Thủ bút của Trần Trọng Kim
gửi Hoàng
Xuân Hãn năm 1947
Nguyễn Đức Toàn
Viện
nghiên cứu Hán Nôm
Trần
Trọng Kim (1887-1953) là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn học, sử học
có tiếng trong giới trí thức nước ta thời cận đại. Ông đã để lại nhiều công
trình nghiên cứu có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam sử lược, có đóng góp
cho tri thức và nghiên cứu lịch sử văn hóa nước nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Nam quốc địa dư
chí, tôi
phát hiện ra bức thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi đã bị phết hồ dán
kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm tra văn bản
bức thư vô tình rơi ra. Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc
từ thư viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn. Bức thư này có
lẽ đã đến tay cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín vào tờ bìa của cuốn Nam quốc địa dư chí, mà sau này được hiến tặng
lại cho thư viện.
Đối
chiếu với tập hồi ký Một cơn gió bụi của cụ Trần đã được xuất
bản trong những năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là bút tích và
giọng văn của cụ Lệ thần - Trần Trọng Kim, vì những nhân vật trong thư nhắc
đến đều là những gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng,
sự kiện, giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày
tháng, sự kiện, giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập hồi ký đã nêu
trên.
Chúng tôi xin được giới thiệu nội
dung bức thư như một phần di cảo bút tích của
một nhà giáo, một học giả uyên bác và đức hạnh, một nhà nghiên cứu Nho giáo
tân học cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im lìm trong một tập sách cũ.
Thấy rõ thêm mối quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn của nước ta trong
lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng và nghiêm túc trong
công tác bảo quản các tư liệu Hán Nôm của chúng ta hiện nay.
Bức
thư gồm 2 tờ viết 2 mặt.
Nội dung như sau :
Sài Gòn, ngày 8 tháng 5,
năm 19471
Ông
Hãn2
Hôm
ông Phan văn Giáo3 đưa cái thư của ông
vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là đoạn viết
bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc-ngữ, gửi
sang để Ngài4 xem.
Gần đây tôi
lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái cũng như
thư trước. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông,
cho nên trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng chắc-chắn,
thì ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi tôi lại viết thư ra
nhắc lại lời dặn của tôi. Vậy sự ngài về chắc là không có.
Tôi
sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy5,
hoang-mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau6
do ông D’argenlieu7 sai sang gặp Ngài và
tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái-độ để cầu hoà-bình. Ngài thấy thế bảo tôi
về tận nơi xem thái độ người Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý tứ người
Việt ta thế nào. Nếu làm được việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ
khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa-vụ của mình, nếu không thì lương-tâm ta
cũng yên, vì đã cố hết sức mà không làm được8.
Tôi
về đây hôm 6 tháng hai tây9, không gặp
ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông
ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị,
nói chuyện thì tử-tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường,
làm một nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho
tôi dược gặp ông, ông Hiền10 và Khiêm11, họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng mãi chẳng thấy ai
vào. Tôi biết ý [tr1] cũng không hỏi nữa.
Tôi
xem việc người Pháp làm, không thấy gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái
thái-độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng, họ phao ra rằng tôi nhu-nhược
và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người Nam thân tín của họ đến
nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng vì thế tôi không muốn
gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng : Tôi về đây, là tin ở lời
hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng xứ Pháp, nay công việc không
xong, thì cho tôi trả ra để bảo cho Ngài biết. Họ nói : Việc ấy cố nhiên
rồi, nhưng ông hãy thong-thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ
không cho tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện với Ngài12.
Dù
sao, tôi cũng không ân-hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biêt rõ sự
thực. Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài
kia. Bây giờ tôi nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục yên-ổn thì tôi
về ngoài Bắc, néu không thì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ liệu.
Còn
về phương diện người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng
kia lăng-nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái-quốc, nhưng
cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa-vị
và quyền-lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi-kỵ nhau rồi lăng-mã lẫn nhau.
Tôi về đây chỉ gặp Thảo13, Hoè14 và Sâm15. Tôi
bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết nhau thành khối, thì mới có thể đối phó với
người ta được. Sâm cũng cho ý kiến ấy là phải. Song một độ thấy bẵng đi,
không đến gặp tôi, rồi bất thình-lình xuất hiện ra Mặt trận quốc gia16, mà không cho tôi biết. Mãi mấy hôm nay mới đến
nói rằng vì sự đi lại khó khăn, nên không kịp nói cho tôi biết việc ấy.
Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là việc nên làm, nhưng trước hết phải
xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan tuyên truyền và bênh-vực việc
làm của mình. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận kháng chiến17, họ [tr2] có đồng ý, thì việc ông làm hoạ
may mới có hiệu-quả. Nay việc chưa xếp đặt ra gì cả mà ông đã vội-vàng xướng
xuất ra như thế, tôi e khó thành được. Hắn nói : Việc đã trót rồi, đã ném
lao thì phải theo lao.
Tôi
thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không
làm gì được, cho nên chỉ giữ cái dịa vị bàng-quan mà thôi, thật là:
身
在 南 蕃 無 所 預
心
懐 百 憂 復 千 慮
(Thân
tại Nam phiên vô sở dự,
Tâm
hoài bách ưu phục thiên lự.
= Thân
ở cõi Nam không tham dự việc chính trị,
Lòng
đã ôm trăm mối lo lắng lại thêm nghìn điều ưu lự)
Tôi
vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi, nhưng vì chỉ tiếc
họ quá thiên về chủ-nghĩa cọng-sản quá. Họ chỉ có một mục-đích là thi hành
chủ nghĩa của họ, họ dùng đủ phương diện để đưa người ta vào cái chòng của
họ. Sự hành-động của họ ở bên ta cũng như bọn cọng sản đã dùng ở bên Tàu
và ở các nước khác, đều theo một lối đúng nhau như hệt. Họ không cần quốc-gia,
không cần đạo-đức, nhưng có nhiều người tin ở nghĩa quốc-gia, thì họ lợi
dụng cái nghĩa quốc-gia để đạt cái chủ-nghĩa của họ. Lừa dối xảo-quyệt đủ
đường, cho nên người ta dễ mắc lừa lắm.
Nay
V.M. đứng vào cái địa-vị chống Pháp, tất là có cái thanh-thế rất mạnh. Nếu
họ biết đổi cái thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và tìm cách thu dụng các
đảng phái khác, để lập thành một khối, không khuynh hướng hẳn về Cọng sản,
thì có cơ thành công được, nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, thì có
thể được không? Dù sao, đối với viêc nước mình, V.M. phải chịu cái tiếng
功 之 首
罪 之 魁(Công
chi thủ tội chi khôi = Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ý
kiến riêng của tôi, còn các ông nghĩ thế nào tôi không biết.
Khi
tôi ở Hương- cảng, ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh18 bị Tây giết, tôi thương ông Oánh quá, có làm bài
tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem điếu ông ấy:
Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ
Đất khách mơ - màng những thở - than,
Mảng tin bác bị lũ hung tàn.
Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn,
Căm giận quân thù đã tím gan.
Ông
Oánh sinh thời là một người trung hậu ngay chính, ở đời này thật là ít có.
Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái nạn tai bay vạ gió. Thôi [tr3]
thì cũng là một cách ông ấy trả nợ nước.
Tôi
muôn nhờ ông một tí việc, khi tôi đi, tôi còn một bản đánh máy tập Vũ
trụ đại quân19 gửi ông Oánh,
nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có còn nữa không. Nếu còn, thì ông
làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công trình mất mấy năm trời mà mất đi, thì tiếc
quá.
Nhờ
ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến qua chỗ nhà tôi ở Nhà Rượu20, xem có ai coi giữ cái nhà đã bị đốt21 đó không. Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử
vào trong nhà xem những sách vở có còn gì nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ
lấy cho tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà không hư hỏng lắm thì nhờ hắn xem có
thể chữa sửa được không. Giá có thể chữa lại it nhiều rồi cho người ta tạm
thuê để lấy tiền và cốt nhất là khi nào tôi có về được, mong còn có chỗ
che sương che nắng.(Việc này không cần nữa, vì tôi đã gặp Khiêm ở đây
rồi.)22
Ông
có biết tin ông Bùi Kỷ23 bây giờ ở đâu không.
Tôi về đây không có tin tức gì về đường nhà ông Bảng cả.
Nhà
tôi và Chương24 đều có lời chúc ông bà
được mạnh khoẻ. Tôi có lời thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và tất cả các bạn.
Ông Hoè hôm ra Hà-nội có đến gặp tôi, nhưng vội quá, không viết được thư.
Bây giờ ông Hoè ở đâu và làm gì?
