TƯỞNG NIỆM
|
Tribute
'Nhà
thơ' Karadzic
Nhà báo Anh Ed Vulliamy kể
lại về chuyến thăm Bosnia 1992 cùng đoàn làm phim ITV rằng Karadzic,
một bác sĩ
tâm thần học, thạo tiếng Anh (từng học ở đại học Columbia, Hoa Kỳ), có
"cặp mắt nhợt nhạt", "cái bắt tay hờ hững".
Ai dám nghĩ một trí thức nhỏ
nhẹ có vầng tóc cao không khác gì một nghệ sĩ ở Paris lại cho quân lính bắn giết, hãm
hiếp
điên cuồng.
Đoàn làm phim bay qua các
làng mạc bị đốt cháy, những bãi xác người tới Pale, để gặp Karadzic, kẻ
tự hào
nói về chính sách "thanh lọc sắc tộc".
Cùng lúc, tại "nước cộng
hòa" tự xưng của vài trăm nghìn người Serb ở Bosnia, những nhóm dân
chúng
cuồng nộ vì tinh thần bài Hồi giáo còn tổ chức hội thơ của Karadzic,
vừa là
tổng thống, vừa là nhà thơ dân tộc.
"Nhà thơ lớn" còn
sang London, Paris để dự các cuộc hội đàm "hòa bình", một vết nhơ của
lịch sử ngoại giao châu Âu.
BBC
Như
vậy, chỉ vì ông Trùm còn là nhà thơ, cho nên ông BBC Mít này mới để
kế bên nhà văn Solz?
Bác Hồ chẳng phải vừa là Cha Già, vừa là Nhà Thơ Dân Tộc sao?
Viết về ông Trùm, bèn nhớ tới Bác?
*
Và đây là mấy dòng thơ của
ông Trùm:
« Je suis né pour
vivre sans
tombeau, / ce corps humain ne mourra jamais, /
il n'est pas
né seulement pour
sentir les
fleurs / mais aussi pour incendier, tuer et tout réduire en poussière
... »
[Tôi sinh ra để sống
không
một nấm mồ
Xác thân này không
hề chết
Nó sinh ra không
phải chỉ để
ngửi mùi hoa
Mà còn để đốt nhà,
giết người
và biến tất cả thành tro bụi]
*
Lukacs
phán:
Độc giả đọc Một ngày là cảm thấy đây là biểu
tượng cho
mọi ngày của thời kỳ Stalin. Tuy nhiên, không có một tí dấu vết của
chủ nghĩa
biểu tượng trong cách miêu tả của Solz. Ông trình ra một ngày của tên
tù Ivan
như một lát hiện thực, a guenine, realistic slice of life, qua đó,
không một
chi tiết bị khái quát quá để có mùi biểu tượng. Nói rõ hơn, số phận của
hàng
triệu triệu con người được nén lại vào trong một lát mỏng này
*
Either
way, the enormous
tension between those who had been "there" and those who had stayed
home could not remain confined in bedrooms and locked behind doors
forever.
Those responsible for what had happened were still alive. Finally, at
the
Twenty-second Party Congress in October 1961, Khrushchev, now fighting
for
influence within the Party, began naming them. He announced that
Molotov,
Kaganovich, Voroshilov, and Malenkov were all "guilty of illegal mass
repressions against many Party, Soviet, military and Komsomol officials
and
bear direct responsibility for their physical destruction." More
ominously, he also hinted darkly at the "documents in our possession"
which would prove this guilt.
Yet
Khrushchev did not, in
the end, publish any such documents in the course of his struggle
against the
Stalinists who opposed his reforms. Perhaps he was not really powerful
enough
to do so--or perhaps such documents would have revealed his own role in
Stalinist repressions as well. Instead, Khrushchev deployed a new
tactic: he
widened the public discussion of Stalinism even further, broadening it
beyond
internal Party debates-spreading it to the literary world. Although
Khrushchev
probably was not much interested in Soviet poets and novelists for
their own sake,
he had seen, by the early 1960s, that they could playa role in his bid
for
power. Slowly, vanished names began to reappear in official
publications,
without explanation of why they had gone and why they were being
allowed back.
Characters hitherto unacceptable in Soviet fiction-greedy bureaucrats,
returning
camp inmates-began to appear in published novels.
Khrushchev saw that such
publications could conduct his propaganda for him: literary writers
could
discredit his enemies by tarring them with the cri!lles of the past.
That, at
any rate, appears to have been the reasoning behind his decision to
allow the
publication of Alexander Solzhenitsyn's One Day in the Life of Ivan
Denisovich,
the most famous of all Gulag novels.
For his
literary
significance, as well as for the role he played in publicizing the
existence of
the Gulag in the West, Alexander Solzhenitsyn would cerrtainly deserve
special
mention in any history of the Soviet camp system. But his brief career
as a
famous, widely published, "official" Soviet author is also worth
telling because it marks an important moment of transition. When Ivan
Denisovich first appeared in print, in 1962, the Thaw was at its
height,
political prisoners were few, and the Gulag seemed a thing of the past.
