Tưởng nhớ Thanh Tâm Tuyền
[13.3.1936 - 22.3.2006]
*
Tôi gọi tên
tôi cho đỡ nhớ
Thanh Tâm Tuyền,
Thanh Tâm Tuyền,
Thanh Tâm Tuyền.
[Ghi
chép 4]
Thảo Trường
Vào những năm 1958-1961 tôi sống ở Huế. Từ thành phố
tới chỗ tôi ở phải
“qua một chiếc cầu lên một cái dốc”, căn nhà khoảng giữa Chùa Từ Đàm và
Đàn Nam
Giao, nơi đó, đêm đêm tôi viết những truyện ngắn, gửi cho ông Mai Thảo
đăng
trên tạp chí Sáng Tạo. Cũng vì có liên hệ như thế nên mỗi khi vào
Sàigòn, tôi
thường lui tới tòa soạn Sáng Tạo số 29 đường Ký Con, Quận 1, ở đó tôi có dịp gặp các vị trong bộ biên tập
do ông Mai Thảo giới thiệu như: Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Doãn
Quốc Sĩ,
Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sĩ Tế, Quách Thoại, Tô Thùy Yên và… Thanh Tâm
Tuyền.
Trong bản tuyên ngôn “Văn
nghệ là vận động biện chứng của hủy diệt và sáng tạo” của nhóm Sáng Tạo
đưa ra
chủ trương “Phủ nhận văn nghệ tiền chiến”, thì tôi nghĩ là không thể
phủ nhận
được, vì “văn nghệ tiền chiến” có vai trò và sứ mệnh đã hoàn thành của
thời kỳ
đó. Giá trị của “văn nghệ tiền chiến” đã ghi lại trong văn học sử Việt Nam.
Chính thể
cộng sản ở miền Bắc cũng đã từng có chủ trương xóa bỏ những giá trị
“văn nghệ
tiền chiến” nhưng họ đã không làm nổi, thì há gì nhóm Sáng Tạo là những
người
đã từ bỏ cái chính thể lầm lẫn đó di cư vào Miền Nam lại chủ trương
“phủ nhận”?
Nhưng đối với tôi, các vị ấy
đều đã để lại trong tôi những dấu ấn đặc biệt, bằng họa phẩm, thơ,
truyện ngắn,
tùy bút, hay biên khảo…
Thí dụ như: “Quán Cháo Lú”
của Vũ Khắc Khoan, “Hạt Ba Dăng Của Niêm” của Mai Trung Tĩnh, “Niềm Đau
Nhức
Của Khoảng Trống” của Dương Nghiễm Mậu, “Cánh Đồng, Con Ngựa, Chuyến
Tầu” của
Tô Thùy Yên, “Dòng Sông Định Mệnh” của Doãn Quốc Sĩ, “Trắng Chiều” của
Nguyễn
Sĩ Tế, kịch bản “Bão Thời Đại” của Trần Lê Nguyễn… v…v… nhiều lắm.
Những thơ văn của các vị ấy
đã kích thích tôi trong công việc sáng tác. Đọc những tác phẩm của họ
tôi bèn
muốn viết một cái gì đó của tôi.
Riêng với Thanh Tâm Tuyền,
bài thơ Budapest
mà tôi đọc được, đã trụ lại trong tôi suốt từ bấy đến nay. Biến cố bi
thảm ở Budapest
năm 1956 mà
truyền thông khắp thế giới đã nói đến rất nhiều bằng những từ ngữ rất
mạnh mẽ,
thì nhà thơ của chúng ta đã chỉ dùng hình ảnh của đôi trẻ để mô tả cuộc
đàn áp
dã man tàn nhẫn đó. Mấy câu thơ giản dị đã gây xúc động và còn lại mãi
trong
lòng người thưởng ngoạn. Xin đừng hỏi tôi bài thơ ấy hay ở chỗ nào.