Sau
này ông có gửi thư cho tôi, nên để chờ khi nào có người chắc chắn vào đây,
đưa đến cho tôi thì hơn. Không nên gửi người không được chắc chắn.
Nay kính thư
Trần Trọng Kim [tr4]
Chú
thích :
1. 8/5/1947
: ngày viết thư. Một cơn gió bụi có ghi việc Cao uỷ Pháp là Bollaert
ra Bắc : “ngày 8/5 mấy hôm trước khi ông Bollaert ra Bắc, ông Didier Michel
hẹn đến gặp tôi”. Bức thư có lẽ được cụ Trần nhờ Didier Michel gửi hộ.
2.
Ông Hãn: Chỉ Hoàng Xuân Hãn, nguyên Bộ trưởng bộ giáo dục và Mỹ thuật của
chính quyền Trần Trọng Kim trước Cách mạng tháng 8. Năm 1947 Hoàng Xuân
Hãn còn đang ở Hà Nội.
3.
Phan văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu thuốc lớn ở Thanh Hoá, là nhà Tư sản nổi
tiếng có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt trong Cách mạng tháng 8, sau được thả
ra. Sau năm 1945 tiến hành nhiều cuộc vận động để khôi phục chính thể quân
chủ ở miền Nam .
4.
Ngài : Chỉ vua Bảo Đại - Vĩnh Thuỵ, lúc này đã thoái vị. Sau được chính
quyền cách mạng cử đi công cán Trung Quốc, thì ở lại không về và sang ở
Hương Cảng. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd)
5.
Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra thì Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo
Đại thoái vị, ông về ở làng Tại Thế gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không
ra ngoài. Đầu năm 1946 thì về Hà Nội, không tham gia việc gì nữa. Sau khi
Bảo Đại đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không về. Cuối tháng 5/1946, quân
Tầu Tưởng rút dần về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng Kim theo một số người
của Quốc Dân đảng sang Trung Quốc tìm bắt liên lạc với Bảo Đại, và gặp nhau
ở Hương Cảng.
6.
Cousseau : Quan cai trị, từng làm Công sứ ở nhiều tỉnh tại Bắc Kỳ, là người
móc nối dàn xếp đưa Bảo Đại từ Hương Cảng về nước để thành lập chính phủ
theo ý người Pháp. (Phạm Khắc Hoè. sđd)
7. D’argenlieu
: Cao uỷ Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ. Năm 1947 thì về nước cho Bollaert
sang thay. (sđd)
8. Trần
Trọng Kim, sđd, tr166, 167...
9. hôm
6 tháng 2 tây : ngày Trần Trọng Kim về đến Sài Gòn. Một cơn gió bụi có
ghi : “ngày 5 đến Sài Gòn, nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.”
10.
ông Hiền : Luật sư Vũ Văn Hiền, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần
Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tài chính. Bị quân Pháp bắt giữ sau ngày
toàn quốc kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội cùng với Phạm Khắc Hoè, Hoàng Xuân
Hãn, Nguyễn Xuân Chữ, ... sau được thả ra. (Phạm Khắc Hoè, sđd)
11.
Khiêm : Có thể là Phạm Duy Khiêm, người cùng tham gia với Trần Trọng Kim
soạn sách “Việt Nam văn phạm”.
12.
Trần Trọng Kim lúc này đã không còn giá trị. Người Pháp muốn tách ông ra
khỏi Bảo Đại để không thể gây ảnh hưởng, cản trở ý đồ thành lập một chính
phủ theo ý muốn của người Pháp.
13.
Thảo : Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), luật sư toà Thượng thẩm Sài
Gòn, là một luật sư rất có uy tín, thường đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhân
dân lao động cấp dưới, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng
Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tư pháp, Phó chủ tịch hội đồng cố vấn chính phủ
lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh
các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam, đi nhiều nước vận động
chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Uỷ viên trung ương mặt trận tổ quốc,
Đại biểu quốc hội.
14.
Hoè : Phạm Khắc Hoè, giữ chức Đổng chưởng lý văn phòng Ngự tiền của vua
Bảo Đại. Sau này đi theo kháng chiến, bị Thực dân Pháp bắt đưa về miền Nam
dụ dỗ quay trở lại phục vụ Bảo Đại không thành, phải thả ông ra ở Hà Nội,
ông tìm cách trốn khỏi thành phố lên chiến khu, có viết tập hồi ký “Từ
triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”. Tập hồi ký này có nhắc đến việc
ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ biệt Trần Trọng Kim trước khi
ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm Khắc Hoè đi Hà Nội gần một tháng (8/5/1947).