By the
summer of 1965, when a Party journal described Ivan Denisovich as "an
undoubtedly controversial work, both ideologically and artistically,"
Khrushchev had been ousted, the backlash had begun, and the number of
political
prisoners was rising with ominous speed. By 1974, when The Gulag
Archipelago - Solzhenitsyn's
massive, three-volume history of the camp system - had appeared in
English,
Solzhenitsyn had been expelled from the country, and his books could
only be
published abroad. The institution of the Soviet prison camp had been
firmly
reestablished, and the dissident movement was in full swing.
Solzhenitsyn's
prison career
had begun in a manner typical for zeks of
his generation. After entering officers' training school in 1941, he
fought
across the western front throughout the autumn and winter of 1943,
penned some
poorly disguised criticism of Stalin in a letter to a friend in
1945 - and was
arrested soon after. Hitherto a more or less true communist believer,
the young
officer was stunned by the brutality and crudity with which he was
treated.
Later, he would be even more shocked by the harsh treatment meted out
to Red
Army soldiers who had fallen into Nazi captivity. These, he felt, were
men who
should have returned home as heroes.
His subsequent camp career
was perhaps slightly less than typical, only because - thanks to some
undergraduate math and physics - he served some of his time in a sharashka, an experience he later
recorded in his novel The First Circle.
Other than that, it is fair to say that he served in a series of
unremarkable lagpunkts, including one in Moscow, and one in a special camp complex in Karaganda. He
was also an
unremarkable prisoner. He
flirted with the authorities, served as an informer
before seeing the light, and wound up working as a bricklayer.
Bricklaying was
the career he later gave to Ivan Denisovich, the zek "Everyman"
who was the hero of his first novel. After
his release, he went to teach at a school in Ryazan, and began to write about his
experiences. That too was not unusual: the many hundreds of Gulag
memoirs that
have been published since the 1980s are ample testimony to the
eloquence and
talent of Soviet ex-prisoners, many of whom wrote in secret for years. What made
Solzhenitsyn truly unique, in the end, was the simple fact that his
work
appeared in print, in the Soviet Union,
while
Khrushchev was still in power.
*
Đoạn trên, trích Gulag a history, được
coi như ấn bản chung quyết về Gulag, được Pulitzer Prize, của Anne
Applebaum, cho thấy, Solz đã từng ve vãn quản giáo, làm ăng ten trước
khi nhìn ra con đường của mình. Cuộc đời của ông cho thấy, không thể
coi ông là một nhà trí thức Cộng Sản của châu Âu được, để mà so sánh
với Trùm Karadzic.
*
Điều làm
cho Solz thực sự trở thành số một, độc nhất, là sự kiện đơn
giản tác phẩm của ông được xuất
bản, ở Liên Xô, khi Khrushchev đang toàn quyền lực.
Applebaum
Nhận
xét về Một ngày, như trên, không đúng, bởi vì Applebaum không phải là
một nhà văn. Bà không hiểu gì về thể loại văn học có tên là truyện
ngắn, nhất là những truyện ngắn ở vào những thời điểm nóng bỏng nhất
của lịch sử. Một khi nó xuất hiện, là có biến chuyển, một thứ chim báo
bão.
Khi
viết về NHT, Gấu đã nhận ra sự liên hệ giữa Tướng về hưu và Một Ngày,
cũng như Lukacs nhận ra sự liên hệ giữa Một ngày và Typhoon của Conrad,
hay Ngư ông và Biển cả của Hemingway.
Tuy
nhiên, có lẽ phải đọc Tướng về hưu song
song với Bếp Lửa, một ở đầu,
một ở cuối cuộc chiến, một Not-Yet và một No-Longer, theo cách nhìn của
Lukacs. Ở giữa hai truyện ngắn đó, là truyện Dọc Đường. Truyện ngắn này, lại là
một Not-Yet, mở ra cuộc Exodus Vượt Biển của người Việt tị nạn: Hình
ảnh người đàn ông lỡ độ đường đứng trơ vơ giữa cuộc chiến, với bọc quần
áo tiên đoán số phận người vượt biển đi những ngày sau dead line, chẳng
nước nào nhận!
*
Nhận xét về truyện
ngắn, và
vai trò “Not Yet & No Longer” của nó
trong lịch sử văn học, của Lukacs, ghê thật, nhưng chưa ghê bằng nhận
xét của
Brodsky về thơ, khi ông đọc Akkhmatova:
At certain periods of history
it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing
it into
something graspable, something that otherwise couldn't be retained by
the mind.
In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova -
which
explain her popularity and which, more importantly enable her to speak
for the
nation as well as to tell it something it didn't know. She was,
essentially, a
poet of humanities: cherished, strained, severed. She showed these
solutions
first through the prism of the individual heart then through the prism
of
history, such as it was. This is about as much as one gets in the way
of optics
any way:
Ở
một giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh
tỏng, bởi vì chỉ
có nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành một
cái gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu
chịu thua không làm sao cất giữ được.
Điều
Brodsky nói về thơ, Gấu
lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội,
[Củ Chi],
Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn của văn chương Miền
Nam là
ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến!
Ngoài
kia súng nổ đốt lửa đêm
đen tầm đạn thay tiếng em!
Tuyệt, tuyệt!
