15.5.2006
Ninh
Hạ Nguyễn Ðức Tâm
Thanh
Tâm Tuyền - Những điều nhớ
Không thể!
Chỉ ít phút
sau khi anh Thanh Tâm Tuyền mất, Bùi Ngọc Tuấn từ Minnesota buồn gọi báo hung tin. Không
thể
được! Tôi gọi ngay chị Tuyền. Thảo, con gái, nhận ra giọng tôi. Chú
Tâm. Bố cháu
vừa mới mất lúc 11 giờ 30. Mẹ cháu ra ngoài chạy lo công chuyện không
có nhà.
Lặng đi giây lát. Quá ngạc nhiên. Mới vào độ cuối thu, anh còn gọi nói
chuyện
rôm rả, cười vui với tôi rất lâu. Tôi còn hẹn lên đón anh về Chicago. Hai thành phố không xa mà anh
chỉ
ngang qua, chưa có dịp ở chơi. Hứa không gặp ai. Chỉ đi xem cảnh, xem
tranh và
chuyện trò. Tôi hỏi cháu về bệnh trạng. Thảo cho biết. Bố chết vì ung
thư phổi
nặng. Cơ thể yếu không chịu được giải phẫu hay hóa trị. Bác sĩ phát
hiện bệnh
vào ngày 22 tháng 1. Chỉ vỏn vẹn ba tháng, anh từ giã “Bếp lửa” nhân
quần ngày
thứ tư 22 tháng 3, 2006 tại Saint Paul, nơi anh và toàn gia đình con
cháu chọn
làm nơi lưu trú trên mười sáu năm qua. Vì phổi không còn hoạt động bình
thường,
anh nằm bệnh ở nhà thở với bình ốc xy. Vẫn tỉnh táo. Nhớ chuyện. Nhớ
người.
Ngày thứ Sáu trở bệnh nặng. Cấp cứu. Ngày thứ Ba không còn ăn được.
Trưa thứ Tư
tắt thở. Chị và các cháu Trinh Thảo, Trung Từ, gái cưng và trai út, cận
kề bên
giường bệnh, sững sờ đau xót nhìn chồng, nhìn cha ra đi đột ngột.
Thuốc lá và cà
phê đen là hai thứ không thể thiếu mà lại quá tải trong hàng chục
năm với cơ thể của anh. Năm 1994, tôi lên ở chơi với anh vài ngày. Thói
quen
này không thay đổi. Năm 2000, lên dự đám cưới cháu Trinh Thảo. Anh đổi
ra hút
ống tẩu. Bên cạnh bàn trà có máy lọc không khí. Nhà mới mua, lại có
thêm các
cháu nhỏ, con của cháu Minh Trí vừa mới ở Việt Nam qua đoàn tụ. Sau cái chết cũng
rất bất ngờ, cùng chứng bệnh, của người bạn chí thân họa sĩ Ngọc Dũng,
thương
lo cho chồng, chị thúc hối anh đi khám bác sĩ. Lần nào cũng gàn, bướng
lần
khân. Cứ mỗi lần như vậy vợ chồng lại cự nự nhau. Khi phát hiện, bác sĩ
cho
biết bệnh khởi đầu cách đây ba năm. Quá trễ! Có điều lạ, anh chẳng thấy
dấu
hiệu gì về bệnh trạng nên ỷ y. Sau chuyến về Việt Nam thăm mẹ trở về, trông khỏe
hẳn,
lên 5 ký. Thân mẫu của anh, tuy ngoài chín mươi, vẫn còn khỏe. Lúc còn
ở bên
nhà, tôi thường thấy cụ, dù đã trên bảy mươi, vẫn còn nhanh nhẹn, đi
chợ bằng
xe đạp. Năm trước anh cho biết, cụ đứng đợi bên lề đường, bị xe đụng
gẫy chân.
Có lẽ về thăm được mẹ già đã làm anh vui và khỏe. Chuyến về thăm, anh
chỉ ở nhà
với thân mẫu. Không tiếp xúc với ai. Chẳng đi đâu, ngoài đi ăn phở. Hỏi
anh Sài
Gòn. Anh cười. Tớ chẳng đi đâu cả.