(Phạm Khắc Hoè, sđd)
15.
Sâm : Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch hội ký giả Nam Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí
ở Sóc Trăng vì những hành động chống Pháp. Năm 1945, tham gia chính quyền
Trần Trọng Kim, Hội viên hội đồng dự thảo Hiến pháp. Sau được phái đi làm
Khâm sứ Nam Kỳ để tiếp thu Nam Kỳ được Nhật trao trả, chưa kịp thực hiện
thì cách mạng tháng 8 bùng nổ. Là người tham gia thành lập Mặt trận quốc
gia Việt Nam ở miền Nam , là thủ lĩnh đảng Việt Nam quốc dân độc lập, ông
bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang Thắng, sđd)
16.
Mặt trận quốc gia : Ngày 17-2-1947, Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam
cùng một số nhân sĩ đã tiếp xúc với Bảo Đại và đã thành lập một Mặt Trận
mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng
Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc
Gia Thanh Niên Đoàn có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng
Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác không chịu được sự "khó tính" của
Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo Đại về lập
chính phủ chỉ có nhân viên của các nhóm tư bản và của đế quốc cộng tác mà
thôi. Với những thành phần " Nam kỳ quốc" và bọn tay chân của đế quốc, Pháp
tạo ra các chiêu bài độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã
thất bại. Nguyễn Văn Sâm chắc cũng tham gia trong mặt trận này.
17.
Mặt trận kháng chiến : Chỉ Mặt trận kháng chiến của nhân dân miền Nam (?)
18.
ông Oánh : Tức Nguyễn Quang Oánh (1888-1946), anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu
Ôn Như). Làm Thanh tra các trường Sơ học, Hội viên hội đồng cải cách giáo
dục của chính quyền Trần Trọng Kim, từng cùng Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ biên
soạn sách Tiểu học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư. Toàn quốc kháng
chiến, ông bị giặc Pháp ập vào nhà bắn chết ngày 22/12/1946. (Trần Văn Giáp,
sđd); Nguyễn Băng Hồ : Chỉ tên hiệu của ông Nguyễn Quang Oánh là Băng Hồ.
19.
Vũ trụ đại quan : Một trong các công trình nghiên cứu của Trần Trọng Kim.
(Trần Văn Giáp, sđd)
20.
Nhà Rượu : Trần Trọng Kim có nhà ở khu vực gần Nhà máy Rượu Hà Nội (phố
Nguyễn Công Trứ). Tức là căn nhà 41 phố Hàng Chuối (Trần Trọng Kim, Một
cơn gió bụi, Nxb.Vĩnh Sơn, S., 1969)
21.
“Cái nhà của tôi ở phố nhà
Rượu cũng bị quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi, có
lắm quyển rất cổ rất quý, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá ra tro tất
cả. Tôi vẫn chưa hiểu vì lẽ gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc là vì đốt nhà bên
cạnh mà cháy lây sang, hoặc vì Việt Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được,
họ cho lệnh đốt nhà cho bõ tức”. Trần Trọng Kim, sđd.
22. Tác giả tự đánh
dấu, và ghi chú sang bên cạnh thư, nhắc việc này thôi vì đã nhờ được rồi.
23.
Bùi Kỷ : Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ (1887-1960), Hội viên hội đồng cải cách
giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, cùng Trần Trọng Kim biên soạn nhiều
tác phẩm : Truyện Thuý Kiều, Việt Nam văn phạm, Nho giáo. Chủ tịch
Hội văn hoá kháng chiến liên khu 3, uỷ viên Hội Liên Việt liên khu, Chủ
tịch hội hữu nghị Việt- Trung. (Trần Văn Giáp, sđd)
24.
Chương : Luật sư Trần Văn Chương, từng tham gia Nội các của chính quyền
Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. (Trần Trọng Kim; Phạm
Khắc Hoè, sđd)
Thư mục tham khảo
1.Lệ thần - Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi,
Nxb Vĩnh Sơn, S,. 1969
2. Phạm Khắc Hoè, Từ
triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, H,.1986
3. Nguyễn Quang Thắng,
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam . S,.1982
4. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Hán Nôm
II. H.,1987
5. La Sơn Yên Hồ - Hoàng Xuân Hãn.
Nxb GD, H,. 1998 (2t)