Khi Gấu
viết được những dòng
sau đây, nhờ những ngày Mậu Thân và những trái hoả tiễn của VC, đã nghĩ
là
"tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết của Gấu rõ
ra là, "dụng công" quá, "cực" quá [tour de force], trong khi
lời nhạc mới đơn giản làm sao.
Những
ngày Mậu Thân căng
thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt
thay cho
cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố
cùng với
tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng
mình run
rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc
cảm thấy
còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách thánh
thiện,
nghĩa là, một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với
cuộc sống
thảm thương như vậy...
Cõi Khác
*
Tản mạn xung quanh Tuổi
Hai Mươi Yếu Dấu
Có lần, tôi đọc một bài viết,
tác giả của nó tỏ ra rất là thất vọng về thần tượng của mình, là ông,
NHT.
Thành thực mà nói, tôi mừng
cho cả hai, tác giả và độc giả.
Có vẻ như tôi đã chờ một bài
viết như thế.
Liệu không có bài Giã Từ Thần
Tượng đó, ông sẽ còn phải đeo gánh nặng “thần tượng” tới khi nào?
Phải chăng nhờ vậy mà có Tuổi
Hai Mươi Yêu Dấu?
Phản ứng về nó cho thấy, tác
phẩm/tác giả có thay đổi, nhưng độc giả/cách đọc chưa thay đổi.
Nói chung, có vẻ như mọi
người đều thất vọng về NHT, trừ… tôi ra!
Hình như tôi đoán trước được,
một NHT như thế.
Tôi lấy
thí dụ, nhận xét mới
đây, của Dương Tường:
DT: Tôi cũng đồng ý với quan
điểm của anh Nguyên Ngọc. Nhà văn chúng ta... dốt quá. Không chịu học,
không
chịu đọc, lại mang cái bệnh "ếch ngồi đáy giếng", mới "nho
nhoe" lên một tý cứ tưởng mình nhất thế giới. Nguyễn Huy Thiệp khi mới
bật
lên cũng tưởng mình nhất thế giới, thực ra cỡ như Thiệp ở Ðức, Mỹ,
Nhật,
Pháp... cũng có thể... vơ hàng tá!
[Trích Talawas].
Nhà văn
chúng ta... dốt quá
thì đúng quá rồi. Nhưng cái chuyện viết hay hay không hay, nhất là ở
những
người viết truyện ngắn, theo tôi, không liên quan nhiều tới.. tri thức.
Cần một
con mắt quan sát, cần một tấm lòng - cần nhất là một tấm lòng - là đủ.
G. Lukacs, trong
“Solzhenitsyn: Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich” (1969) [William
David Graf,
dịch từ tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge,
Mass 1971] viết:
Liên hệ mỹ học giữa truyện
ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết, novel] thường được phân
tích, nghiên
cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ nội tại giữa hai thể loại, trong
cuộc
phát triển văn học [their historical connection and their
interrelationship
throughout the course of literary development]. Tuy nhiên, đây là một
vấn đề
rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình văn học hiện thời [the
present-day
situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự kiện, truyện ngắn [novella]
thường
xuất hiện hoặc, như là một con chim báo bão [nguyên văn: tiền thân,
precursor]
cho sự ra đời của hùng ca, sử thi, hay
những hình thức bi kịch lớn, hoặc như là đội quân hậu vệ [rearguard],
một cách
viết ở tận cùng một giai đoạn. Nói cách khác, hoặc nó xuất hiện như là
một Sẽ
Có, [a Not-Yet, Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a No-Longer,
Nichtmerhr].
Áp dụng
nhận xét trên vào Một
Ngày... của Solz., Lukacs viết: Với một
chút dè dặt, người ta có thể nói, thể loại giả tưởng cận và đương thời
đã từ bỏ
truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong toan tính cung cấp, cái
gọi là
bằng chứng, về một cách thế đạo đức của con người.
[With this reservation, one
can say of contemporary and near-contemporary fiction that it often
withdraws
from the novel into the novella, in its attempt to provide proof of
man’s moral
stature.…..]
“Không
phát hiện quá khứ thì
sẽ không khám phá hiện tại. Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của
Solzhenitsyn
là một khai mở ý nghĩa cho tiến trình lại khám phá ra cái tôi, cái ngã,
the
self, ở trong văn chương, trong hiện tại xã hội chủ nghĩa.” [Lukacs].
Truyện
ngắn của NHT có gì
tương tự với Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenisyn. Nó báo
hiệu sự
suy tàn của một chế độ, sự tận cùng của một thời kỳ [a termination at
the end
of a period, a No-Longer], và đồng thời nó đăng quang con người, như
một cá
nhân [lại khám phá ra một cái tôi, thí dụ như của NHT, của Bùi Ngọc
Tấn, và
nhất là, của Nguyễn Chí Thiện, một cái tôi như là tôi dám tự chọn cho
tôi: nhà
thơ ngục sĩ đời đời!