Nhận được tin
anh mất lúc tôi vừa xa Chicago
một tuần lễ. Ðang ở Cali,
trạm dừng chân đầu cho một chuyến đi dài hơn tháng. Ðại Hàn và các
thành phố
Nhật sẽ là những chặng đường kế tiếp. Vì thế dù rất muốn, không thể nào
bay về
dự đám tang anh được. Lẽ ra nơi đến đầu tiên là Minnesota. Tôi dự định lên chơi với anh
mấy
ngày, trước khi tạm xa thành phố gió. Một người bạn thân, anh Mai Tất
Ðắc, người
làm thơ và hâm mộ thơ Thanh Tâm Tuyền, lỡ dịp đôi lần gặp gỡ, muốn tháp
tùng.
Tôi đồng ý. Gọi bao nhiêu lần không ai bắt máy. Ðể lời nhắn, không thấy
hồi âm
như mọi khi. Nghĩ rằng anh chị đi xa thăm con. Cứ tưởng là cháu Quang
Tuệ, đứa
con trai thứ ba còn ở Texas.
Cháu Thảo nói. Vì bố không muốn ai biết, nên không liên lạc với ai. Bố
cũng không
bằng lòng để mẹ hỏi những bạn bè trong trường hợp tương tự nhờ giúp ý
kiến. Bố
kiệt sức. Mẹ không chịu đựng được, buộc lòng trái ý chồng tìm kiếm dò
hỏi. Ðó
là lý do tôi đã mất liên lạc với anh. Lỡ dịp gặp thăm anh lần cuối.
Ðược tin anh
mất, tôi gọi báo ngay cho anh Viên Linh. Tạp chí Khởi Hành,
là diễn đàn nhiều công lao trong việc cổ xúy và trân trọng nền văn học,
nghệ
thuật tự do của miền Nam Việt Nam, trong đó có Sáng Tạo. Báo cho anh Lê
Tất Ðiều, vì hôm qua, tôi mới ở chơi với anh chị trọn ngày. Chúng tôi
cũng nhắc
đến Thanh Tâm Tuyền. Cuối thu vừa rồi, chúng tôi đã nói chuyện rất lâu.
Không
ngờ đây là lần cuối nghe được giọng vừa cười vừa nói rất đặc biệt của
anh.
Trong câu chuyện, anh có nhắc đến nhạc sĩ Phạm Duy vừa ra một hồi ký
của đời
mình nhưng không hề nói đến tên một người anh uyên bác và tài hoa có
ảnh hưởng,
ông Phạm Duy Nhượng. Theo lời kể của Thanh Tâm Tuyền, là người được ông
giới
thiệu lên dạy học cùng ở Thủ Dầu Một. Trong dịp này, nói về thời gian
làm báo Tiền
Tuyến, anh cười vui
nhắc đến nhà văn Lê Tất Ðiều. “Tên ấy nhỏ con nhưng võ
nghệ giỏi. Qua Mỹ lại làm sĩ quan cảnh sát. Phục thật!” Chẳng ngờ cách
hôm sau,
ngày chúng tôi nhắc đến, anh không còn. Người thứ ba tôi báo tin ngay
là Ðinh
Cường, người Thanh Tâm Tuyền thường liên lạc sau những ngày tù về cho
đến nay.
Năm rồi qua Washington
D.C. dự họp, Ðinh Cường đem xe đến
khách sạn
đón, đưa về nhà. Chị Tuyết Nhung cho ăn món Huế tuyệt vời. Ðinh Cường
mở chai rượu
chát ngon đối ẩm. Khoe bức sơn dầu vẽ chân dung Thanh Tâm Tuyền. Ðinh
Cường muốn
lên dự lễ tang. Cận ngày, vé quá đắt không kham nổi. Hẹn khi tôi trở về
Chicago sẽ thu xếp cùng lên Minnesota thắp trước mộ anh một nén
hương
tiễn biệt.
