi. Ðôi khi tôi nhìn thấy lưng hoặc
lòng của
những bàn chân, trên đó chúng không thể thực sự biết đi, những lời lẽ,
nhưng
còn mau lẹ hơn khả năng tôi có thể trong một thời gian dài và ngay cả
bây giờ.
Tôi đang làm gì ở đó? Phải chăng đó là lí do ngôn ngữ thân thương của
tôi đã
nằm xuống phần nào xa cách tôi? Dĩ nhiên, cách đó nó sẽ luôn luôn mau
lẹ hơn
tôi, nhảy bổng và chạy tuốt, khi tôi đi băng ngang đến nó từ chỗ làm
việc của
mình, để kiếm nó. Tôi không biết, tại sao tôi phải kiếm nó. Ðể cho nó
khỏi kiếm
tôi? Có lẽ nó, kẻ đã chạy xa khỏi tôi, biết? Kẻ nào không theo tôi? Kẻ
bây giờ
theo những người khác. Chẳng vì lí do gì khác, ngoại trừ họ là những
người
khác. Ðiều đó tạm đủ cho sự nói lên của tôi. Ðiều chính iếu là, tôi
không làm
điều đó: nói lên. Những kẻ khác, luôn luôn là những kẻ khác, vậy là đó
không phải
là tôi, người thuộc về nó, ngôn ngữ ngọt ngào. Tôi hẳn rất thích vỗ về
nó,
giống như những kẻ khác kia kìa, nếu tôi có thể chụp bắt được nó. Nhưng
mà nó ở
kia kìa, vậy nên tôi không thể chụp bắt được nó.
Khi
nào nó sẽ âm thầm chuồn đi? Khi
nào cái gì đó sẽ chuồn
đi, để có im lặng? Ngôn ngữ kia kìa cùng chuồn đi, nó càng có thể nge
ra lớn
tiếng hơn. Nó ở trên mỗi mọi người. Tâm trí tôi mờ mịt. Tôi chưa ngất
đi, nhưng
tâm trí tôi mù mịt. Tôi bị mòn mỏi vì việc ngắm nhìn ngôn ngữ như một
ngọn hải
đăng bên biển, nó được giả thiết soi sáng cho ai đó đường về nhà và vì
vậy đã
tự nó thắp lên, và khi nó xoay nó luôn luôn phơi mở một điều gì khác
khỏi bóng
tối, nhưng bề gì nó cũng ở đó, dù có thắp sáng hay không, nó là một
ngọn hải
đăng, nó không giúp bất kì ai, dù người đó tha thiết muốn đến đâu rằng
nó giúp
để khỏi bị chết trong nước. Tôi càng cố mường tượng ra nó bao nhiêu,
thì nó
càng bướng bỉnh không chịu lụi tắt, ngôn ngữ, bây giờ tôi máy móc tắt
đi ngọn
đèn ngôn ngữ này, tôi chuyển sang ngọn đèn hoa tiêu, nhưng tôi càng
chính mình
chụp lên nó, một cái lụi đèn ở chóp một cây cần dài, mà trong thời thơ
ấu của
tôi những ngọn nến trong nhà thờ được dập tắt, tôi càng cố dập ngọn lửa
này,
thì nó dường như càng có khí trời. Và nó càng la to, cuộn mình dưới
hàng ngàn
bàn tay, điều làm nó khoan khoái, điều bất hạnh thay tôi chưa hề làm,
tôi không
biết, điều gì sẽ làm tôi khoan khoái, vậy nên nó đang la to bây giờ, để
nó có
thể vuột khỏi tôi. Nó la với những kẻ khác, để cho họ cũng tham dự nữa
và la to
như nó, để cho tiếng ồn trở thành lớn hơn. Nó thét, rằng tôi không được
tới gần
quá. Không ai nên tới gần quá bất cứ kẻ nào khác. Và những gì đã được
nói cũng
không nên tới quá gần điều ta muốn nói. Ta không nên tới quá gần ngôn
ngữ của
chính mình, đó là một sự lăng nhục, nó hoàn toàn có thể lập lại điều gì
sau tự
thân, ồn tới chói tai, để cho không ai nge ra, rằng điều nó nói, trước
đây đã
được tụng đọc cho nó, nó còn hứa với tôi những điều, để cho tôi sẽ lánh
xa nó.
Nó hứa với tôi mọi điều, nếu tôi chỉ cần đừng tới quá gần nó. Hàng bao
triệu
người đọc cho phép tới gần nó, trừ tôi! Nhưng nó là của tôi! Bạn ngĩ
sao về
điều đó. Tôi chỉ không thể bảo với bạn, những gì tôi ngĩ về điều đó.
Ngôn ngữ
này ắt đã phải lãng quên thuở ban sơ của nó, tôi không cón giải thích
nào khác.