Hay như
Nguyên Ngọc nhận xét
về Nỗi Buồn Chiến Tranh, cùng trong bài viết trích Talawas nêu trên,
của Bảo
Ninh, có thể áp dụng cho NHT:
"Theo
tôi, nói một cách
thật nghiêm khắc, từ Nỗi buồn chiến tranh, chúng ta mới thật sự có tiểu
thuyết
hiện đại. Trước đấy, về cơ bản là sử thi, tức chiến tranh được soi nhìn
bằng
cái nhìn của cộng đồng, từ góc độ của dân tộc mà nhìn cuộc chiến tranh
(Ðất
nước đứng lên của tôi cũng vậy thôi). Ðến Bảo Ninh thì khác hẳn, lần
đầu tiên
chiến tranh được soi nhìn qua số phận của một cá nhân. Như vậy không hề
có
nghĩa là cái nhìn sau chống lại cái nhìn trước, nhưng đã là một cái
nhìn khác
hẳn. Ðiều này làm thay đổi hẳn ngôn ngữ của tiểu thuyết, từ độc thoại
chuyển
sang đối thoại, tức một giai đoạn mới trong tư duy tiểu thuyết."
Tuy
nhiên, thật khó mà đồng ý
với nhận định, "không hề có nghĩa cái nhìn sau chống lại cái nhìn
trước". Cái nhìn sau quyết liệt loại trừ cái nhìn trước, hay nói rõ
hơn:
cái nhìn trước là... bố láo! Cái nhìn sau mới là cái nhìn đích thật về
cuộc
chiến tưởng như là... thần thánh, nhưng thật sự chỉ là nồi da sáo thịt!
Sự xuất
hiện của NHT, hay của
Bảo Ninh, là rất đặc biệt, và cần thiết, và thật khó mà nói rằng, "thực
ra
cỡ như Thiệp ở Đức, Mỹ, Nhật, Pháp... cũng có thể... vơ hàng tá".
Ở Đức, có, vào thời kỳ hậu
chiến, với những nhà văn thí dụ như một Boll, nhưng ngược lại với
Thiệp, họ
nhục cái nhục thua trận, cái nhục Nazi, chứ không như Thiệp, nhục cái
nhục
thắng trận!
Ở Nga,
có, như một
Solzhenitsyn, khi ông tố cáo, và cùng lúc tiên đoán sự cáo chung, của
Gulag.
Cái
nhìn trước là..."bố
láo"..., G. Lukacs lịch sự hơn, khi dùng từ "minh họa". Ông
viết, trò ma nớp thô bạo quá khứ chỉ là một sắc thái của trò ma nớp mọi
hình
tượng, hoàn cảnh, số mệnh, viễn tượng.. etc,
nói ngắn gọn, đây là những tác phẩm của "văn
chương minh
họa" ["illustrating literature" - "Đất nước đứng lên"
của tôi thì cũng như vậy, lập lại lời Nguyên Ngọc].
Áp dụng
vào NHT và Bảo Ninh,
chúng ta có thể nói rằng, không có NHT, sẽ không có những tác phẩm sau
đó, thí
dụ Cơ Hội Của Chúa, của Nguyễn Việt Hà. Nhân vật chính trong Chuyện Kể
Năm Hai
Ngàn, sở dĩ dám nhận mình là nhà văn, là bởi vì có người tên là NHT dám
viết
những truyện ngắn, thí dụ như Tướng Về Hưu. Đây mới chính là hồi chuông
báo tử
cho một nền văn chương minh họa, mà Nguyễn Minh Châu đã
từng mơ tưởng, ông sẽ là người đọc lời ai
điếu.
[Chúng
ta tự hỏi tại sao
Nguyên Ngọc không thể nói "không" với cái nhìn trước đó, của lớp người như ông, những người đã từng đặt niềm
tin vào "cái nhìn cộng đồng" - đây là từ mới, để chỉ "tứ"
cũ, cái nhìn của Đảng? Câu trả lời, dễ nhất, là ông không thể nói khác,
và nhờ
người khác, thí dụ như tôi, nói giùm. Câu trả lời thứ nhì, là của
Lukacs,
trong bài viết "Chủ nghĩa Bôn sê
vích như là vấn đề đạo hạnh" [bản tiếng Anh in trong The Lukacs Reader,
do
Arpad Kadarkay biên tập, nhà xb Blackwell, Oxford UK & Cambridge
USA,
1995], qua đó, ông cho rằng: Quyền lực mê hồn [fascinating power] của
chủ nghĩa
Bôn sê vích, là nó giải phóng chúng ta ra khỏi tình trạng nhập nhằng
giữa thiện
và ác, xấu và tốt... Bởi vì, với những người Bôn sê vích, là giả dụ
mang tính
siêu hình này: cái tốt có thể phát sinh, được hoàn thành, từ cái xấu,
bằng
những phương tiện ma quỉ, và tự do có thể phát sinh từ bạo tàn, bạo
quyền, bạo
chúa..., và không hề có sự sửa sai đối với họ. Nếu có, là vì nhu cầu
nhất thời,
phải... bịa đặt ra. Chính vì thế mà
Nguyên Ngọc khẳng định, "không hề có nghĩa, cái nhìn sau chống lại cái
nhìn trước". Nhờ cái nhìn "cộng đồng" trước, mà có cái nhìn
"cá nhân" sau.]
Tuổi Bụi
Now your hour has struck - Pray!
-BLOK, The Field of
Kulikovo
[Giờ của mi đã điểm. Hãy cầu nguyện!]