Các anh nói
tôi viết bài về Thanh Tâm Tuyền. Tôi không làm được. Ở xa nhà thiếu
phương tiện. Việc riêng lại đang ngổn ngang. Cái chết của anh là một
xúc động
mạnh. Thêm nữa. Tuy sống ẩn dật trong bao nhiêu năm, sự nghiệp và tài
năng cũng
như tư cách của anh đã là sao Bắc đẩu trên nền trời văn học miền Nam và cả Việt Nam đương đại. Chắc chắn sẽ có rất
nhiều bài viết, bài đọc về anh.
Tôi thức giấc
nửa đêm, chú tâm cầu nguyện anh siêu thoát. Cầu cho anh, một
người anh thương mến, một người bạn lớn tuổi, đã hiểu nhau, cùng chia
sẻ những
đắng cay buồn vui của tù đày, của nhân tình thế thái. Ðã cùng nhau hàn
huyên
tâm đắc trăm ngàn thứ chuyện trong mấy chục năm qua. Qua anh, tôi đã
thấy sự
thủy chung của tình bạn. Ðối với các anh chị thuộc gia đình Sáng Tạo và những
người thân quen, mối dây thân ái, tương kính, quan tâm đến nhau vẫn giữ
cho đến
cuối đời. Phục anh về khí khái của một kẻ sĩ khi quốc phá. Không ồn ào
chống
đối, nhưng chưa bao giờ thỏa hiệp. Không đua chen cho những hào quang
và tăm
tiếng. Chưa thấy anh ghét ai. Không ưa không phục thì không gần gũi.
Thế thôi.
Cách sống của anh, dù chẳng bao giờ muốn, cũng đáng cho nhiều người suy
nghĩ.
Anh là dòng nước, xuyên qua ghềnh thác, vẫn trong vắt sáng ngần trôi
chảy vào
đại dương mệnh số.
Tôi gần anh,
chơi thân với anh. Một con người bình dị, chí tình trước hơn một
thi sĩ, văn sĩ. Tôi viết về anh, những điều gần gũi thân quen, hơn là
về những
bài thơ người khen kẻ chê, người yêu kẻ ghét. Những điều vặt vãnh này
chiếu một
tia sáng nhỏ vào một góc đời cho những ai muốn hiểu thêm về anh. Thơ
văn anh
canh tân đột phá cái sáo mòn xưa cũ. Chắc chắn không dễ gì chinh phục
lúc đầu.
Thời gian mấy chục năm, im hơi lặng tiếng. Không tranh hơn thua. Không
giải
thích biện bạch. Ðủ để cho những đánh giá trung thực. Không phải đợi
khi anh
qua đời, mà những năm khi anh còn sống, giá trị công lao, tài năng của
anh đã
là một khẳng định, một tự hào của văn học Miền Nam Việt Nam tự do.
Những bài viết, phân tích, nhận định phê bình của nhiếu người trước và
sau cái
chết của anh như Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc, Thụy Khê... và mới
đây Ðặng
Tiến cùng nhiều người khác, chắc chắn giúp cho người đọc có cái nhìn,
cái hiểu
biết khá sâu sắc về sự nghiệp văn thơ của Thanh Tâm Tuyền.
Nhờ cơ duyên,
gia đình tôi được gần gũi các anh chị giới cầm bút, ngoài và
trong Sáng Tạo. Các anh chị trưởng thượng như
Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Sĩ
Tế, Thái Tuấn... thì coi tôi như người em. Riêng Thanh Tâm Tuyền trẻ
tuổi hơn
quý vị kia, sau này gần gũi trong lao tù và sau lao tù, cho đến những
ngày trên
đất Mỹ, hiểu được nhau, tôi được anh xem như người bạn trẻ tuổi hơn,
rất thân
thiết. Tôi thường gọi tên anh là Thanh Tâm Tuyền hay gọn là anh Tuyền.
Gọi chị,
chị Tuyền. Thói quen này, có lẽ tại tôi với anh cùng tên chăng? Trong
bài viết
này dù gọi là anh, là ông hay trơ trọi Thanh Tâm Tuyền, cũng với lòng
trân quý.
Ngày vào...