Với tôi nó đã khởi đầu bé bỏng. Không, giờ nó lớn bao nhiêu, tôi không
thể bảo
cho bạn đâu! Như vầy tôi không còn không nhận ra nó được. Tôi đã biết
nó, khi
nó chỉ cao chừng này. Khi nó còn lặng lẽ chừng ấy. Khi ngôn ngữ còn là
con của
tôi. Giờ thình lình nó đã hoá ra khổng lồ. Ðó không phải còn là con tôi
nữa.
Ðứa trẻ chưa trưởng thành, chỉ mới lớn ra, nó không biết rằng nó còn
chưa lớn
hơn tôi, nhưng nó đã tỉnh thức. Nó tỉnh thức đến nỗi, rằng nó nhận chìm
chính
nó bằng tiếng khóc, và bất cứ ai khác to hơn nó. Rồi nó xoáy lên thành
một cao
độ, không thể ngờ. Hãy tin tôi đi, bạn thực sự không muốn nge nó! Cũng
vậy, xin
đừng tin rằng tôi hãnh diện về đứa con này! Thoạt khởi đầu của nó tôi
đã muốn
nó vẫn im lìm như khi nó còn chưa có tiếng nói. Ngay cả bây giờ, tôi
không muốn
nó cuốn qua một vật gì như thể một cơn dông, làm cho những kẻ khác còn
rống to
hơn nữa và giơ những cánh tay của họ lên và ném những vật cứng, là
những thứ
ngôn ngữ tôi không còn có thể nắm bắt nổi, lỗi tại tôi nữa là tôi đã
luôn luôn thiếu
tính thể thao. Nó không thể chụp bắt. Nó có thể ném nhưng không thể
chụp bắt.
Tôi vẫn còn bị cầm tù trong nó, ngay cả khi nó ở xa. Tôi là người tù
của ngôn
ngữ tôi, nó là kẻ canh ngục. Nực cười – vì nó còn không thèm để mắt ngó
ngàng
tới tôi! Phải chăng vì nó quá đinh ninh về tôi? Phải chăng nó quá đinh
ninh,
rằng tôi không chạy mất là cái lí do nó tin tưởng, nó có thể bỏ mặc
tôi? Có kẻ
nào đang tới đây, người đã chết rồi, và y trò chuyện với tôi, mặc dù
điều đó
không dự trù cho y. Y được phép, nhiều người chết bây giờ đang cất lên
những
tiếng nói ngẹn ngào, bây giờ họ dám, bởi vì ngôn ngữ của riêng tôi
không còn để
mắt canh chừng tôi. Bởi nó biết, điều đó không cần thiết. Dù cho nó
chạy xa
tôi, tôi cũng sẽ không vuột khỏi đôi bàn tay của nó. Tôi ở ngay trong
tầm tay
nó, nhưng nó đã vuột khỏi đôi tay tôi. Nhưng tôi ở lại. Nhưng cái ở
lại, những
nhà văn không tạo nên. Cái ở lại đã đi mất rồi. Ðường bay của tưởng
tượng bị
cắt. Không gì và không ai đã tới. Vì nếu tuy, ngược mọi lí lẽ, không
mảy may gì
đã tới, thì một chút hẳn còn mong ở lại, và rồi cái ở lại, ngôn ngữ, là
cái phù
du nhất trong tất cả, đã biến đi. Nó đã đáp lời cho một quảng cáo trống
không
của tình thế mới. Cái đáng ở lại, luôn đi mất. Dù sao đi nữa nó cũng
không có
đó. Vậy cái còn lại cho ta là
Dịch
từ bản tiếng Anh (do Martin
Chalmer dịch từ bản gốc
tiếng Ðức)
-------------------------------------------------------------------------------
[1]]
Martin Heidegger (1889 - 1976)
triết gia Ðức – cùng với
Wittgenstein (1889 -1951) và Derrida (1930 - 2004) được coi là ba triết
gia lớn
nhất thế kỉ 20.
[2]Georg
Trakl (1887 - 1914) thi sĩ
Áo, thường được coi là
một trong những nhà thơ viết bằng tiếng Ðức đẹp nhất trong thế kỉ 20.
Khuynh
hướng đi từ Ấn tượng qua Biểu hiện. Viết chuyên về mùa thu, hoàng hôn,
điêu
tàn. Ông và em gái là Margarete quan hệ cực mật thiết đến có con với
nhau. Cả
hai đều ngiện ma tuý. Ông đem vào thơ cảm nhận sâu sắc về tội lỗi và
cứu chuộc.
Tiếng nói tối hậu của ông là kêu cầu em gái giải thoát cho mình. Những
bài thơ
cuối cùng của ông viết về chiến tranh như thứ hình phạt cho loài người
bị
nguyền rủa. Kinh hoàng trước cảnh tượng tàn sát trong Thế Chiến, ông
toan tự
sát và đã kết liễu bằng việc dùng ma tuý quá liều lượng. Người em gái
dùng súng
tự sát năm 1917.
[3]Trong
nguyên bản ba từ này dùng
tiếng Mĩ “Miles and more”
là lời quảng cáo của hàng trăm hãng hàng không du lịch toàn cầu.
Nguồn:
http://nobelprize.org/literature/laureates/2004/jelinek-lecture-e.html
|