SHE SPOKE IN A
DEEP, MEASURED VOICE: "YOU KNOW
THAT IN A month you will be the
most famous person on earth?"
"I know. But this will not
be for long."
Russia's greatest living poet, Anna Akhmatova, was
conversing with Russia
greatest living prose writer. Kopelev had introduced them; indeed, he
seemed to know everybody. In her seventies now, she was stout,
silver-haired, majestic. She had read
Ivan Denisovich in samizdat, and found it overwhelming. She
thought of her son, who had spent so many years in Siberia.
"Can you endure fame?" she
pressed him.
"I have very strong nerves.
I endured the Stalin camps."
"Pasternak could not endure
fame. It's very difficult to endure fame, especially late fame."
He told her he knew her
great and highly complex work “Poem without a Hero” by heart. "I found
it incomprehensible at first, but then all became dear." She read to
him her sequence of the 1930s, Requiem, which had been published only
in the West, "without her knowledge or permission." While admiring
these tragic lyrics, he criticized them to her for dealing only with
herself and her son, not the Russian people as a whole.
[Đoạn mở ra chương 29, cuốn
tiểu sử Solz: Thế kỷ ở trong ta,
của D.M Thomas, kể lần nhà thơ Akhmatova gặp Solz]
*
-Liệu bạn chịu đựng nổi danh
vọng?
Não tôi cứng lắm. Tôi chịu
nổi trại tù Stalin.
-Pasternak không chịu nổi
danh vọng. Thật khó mà ăn ngủ ngày này tháng nọ với danh vọng, nhất là
thứ đến muộn
Tribute
Tuy
nhiên, có lẽ phải đọc Tướng về hưu song
song với Bếp Lửa, một ở đầu,
một ở cuối cuộc chiến, một Not-Yet và một No-Longer, theo cách nhìn của
Lukacs. Ở giữa hai truyện ngắn đó, là truyện Dọc Đường. Truyện ngắn này, lại là
một Not-Yet, mở ra cuộc Exodus Vượt Biển của người Việt tị nạn: Hình
ảnh người đàn ông lỡ độ đường đứng bơ vơ giữa cuộc chiến, với bọc quần
áo, không nhà nào dám chứa như tiên đoán số phận người vượt biển đi
những ngày sau dead-line, chẳng nước nào muốn nhận!
*
Nhận xét về truyện
ngắn, và vai trò “Not Yet & No Longer” của nó
trong lịch sử văn học, của Lukacs, hách thật, hách hơn Nghị Hách, nhưng
chưa hách bằng nhận xét của Brodsky về thơ, khi ông đọc Akkhmatova:
At certain periods of history it is only poetry that is capable of
dealing with reality by condensing it into something graspable,
something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that
sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova - which
explain her popularity and which, more importantly enable her to speak
for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was,
essentially, a poet of humanities: cherished, strained, severed. She
showed these solutions first through the prism of the individual heart
then through the prism of history, such as it was. This is about as
much as one gets in the way of optics any way:
Ở
một giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh
tỏng, bởi vì chỉ có nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó
lại, thành một cái gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì
đó mà cái đầu chịu thua không làm sao cất giữ được.
Điều
Brodsky nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những
ngày tù Phạm Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một
điều, cái hồn của văn chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài
hình ảnh của nhạc sến!
Ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn
thay tiếng em!
Tuyệt, tuyệt!
Khi Gấu
viết được những dòng sau đây, nhờ những ngày Mậu Thân và những trái hoả
tiễn của VC, đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên,
vì cách viết của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá, "cực" quá - thuật ngữ
phê bình kêu là "tour de force", đánh vật với chữ nghĩa - trong khi lời
nhạc mới đơn giản làm sao.
Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học
đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng
hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với
tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng
mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố,
trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô
bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách bình thường, giản dị như
thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Cõi Khác
Hai cuốn Quần đảo Ngục Tù và
Gulag một
lịch sử, tốt nhất, nên đọc cả hai, cuốn nọ trước cuốn kia, cuốn nọ
bổ túc
cho cuốn kia, cuốn sau có quá nhiều dữ kiện trước đó không có, nhưng
trên hết,
vẫn phải đọc Một ngày, và tốt hơn nữa,
đọc thêm vài truyện ngắn khác của Solz. Nếu người ta còn tranh cãi về
truyện dài
của ông, và cùng với nó là tham vọng khổng lồ, như cái tiểu tít
[sous-titre] cho thấy: The Gulag
Archipelago: An Experiment in Literay Investigation, một Thử
nghiệm trong Điều tra Văn học, thì tất cả đều
đồng
ý, những truyện ngắn của ông mới thật bảnh.
Quần
đảo Ngục tù, khổng lồ, [bộ ba cuốn, khổ lớn, mỗi cuốn dầy chừng
700 trang],
không phải ai cũng có thì giờ đọc, do đó, có ấn bản rút ngọn, với lời
nói đầu của
Solz, thêm bài viết của tay biên tập bản rút gọn. Tin Văn cho in lại ở
đây, bỏi
vì có thể coi đó là những lời bổ túc cho cái nhìn phần nào đã xưa cũ về
Solz,
thí dụ, quan niệm coi ông như là một thứ tiên tri, a Jeremiah figure,
như trong
thư ông gửi cho tay biên tập bản rút gọn, "chủ đích, ý nghĩa chính của
Quần đảo [là] một sự nâng cao đức hạnh và tinh thần thanh tẩy."