Miền Nam
sụp đổ. Tôi với Thanh Tâm Tuyền đi tù cùng ngày, cùng chỗ. Nhà tôi, nhà
anh gần
nhau. Ði bộ năm mười phút. Tôi ở hàng Keo, gần trường Mỹ thuật. Anh ở
xóm Gia,
ở gần Bệnh viện Ung thư Gia Định.
Năm đầu cùng
chung trại Long Giao. Anh lán 9. Tôi lán 6. Lán là nhà mái tôn
dài, trại lính cũ. Gặp tôi, anh mừng rỡ. Năm đầu ở đây, chưa phải lao
động nhiều
nên có thì giờ nhàn rỗi. Tôi thường đến chơi với anh và nói mọi thứ
chuyện. Bài
thơ “Hồi hương ngẫu cảm” của Hạ Tri Chương, sau này tôi trích đăng
trong truyện
ngắn “Nghịch lý” (Tập truyện Cơn giông ngày về, Văn Mới xuất bản 1999)
là của Thanh Tâm Tuyền đọc thuộc và dịch. Tôi nghe. Học thuộc. Bài thơ
Trung
Hoa cổ, tiên đoán những ngày tù xa xăm biệt xứ của chúng tôi. “Thiếu tiểu ly
gia, lão đại hồi. Hương âm hối cải mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kính bất
tương thức. Tiếu vấn khách tùng hà xứ lai”. Sau này, anh Hoàng Hải Thủy i
meo cho biết, tôi đã trích sai bài thơ. Phải sửa lại cho đúng là Hương âm vô
cải, mấn mao thôi. Tôi
nhận mình lâu ngày, nhớ không đúng. Ông thi sĩ kiêm
thầy dạy Việt văn không thể nhầm được. Mới đây đọc tuyển tập tạp ghi
của Phan
Lạc Phúc (Văn Nghệ 2002) có thấy ghi chú. “Nhiều dị bản đọc là Mấn mao suy
hay Mấn mao tồi”. Vậy là tôi không nhớ sai.
Bài thơ Phan Lạc Phúc trích
đăng lại gây thêm một nghi vấn khác. Thay vì nhi đồng lại là mục đồng.
Chuyện đó hạ hồi phân giải. Chỉ kể một kỷ niệm nhỏ với Thanh Tâm Tuyền
trong
năm đầu cải tạo.
Biệt xứ
Năm 1976, tù
cải tạo chuyển ra vùng thâm sơn Việt Bắc. Anh bị đày ải Yên Báy,
Lào Cay. Tôi bị đẩy lên vùng Sơn La nước độc. Năm 1979, Trung Quốc vượt
biên
giới đánh người anh em một thời môi hở, răng lạnh. Các trại tù dọc biên
giới
Hoa-Việt chuyển về Vĩnh Phú. Trong thung lũng hẹp, trại được phân phối
thành
năm phân trại.
Tôi ở K5 với
Mai Trung Tĩnh. Một sáng mùa xuân nắng đẹp. Tôi theo xe trâu lên K2 nhận đường mía. K2 là trại
trồng nhiều mía. Trên đường
làng sỏi đá. Vượt qua suối cạn. Sau khoảng hai giờ thì đến nơi. Một
toán anh em
đói mệt rã rời, áo đẫm mồ hôi, trên đường về, sắp vào trại. Trong đoàn
người
đó, tôi chợt nhận ra anh. Với dáng người và dáng đi đó, không thể ai
khác. Quá
mừng không kìm hãm. Nhảy vội xuống xe trâu. Chạy nhanh về phía anh. Gọi
lớn.
Anh Thanh Tâm Tuyền. Mọi người quay đầu nhìn tôi. Anh mừng nhận ngay
ra. Chú
Tâm. Anh cười. Chú đang ở đâu? Em ở K5. Chỉ bấy nhiêu lời. Anh qua khỏi
cổng
giam còn cười mừng ngoái nhìn trở lại.
Hai năm sau,
Thanh Tâm Tuyền chuyển về K5 cùng trại với tôi. Có khi lại được ở
chung buồng giam. Khác đội. Ngày lao động đói lả. Tối ngồi chầu kiểm
điểm. Tố
mình và tố người. Cũng ít có khi rỗi rảnh chuyện trò. Ăn cơm chung với
nhau
trưa chúa nhật. Sau này anh cười nói. Tớ khai là Dư Văn Tâm, đại úy bộ
binh.