Chịu. Xin
chịu. Tôi không có may mắn được đào tạo về những lý sự thế nào là hay
thế nào
là không hay và điều đó cũng đã thành thói quen trong tôi. Cho nên tôi
chỉ cần
thấy được cái nào hay là đủ. Rồi về sau, nhiều lúc, nhiều nơi (kể cả ở
nhà tù)
tôi đã gặp nhiều người cũng rất thích bài thơ đó. Có ai đó đọc lên một
câu liền
có người khác phụ họa theo, chứng tỏ bài thơ rất phổ biến.
“Hãy cho tôi khóc bằng mắt
em,
Những cuộc tình duyên Budapest
Hãy cho tôi chết
bằng da em,
Dưới dây xích chiến xa tội nghiệp…”
Tôi
chợt nhớ tới bài khóc Xít
ta lin. Người nghệ sĩ tự do chân chính khóc cho tình yêu bị thảm tử vì
bạo lực
đàn áp. Kẻ mưu đồ chính trị vật vã khóc tên đồ tể. Một bên “Hãy cho tôi
khóc
bằng mắt em, những cuộc tình duyên Budapest…”.
Một đằng “Hỡi ôi! ông mất có trời đất không, thương cha thương mẹ
thương chồng,
thương mình thương một thương ông thương mười! Ông Xít ta lin ơi!...”
Sau này tôi có dịp gặp Thanh
Tâm Tuyền thường xuyên ở nhật báo Tiền Tuyến. Hồi đó tôi đã chuyển về Saigon, có viết truyện dài “Bà Phi” và thỉnh
thoảng “đi”
một bài tạp ghi cho Ký giả Lô Răng. Thanh Tâm Tuyền cũng từ một đơn vị
bộ binh
chuyển về làm trong ban biên tập. Có một lúc Phan Lạc Phúc phải đi học
tham mưu
gì đó, Thanh Tâm Tuyền phải lãnh thêm cái mục tạp ghi và mỗi ngày ông
phải
“cầy” thêm một bài báo nữa, và tôi cũng lai rai mỗi tuần “đi” đỡ cho
ông một
quả. Ký giả Ba Tê [TTT] thay cho Ký giả Lô Răng. Dưới bài tôi viết, ông
Ba Tê
nói đùa, sao không ghi là “Hai Tê” [TT]. Nhưng tôi vẫn giữ cái bút hiệu
Cơ Hảo
đã dùng quen bên tuần báo Diều Hâu mục “Một Tuần Sấp Ngửa”.
Chữ “sấp ngửa” cũng do Thanh Tâm Tuyền gợi
ý cho
tôi đặt tên mục phiếm luận này.
Chúng tôi gặp lại nhau trong
trại tù rừng núi Âu Lâu, Yên Bái. Tôi từ trong Nam chuyển ra bằng tầu
thủy,
bằng xe lửa và xe vận tải mất gần mười ngày, đến trại ban đêm, sáng ra
có họa
sĩ Nguyễn Thuyên đến dẫn tôi sang lán kế bên gặp Thanh Tâm Tuyền. Chúng
tôi
cười xòa tập hút thuốc lào và tán gẫu chuyện đời. Thanh Tâm Tuyền cho tôi một ít thuốc ký ninh chống sốt rét và
căn dặn tôi phải hết sức phòng bệnh: muỗi rừng và nước độc! Trong khi
ấy họa sĩ
Nguyễn Thuyên lấy giấy và bút chì vẽ luôn cho tôi mấy bức chân dung
ngay khi
tôi ngồi trên sạp nứa chỗ ngủ của Thanh Tâm Tuyền.
Những bức vẽ này tôi đã cất
giấu và sau đó tôi đã chuyền cho chị ruột tôi lên thăm đem về chuyển
cho gia
đình tôi ở Mỹ (đã in trong tập truyện Tiếng Cim Hót Trong Bụi Tre Gai).
Mấy năm sau ở Vĩnh Phú, nhưng
mỗi người mỗi trại giam khác nhau, chỉ thỉnh thoảng có tin tức nhau qua
những
bạn tù. Tôi nhận được mấy câu thơ của Thanh Tâm Tuyền vịnh củ sắn sống.