Trong nguyên tác, có nhiều đoạn,
nhiều chương tưởng như lập lại nhau, nhưng không phải, đó chính là
Gulag tự lập
lại chính nó, nhưng nếu kiên trì theo dõi, thì cái âm thanh cuối cùng
của nó,
the final note, là, hope: hy vọng. Solz tự coi mình, không phải nhà
tiên tri, mà
là một tay lạc quan không thể nào bị bẻ gẫy, an ‘unshakable optimist”.
*
Foreword to the Abridgment
If it were possible for any
nation to fathom another people's bitter experience through a book, how
much
easier its future fate would become and how many calamities and
mistakes it
could avoid. But it is very difficult. There always is this fallacious
belief:
"It would not be the same here; here such things are impossible."
Alas, all the evil of the
twentieth century is possible everywhere on earth.
Yet I have not given up all
hope that human beings and nations may be able, in spite of all, to
learn from
the experience of other people without having to live through it
personally.
Therefore, I gratefully accepted Professor Ericson's suggestion to
create a
one-volume abridgment of my three-volume work, The Gulag Archipelago,
in order
to facilitate its reading for those who do not have much time in this
hectic
century of ours. I thank Professor Ericson for his generous initiative
as well
as for the tactfulness, the literary taste, and the understanding of
Western
readers which he displayed during the work on the abridgment.
ALEKSANDR I.
SOLZHENITSYN
Cavendish, Vermont December, 1983
Tù
Gulag, đầu thập niên 1930
Tuột dốc té nhào trên hẻm núi
Chết điếng toàn thân
trong
giây lâu
*
In 1949 some friends and I
came upon a noteworthy news item in Nature, a magazine of the Academy
of Sciences.
It reported in tiny type that in the course of excavations on the Kolyma
River
a subterranean ice lens had been discovered which was actually a frozen
stream-and in it were found frozen specimens of prehistoric fauna some
tens of
thousands of years old. Whether fish or salamander, these were
preeserved in so
fresh a state, the scientific correspondent reported, that those
present
immediately broke open the ice encasing the specimens and devoured them
with
relish on the spot.
The magazine no doubt
astonished its small audience with the news of how successfully the
flesh of
fish could be kept fresh in a frozen I' state. But few, indeed, among
its
readers were able to decipher the genuine and heroic meaning of this
incautious
report.
As for us, however-we
understood instantly. We could picture the entire scene right down to
the
smallest details: how those present broke up the ice in frenzied haste;
how,
flouting the higher claims of ichthyology and elbowing each other to be
first,
they tore off chunks of the prehistoric flesh and hauled them over to
the
bonfire to thaw them out and bolt them down.
We understood because we
ourselves were the same kind of people as those present at that event. We, too,
were from that powerful tribe of zeks,
unique on the face of the earth, the only people who could devour
prehistoric
salamander with relish.
And the Kolyma
was the greatest and most famous island, the pole of ferocity of that
amazing
country of Gulag which, though scattered in an Archipelago
geographically, was,
in the psychological sense, fused into a continent-an almost invisible,
almost
imperceptible country inhabited by the zek
people.
And this Archipelago
crisscrossed and patterned that other country within which it was
located, like
a gigantic patchwork, cutting into its cities, hovering over its
streets. Yet
there were many who did not even guess at its presence and many, many
others
who had heard something vague. And only those who had been there knew
the whole
truth.
But, as though stricken dumb
on the islands of the Archipelago, they kept their silence.
By an unexpected turn of our
history, a bit of the truth, an insignificant part of the whole, was
allowed
out in the open. But those
same hands which once screwed tight our handcuffs
now hold out their palms in reconciliation: "No, don't! Don't dig up
the
past! Dwell on the past and you'll lose an eye."
But the proverb
goes on to
say: "Forget the past and you'll lose both eyes."
Decades go by, and the scars
and sores of the past are healing over for good. In the course of this
period
some of the islands of the Archipelago have shuddered and dissolved and
the
polar sea of oblivion rolls over them. And someday in the future, this
Archipelago, its air, and the bones of its inhabitants, frozen in a
lens of
ice, will be discovered by our descendants like some improbable
salamander.
I 'Y0uld not be so bold as to
try to write the history of the Archipelago. I have never had the
chance to
read the documents. And, in fact, will anyone ever have the chance to
read
them? Those who do not wish to recall have already had enough time-and
will
have more -to destroy all the documents, down to the very last one.
I have absorbed into myself
my own eleven years there not as something shameful nor as a nightmare
to be
cursed: I have come almost to love that monstrous world, and now, by a
happy
turn of events, I have also been entrusted with many recent reports and
letters.
So perhaps I shall be able to give some account of the bones and flesh
of that
salamander-which, incidentally, is still alive.
*
Cái chi
tiết ăn sống nuốt tươi
sinh vật tiền sử, mà lần đầu đọc Gulag
của Solz, khiến Gấu nhớ ra con tép nhẩy
lẫy quẩy giữa hai hàm răng, và giữa những cơn đói lập đi lập lại, những
ngày tù
Phạm Văn Cội.