Chú lại la toáng lên Thanh Tâm Tuyền. Từ đó tớ bị lộ tẩy!
Một chiều mùa
đông lạnh. Tôi đang ở đội nhà bếp. Anh nhắn ra gặp. Tớ mới được
quà, đem chú ít dầu bơ, bồi dưỡng lấy sức. Anh đưa tôi lon gô đựng đầy.
Cần cho
anh hơn. Giúi vào tay tôi, anh nói. Tôi còn nhiều. Chưa kịp cám ơn, anh
quay
đi. Ai đã qua tù đày của cộng sản, đã qua cái đói dai dẳng hành hạ
năm-năm-tháng-tháng-ngày-ngày,
mới cảm được cái to lớn của miếng ăn. Chờ cơm bụng lép đo giường. Cái
đói đã đưa con người trở về với bản năng sinh tồn của muông thú. Vì
miếng ăn có
người lừng lẫy, nhân cách một thời đã trở thành ti tiện. Rất đáng
thương và
thông cảm. Ðừng chê trách. Trong hoàn cảnh đó, Thanh Tâm Tuyền, với một
gô dầu
bơ vàng sệt hấp dẫn, thơm rực, chia cho tôi trong một chiều âm u lạnh
đói.
Nghẹn ngào. Nhớ mãi.
Tết 1981. “...Nguyên đán bước ngây ngây vất
vưởng. Ngoài tường, ngọn ngô
đồng trơ trọc. Lắng buốt tiếng gặm mòn thịt xương. Lây xót xa núi rừng
điêu
đứng ("Nhớ xuân").
Hẹn với anh cùng ăn trưa đầu năm. Bữa cơm ngày
Tết hiếm có quanh năm, có thịt trâu và canh, xào “...Nhồi như nhồi vịt, nước
mắt rơi. Giao thừa tối câm gió ỉ ôi. Ta vẳng nghe chú bỡn cợt. Tết ngày
ăn,
Xuân mùa vui chơi...”. Tôi
quá bận ở nhà bếp, xong việc thì đã quá trưa.
Xuống buồng giam của anh, một số anh em đã trùm chăn ngủ cho quên ngày
tháng
hay khóc thầm nhớ vợ con. Anh vừa ăn xong. Chúc anh sức khỏe. Anh
thường nói.
Vợ dại con thơ. Bằng cách nào, cố sống mà về. Dù ngày về mù tịt. Tôi
nhìn trước
sau, len lén đưa cho anh một chai nhỏ. Gì thế? Thuốc ho. Xuống giọng
rầm rì.
Chú liều thế. Tết tù mà như thế này là nhất! Ở tù khó nhất là đem rượu
vào
trại. Bị bắt thì cùm ngay. Có quan hệ bên ngoài thì tiêu thụ tại chỗ.
Tôi có
đứa em thân tín cùng đơn vị, Trần Quốc Ân, làm ở đội mía lo việc cất
rượu. Quí
ông anh, biết ông anh xưa vốn nòi Lệnh Hồ Xung, ngày Tết lén cắp rượu
đem vô.
Tôi chia cho Thanh Tâm Tuyền một nửa. Anh không uống được nhiều rượu.
Một hai
chung như thế cũng đủ cho thi sĩ của chúng ta có hứng khởi làm những
câu thơ về
xuân về Tết trong tù tuyệt vời. “...Trời có mấy độ xuân? Ðất bao
nhiêu miền
lạ? Chưa ngấy tiệc trần gian. Hồn run xanh búp lá.” Tôi bị hớp hồn về ý và
từ thơ xao xuyến “Hồn run xanh búp lá”. Một câu thơ xuân khác kỳ lạ
không kém.
Ðơn giản mà âm vang đến sững sờ. “...Vang vang trời vào xuân. Ta
bật kêu mừng
rỡ...” Ở tù khổ sai
mà làm thơ sảng khoái như thế, đúng là thứ thiệt.