Thời
gian này tù binh bị bỏ đói, sức tàn lực kiệt, nhiều anh em đã bị chết,
chôn kín
cả sườn đồi gần trại, cho nên có khi kiếm được củ sắn sống tù binh cũng
dấu đi
ăn cho dạ dày bớt thèm thuồng.
Lạ lắm, củ sắn bóc lớp vỏ
ngoài để lộ ra một thân hình tròn lẳn, trắng tinh, trắng muốt, trắng
như không
có gì trắng thế, mịn như không có gì mịn thế, xinh đẹp như không có gì
xinh đẹp
thế, gợi cảm như không có gì gợi cảm thế, hấp dẫn như không có gì từng
hấp dẫn
đến thế… Nhưng sắn sống có nhiều độc tố, bập vào là say. Trắng trẻo,
xinh đẹp,
nõn nà… dễ làm cho anh hùng gục ngã! Loại sắn vỏ màu hồng nhạt (gọi là
sắn tầu)
thì còn có thể nhưng phải ngâm nước rồi luộc kỹ thải chất độc ra mới có
thể ăn
được, nhưng loại sắn kỹ nghệ vỏ trắng (chắc là sắn…mỹ) thì tuyệt đối
không ăn
được.
Say sắn cũng lắm chuyện kinh
hoàng. Ăn vào chỉ ít phút sau là ói mửa ra “mật xanh mật vàng”, tiêu
chảy,
người sẽ gầy rộc đi, mắt sâu hoắm. Cũng không đến nỗi chết ngay, nhưng
từ đó
mất sức dễ bị các chứng bệnh hiểm nghèo. Tôi đã thấy một ông trung tá
liên đoàn
trưởng biệt động quân, cùng khóa 6 sĩ quan trừ bị với tôi đã bỏ mình vì
say sắn
ở K1 Vĩnh Phú.
Núi rừng Việt Bắc còn có nấm
độc, trái vải guốc, cũng gây ngộ độc chết người. Ăn nhầm mấy thứ này
người ta
thường vặt một nắm lá nhớt như lá khoai lang bỏ miệng nhai nuốt tí nước
cho
buồn nôn tống ra hết những thứ trong dạ dày để giảm thiểu chất độc
trong người.
Củ sắn ghê gớm. Nó bao vây
trùng trùng điệp điệp các trại tù. Nó chất chứa trong các kho nhà bếp
dưới dạng
sắn sống, sắn khô (còn gọi là sắn nút chai), sắn “dui” (không rõ ý
nghĩa cái
tên này). Nó bám trụ trong bao tử, trong cơ thể tù binh. Không ăn nó
thì đói,
nuốt nó vào thực quản nóng ran và dưới hai màng tang mỗi tù binh nổi
lên hai
cục trông như hai cái bứu nhỏ, hai cái bứu này chỉ mất đi sau cả tháng
không ăn
sắn nữa. Hàng triệu tù binh miền nam, kẻ nào lỡ sống sót sau tù đày, ít
ra cũng
phải hội nhập chung vào với cả một thế hệ còi cọc miền bắc, để công
cuộc thống
nhất đất nước mang trọn vẹn ý nghĩa của nó! Trước cái đói ngơ ngác chết
người
đang đe dọa và hình tượng củ sắn chiến lược xã hội chủ nghĩa “vĩ mô”
như thế, nhưng
thi sĩ của chúng ta vẫn bình thản mô tả nó một cách lạnh lùng, có pha
chút lãng
mạn bỡn cợt:
“Thoát xiêm y, trắng nõn nà,
Lửa lòng bốc cháy ai mà chẳng
say”…
*
Năm 1993 tôi tới Mỹ, Thanh
Tâm Tuyền từ Minnesota gửi tặng tôi tập thơ “Thơ Ở Đâu Xa”, chúng tôi
có vài
lần nói chuyện với nhau qua điện thoại, và mỗi khi in được một tập
truyện tôi
cũng đều gửi tặng Thanh Tâm Tuyền, nhưng suốt mười mấy năm nay chúng
tôi chưa
được gặp lại nhau lần nào. Nay nghe tin nhà thơ đã ra đi, cũng chẳng
phải bất
ngờ vì đó là điều tất nhiên cho tất cả mọi người, vả lại chúng tôi cũng
đã thất
thập, Thanh Tâm Tuyền còn lớn hơn tôi 1 tuổi, nhưng tin nhà thơ mà mình
quí
trọng đã vĩnh viễn từ giã cõi đời cũng làm cho tôi ngậm ngùi khôn tả.