Và khi đọc Gulag một lịch sử,
chi tiết anh tù đi làm về nghe bạn
tù ở nhà cho biết, dưới gối có quà đấy, lại tưởng là gói xôi, hay mẩu
bánh mì,
chạy vội về, lật lên, thì là thư nhà, khóc ngất, vì đói, vì hối hận,
chi tiết này
làm Gấu nhớ lần đầu Gấu Cái thăm nuôi, tại trại tù Đỗ Hòa, khi Gấu đang
ở tổ trừng
giới... Gấu đã kể hai chi tiết này rồi, đâu đó, trên Tin Văn.
Đừng đào bới quá khứ, hãy giao lưu hòa giải. Đào bới hoài quá khứ như
thế, coi chừng đui con mắt.
Nhưng không đào, đui luôn hai con mắt!
ZINOVY
ZINIK
đọc
THE SOLZHENITSYN READER
Không
có nhiều nhà văn góp từ
mới vô từ điển của những quốc gia khác. Từ "Gulag" làm được điều này,
và nó gắn liền với Solzhenitsyn.
Trước ông, từ những năm 1920,
nhiều cuốn sách nói về số phận thê lương của tù chính trị, và những
điều ghê
rợn trong những trại tù cải tạo ở Liên Xô, đã tới được những bến bờ Tây
Phương,
tác giả của chúng là những di dân, tị nạn, đào thoát, cựu nhân viên của
hệ
thống tù đầy Liên Xô. Chúng chỉ đạt được một con số độc giả giới hạn.
Gulag của Solz, cơ bản khác
hẳn những cuốn trước - những hồi ức cá nhân, trong có những phát hiện
có tính
xã hội - không chỉ vì trong đó là hàng hàng chứng tích, từ những hàng
hàng lớp
lang con người, với những cuộc sống khác nhau, từ đó phản chiếu cả một
xã hội,
cả một dân tộc; ấn tưọng hơn nữa, là, Solz đặt để tác phẩm, với kinh
nghiệm của
bao nhiêu con người trong có của riêng ông, vào trong nội dung của lịch
sử dân
tộc, tôn giáo, ý hệ của nó, từ đó, làm bật ra cả một hệ thống kìm kẹp
từ đỉnh
đến đáy, sự đồng lõa của toàn thể dân chúng, của toàn thể một dân tộc,
cùng
tham dự vào tội ác, với tất cả những chiều hướng ngang dọc, cao thấp mà
chỉ chế
độ Nazi mới tương xứng với nó.
Chỉ đến khi Quần Đảo Gulag
lén lút được đem ra khỏi Đất Mẹ của nó, vào năm 1974, thì nhân loại mới
hết còn
ảo tưởng về một chân lý: "Thà Đỏ Còn Hơn Chết".
Thà Đỏ Còn Hơn Chết, đối với
Miền Nam Việt Nam,
trở thành: Thà VC còn hơn Chết [vì chiến tranh].
Note: Nhà thơ TTT đã có ý
định, và đã từng được tay Thành, lái sách, đề nghị, dịch Solz, [có thể,
Khu Ưng
Thư, hay Tầng Đầu Địa Ngục]. HHT cũng đã từng phóng tác Solz, hình như
cuốn
Tầng Đầu. (1)
Thực sự, khó có thể, và không
nên, phóng tác những tác phẩm của Solz.
Hiện chỉ có tác phẩm thu gọn,
do chính Solz cho phép, của bộ sách khổng lồ, Gulag. Trên Tin Văn đã có
giới
thiệu.
(1) HHT có viết về Tầng Đầu
do ông dịch, trên trang web của ông, và về những ngày dự lớp học tập
cải tạo
nhà văn tại Sài Gòn.
*
Thì cứ cho rằng, thấy kẻ sang
bắt quàng làm họ: TTT và Solz có một số điểm tương tự.
Một, là tính tiên tri: Solz
đã từng biết trước, ông sống dai hơn chế độ Xô Viết, và sẽ trở về khi
nó sụp
đổ.
Solz cũng đã từng biết trước
Mẽo sẽ cút, nhưng ông thêm vô: Miền Bắc sẽ làm gỏi Miền Nam.
TTT đã từng gật gù với thằng
em, bên ly "cà phe", trong một con hẻm Xóm Gà, gần nhà ông: Miền Bắc
sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này.
TTT không chịu nổi sự thỏa
hiệp. Với ông, trắng là trắng, đen là đen.
Solz cũng vậy.
Nhưng với Solz, không phải
vấn đề cá nhân: Ông loại ra khỏi đời ông, kẻ nào bẩn, tởm, không tin
được,
nhưng chỉ có cách đó, để giữ hồi nhớ những khủng khiếp, ghê rợn dưới
thời
Stalin, cho những thế hệ tương lai; với những người không ưa ông, thì
coi đây
nhằm che đậy sự phách lối ngông cuồng.
[TTT chẳng đã từng bị coi là
kiêu căng, phách lối? NMG chẳng đã từng viết, mang tác phẩm đến tặng
TTT, khi
ông ghé nhà một người bạn, và khi ra về, TTT đã vô tình, sơ ý, hay cố
ý, bỏ
quên?]