Ghiền nặng
thuốc lá. Vào trại anh là đệ tử của thần thuốc lào. “Bạn tù ơi
lửa châm rồi. Rít cho ròng rã mê tơi cõi lòng. Tựa lưng nhả khói thong
dong.
Tít say lú lấp cả mong với chờ...” Anh làm cỏ sắn ở gần nhà bếp
đội chăn
nuôi. Giờ nghỉ mệt, theo bạn lén vào bếp hút vố thuốc lào. Nhà bếp, nơi
nấu cám
heo là nơi cấm. Sợ tù đói kinh niên vào đây ăn vụng cám lợn. Nghe kể
lại, Thanh
Tâm Tuyền đang phê thuốc, không kịp đi ra đã bị tay đội trưởng HÐÐ bợp
tai. Tin
này truyền nhanh vào trại. Tôi lấy cớ đi lấy củi đốt cho nhà bếp. Ðánh
xe trâu
ra tận nơi. Không gặp HÐÐ ở đó. May cho hắn mà cũng hên tôi.
Suốt những năm
tháng tù đày, anh là một người tù bình thản đến lạ lùng. Không
chống đối, than trách. Không tham gia hợp tác văn nghệ, văn gừng. Mùa
xuân trước
khi được tha, tay Bích tù hình sự làm trật tự, uy quyền trấn áp, buộc
anh đưa
thơ đăng bích báo Tết. Chẳng thể chối từ anh đưa bài “Ngày xuân trên
cánh đồng
mua”. Bài thơ có những câu tuyệt. Bích không đăng, cho là anh chửi xéo.
Với những
câu: “Trên cánh đồng
nhàm mắt ngày tháng” hay ”Ngày tẻ lạnh đìu hiu
nhớ nắng”.
Ngày ra...
Một tình cờ kỳ
thú. Thanh Tâm Tuyền và tôi vào tù cùng ngày cùng chỗ. Gần chín
năm sau, ra tù cùng chỗ cùng ngày. Trong chuyến quy cố hương, có thêm
nhà thơ
Mai Trung Tĩnh.
Khi được tin
thi sĩ Mai Trung Tĩnh qua đời lạnh lẽo tai Virginia năm 2002, tôi
xúc động viết trên Văn
Học 193 bài tưởng nhớ
“Giữa Hà Nội tìm mai”.
Trong đó có nhắc nhiều kỷ niệm cùng Thanh Tâm Tuyền dạo phố Hà Nội. Nay
xin
trích có sửa đổi để cho ai chưa đọc bài trên biết thêm một kỷ niệm khó
quên của
tôi và anh.
“... Vào một
ngày nắng lạnh trước Tết, cả trại bàn tán xôn xao tin sắp có đợt
tha. Tôi dửng dưng. Loại binh chủng ngành nghề an ninh, biệt kích, tình
báo như
chúng tôi, cứ chuyển trại vào sâu vùng hiểm hóc thì vội vã chuẩn bị,
chắc chắn
thế nào cũng có tên. Lệnh tha trong lúc hạn tù chưa vượt quá mười năm
thì đừng
có mà mong. Nhưng ở đời, có những chuyện không tin mà có thật. Tôi có
đứa cháu,
con người bạn cùng đơn vị, thuộc loại tù nhí, rất trẻ. Mới hai mươi mấy
tuổi,
đẹp trai, nhanh nhẹn dễ thương mà lại hoa tay viết chữ rất đẹp. Tù vì
theo
Phong trào Phục quốc sau 1975. Vào trại được tay cán bộ giáo dục, một
trong mấy
chức phận quyền uy, tin cậy chọn làm thư ký kiêm tà lọt. Sai làm đủ mọi
thứ
việc. Ngược lại cũng nhận được nhiều đặc ân. Không ở buồng giam, không
dầm mưa
dãi nắng lao động khổ sai. Áo quần sạch mới không tả tơi rách vá chằng
đụp. Tù
mà được như vậy đã là tiên. Chiều hôm đó, cậu ta xuống bếp lãnh phần ăn
tối, ra
dấu gọi tôi ra góc nhà. Lấm lét nhìn trước sau, cười vui. “Chú có tên
tha đợt
này”. “Khó tin!”. “Thật. Chú đừng nói với ai. Chết cả chú lẫn cháu”. Tự
nhiên
tôi có linh cảm là sự thật. “Sao cháu biết? Có chắc không? Ðừng làm chú
mừng
hụt nghe!”. “Cháu đang chép danh sách. Có tên chú và tên cháu.” Thấy
tôi ngẩn
người. Như đã chuẩn bị, nó đọc rõ tên vợ tôi, địa chỉ nơi về. Nói xong
nó mừng
khóc. Tôi cười nghẹn. “Cám ơn cháu.” “Nhớ nghe chú. Ðừng nói cho ai.