Thanh Tâm Tuyền là người điềm
đạm, trầm ngâm, ít nói, khi nói thì nói chậm rãi. Tôi và ông chưa hề
bao giờ
“mày tao”, chỉ đôi lần vui chuyện ông dùng chữ “cậu cậu tớ tớ” là đã
thân thiết
lắm rồi. Khi nói chuyện cũng như khi
viết, Thanh Tâm Tuyền dùng chữ rất chuẩn xác. Tôi chưa thấy bao giờ ông
hô hoán
hay dùng những chữ kích động, nhưng cách nói bình thản của ông lại đem
đến
những hình ảnh gợi cảm.
Thơ văn của Thanh Tâm Tuyền
đã xuất bản phổ biến, nhưng hình như câu thơ vịnh củ sắn thì tôi chưa
thấy in
trong tác phẩm nào của ông.
Tôi nghĩ chế độ cộng sản chỉ
giam giữ và bỏ đói được ông đại úy Dzư văn Tâm, họ không, và không bao
giờ, bỏ
tù được thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Thi sĩ đã nhìn củ sắn độc trồng lền
khên khắp
núi đồi xung quanh trại giam bằng cái nhìn của ca dao, bằng cái nhìn
của thi
ca, bằng cái nhìn riêng của thi sĩ, mà không anh cai tù cộng sản nào
nhìn thấy
được. Cộng sản ở Liên Xô, cộng sản ở Budapest,
cộng sản ở Âu lâu - Vĩnh phú, hay cộng sản ở bộ chính trị…
chẳng thể làm gì được thi sĩ .
Họ cũng không được phép xách
dép cho nhà thơ tự do.
Vậy. Hôm nay. Chúng ta họp
mặt ở đây để tỏ lòng quí trọng thi sĩ
của chúng ta
Thảo
Trường
[Bài
tưởng niệm này sẽ đọc
trong ngày nhớ nhà thơ tại Tiểu Sài Gòn, sắp tới, trong tháng này].
Note: Không nhớ tháng này, là
năm nào! Chắc 1 năm sau khi TTT mất. NQT
*
Bài của Thảo Trường về TTT có
chi tiết
sai: "Quán cháo lú" là truyện của Lê Văn Siêu in trên ST số 1, chứ
không phải của Vũ Khắc Khoan.
NL .
Tks.
TT/NQT
*
Ngoài ông Đặng Tiến, có chị Thụy Khuê đã viết về "Cấu trúc thơ Thanh
Tâm
Tuyền", nhưng những ý tưởng cuả GNV thì khác hai người trên, ông nói về
chất "nam tính", những "dự cảm" tai ương hay "báo
bão" cho một sự sụp đổ... rất hay và rất đúng (theo cách nhìn của …
[tôi].
Cũng như có độc giả đã cho rằng họ cảm ra được cái dự cảm, báo bão cho
một toàn
cầu hoá trong "Amers" của St. John Perse. Đó không chỉ là tài
hoa văn chương, mà còn là cái tầm nhìn, cái mũi của loài... "cô độc"
(chẳng biết dùng từ gì, nên tôi phang đại vậy), như Xuân Diệu "nghếch
mũi
lên trên trăm triệu năm / thở lại những mùa xuân cũ" chơi, những khi
ông
ta quá oải (tôi đoán mò vậy)…
[...]
Sau
này, khi có ai học thơ TTT, muốn trích dẫn ông, họ không có
nguồn để dẫn. Sách là nguồn dẫn, không ai lại nói "theo ông GNV ở trang
web Tin Văn (nay đã không còn), Thanh Tâm Tuyền là một cánh chim báo
bão",
ví dụ.
*
Tks. NQT