[He banished from his life
everyone whom he suspected of disloyalty, including the most insightful
and
trustworthy of his biographers, Michael Scammell. For Solzhenitsyn and
his
defenders it was the only way to preserve the memory of the horrors of
Stalinism for future generations; for his detractors, his civic zeal
was just a
cover for megalomaniacal vanity].
[Khi ông xuất hiện trên
chương trình Bouillon de Culture, 18 Tháng Chín, 1993 của TV Tây].
Giỗ đầu TTT
*
The
book was also written as
a treatise on the subject of survival. The tone had been set in
Solzhenitsyn's
first published masterpiece, One Day in the Life of Ivan Denisovich
(not
included in The Solzhenitsyn Reader). Unlike another genius writing in
this
genre, Varlam Shalamov (a kind of
Russian Primo Levi), who had exposed the prison camp as an unmitigated
hell
where man is stripped of any vestige of humanity, Solzhenitsyn's
narrative is a
moral fable of the condemned soul
seeking, in the grueling experience of
prison life, the light of spiritual rejuvenation. It gave hope. This
was
another reason why his writing was such a huge success in the West. The
Gulag
Archipelago became an international bestseller, together with earlier,
more
traditional political melodramas, The First Circle and Cancer Ward,
whose style
and mode of thinking were not so different - according to Shalamov -
from the
canonical works of socialist realism. Solzhenitsyn won the Nobel Prize
for
Literature in 1970, but didn't go to Stockholm
for fear of not being allowed back into Russia-region.
(....)
Perhaps it is the time for
the Russians to reread it from their own historical perspective.
The Old
Days
ZINOVY ZINIK
đọc
THE SOLZHENITSYN READER
Cuốn sách còn được viết như
là một luận đề về sự sống sót. Giọng văn
thì đã có từ tuyệt phẩm đầu tiên được xb, Một ngày (không có trong ấn bản The
Solz Reader). Không giống một thiên tài khác cùng loại, Varlam
Shalamov (một
thứ Primo Levi của Nga), ông này coi trại tù là địa ngục hết thuốc
chữa, nơi
chất người kể như tiêu, giọng kể chuyện của Solz, là của một ngụ ngôn
đạo đức của một
linh hồn bị kết tội tìm kiếm, bằng kinh nghiệm nhọc nhằn của cuộc sống
tù đầy, ánh
sáng của sự tươi trẻ trở lại. Quần
đảo Ngục tù trở thành một cuốn best-seller
trên toàn thế giới, cùng với hai cuốn trước đó, Tầng Đầu và Khu Ung
Thư, thuộc dòng bi kịch chính trị có
tính truyền thống, giọng văn và cách suy nghĩ của hai cuốn này không
khác gì dòng
văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa chính thống, theo Shalamov.
....
Có lẽ
đây là dịp để người Nga
đọc nó, The Solz Reader, từ viễn tượng lịch sử của chính họ.
*
Cái cú
khẳng định, tôi sẽ trở
về trước khi chết, và khi đó đế quốc Đỏ đã sập tiệm, Solz phán gần như
ngay sau khi
bị tống xuất, trong chương trình văn học Apostrophes của đài truyền hình
Pháp,
của Bernard Pivot, vào tháng Tư 1975, tức là đúng lúc Miền Nam đi
đoong. Vì vậy
ngoài khẳng định sẽ về, còn tiên đoán về số phận Miền Nam: Miền Bắc sẽ chiếm đóng Miền Nam,
chẳng có
giải phóng giải phiếc gì hết [Soljenitsyne prophétisant la mainmise du
Nord sur
le Sud. Bernard Pivot: Le métier de
lire, Nghề đọc]
Tay
Pivot này phỏng vấn Solz
hai lần [cho chương trình Apostrophes do ông chủ trì, sau đó, còn phỏng
vấn Solz cho chương trình Bouillon de
culture, khi Apostrophes sập tiệm]. Lần đầu, vừa
kể, nhân dịp cuốn Le Chêne et le
Veau, bản tiếng
Tây, tất
nhiên, ra lò ở Tây. Lần thứ nhì, tại Vermont,
nơi cư ngụ của Solz. Lần đầu, chỉ bốn tháng sau khi chương trình văn
học Apostrophes
xuất hiện. Pivot, khi nhớ lại, vẫn còn cảm động, ui chao tôi nhớ là
tui hơi
run run khi đứng trước người khổng lồ, sống sót ba trận đại dịch của
thế
kỷ 20:
chiến tranh, ung thư, và trại tù. Tôi thấy mình thật nhỏ bé trước người
khổng lồ
và cuốn sách mới ra lò… Người ta chê trách tôi, tại sao không mời thêm
một tay
trí thức CS để đấu tay đôi với ông ta. Lúc đó, thì thứ này vẫn còn ở
Tây.
Tôi không nghĩ, Solz chấp nhận, nhưng còn vấn đề này căng hơn nhiều:
Làm sao để
một người khổng lồ kế bên một con bọ?
Vậy mà
có thằng ngu gọi Solz là nhà trí thức CS, và để kế bên một nhà trí thức
CS khác, là một tên trùm đồ tể!
|