Tuần sau
mới công bố”. Tin thì có tin nhưng tôi vẫn rất hồi hộp.
Mấy ngày sau
thì một số lớn những người được tha, trong đó có tôi, được cán bộ
quản giáo đội gọi lên cho biết bán chính thức và lại dặn dò đừng cho ai
biết.
Nhưng mọi người đã biết. Trại xôn xao hy vọng. Mai Trung Tĩnh đến gặp
tôi lén
gửi thư dặn đem về cho vợ. Hàng chục anh em khác cũng tin cậy gửi gắm.
Họ biết
chắc, bằng cách nào tôi cũng tìm cách giấu giếm những lá thư để đưa lọt
về gia
đình. Thời gian sau đó khi về Sài Gòn, hơn tháng trời tôi và đứa con
gái 13
tuổi trên chiếc xe đạp cà rịch, ngày ngày tìm đến những địa chỉ khắp
cùng ngõ
ngách trao thư tận tay những người vợ, người mẹ, người cha, người tình.
Sài
Gòn, Thủ Đức, Biên Hòa. Nơi xa xôi thì gửi theo bưu điện. Qua việc làm
này, tôi
đã chứng kiến bao nhiêu chuyện buồn vui tủi nhục của những bạn bè cùng
cảnh
đang còn kẹt trong tù, mà ngày về thì biết đến bao giờ. Tôi đã có ý
định ghi
lại những hoạt cảnh xã hội này, nhưng cuối cùng không thực hiện vì trân
trọng
những đau thương đổ vỡ riêng tư.
Một ngày trước
khi tha, tôi và Thanh Tâm Tuyền cùng một người bạn trẻ rất khí
khái, vốn là học trò, có bữa ăn đạm bạc chia tay. Thanh Tâm Tuyền lại
giao thêm
cho tôi một trách vụ hiểm nghèo khác là đem ra những bài thơ của anh
sáng tác
trong thời gian ở tù, viết trên những dung giấy nhỏ. Nhiều bài thơ này
đến với
những người hâm mộ trong thi tập Thơ ở đâu xa đã được Cơ sở Văn xuất bản
tại Mỹ năm 1999. Ðem lén cả hàng chục lá thư gửi về gia đình lại thêm
thơ lậu
của Thanh Tâm Tuyền, qua mặt cán bộ ra khỏi trại là một “điệp vụ” căng
thẳng.
Có kẻ lén báo, cán bộ nhân lực, tức là an ninh trại, chặn xét tại cổng
nhưng
tôi đã chuyển giao cho anh bạn trẻ Phan Cảnh Phùng trước đó không lâu.
Thoát
hiểm trong đường tơ kẽ tóc.
Lúc ngồi với
nhau, Thanh Tâm Tuyền cười nói. “Biết đâu ngày mai không phải là
chú mà là tôi”. Không phải Nguyễn Ðức Tâm mà là Dư Văn Tâm, tên thật
của nhà
thơ tự do. Lời nói ỡm ờ này không ngờ lại đúng một phần. Nếu đúng thật
thì quá
tội cho tôi. Lúc đọc lệnh tha, cả hai Tâm đều trúng số và thêm Nguyễn
Thiệu
Hùng, Mai Trung Tĩnh.
Một buổi sáng
cuối năm lạnh nhẹ và sương mù, bên bờ nhánh sông Thương hiền hòa,
chúng tôi, có cả Mai Trung Tĩnh và Thanh Tâm Tuyền, ngồi tụm hút thuốc.
Uống
chia nhau gô trà mộc nóng đậm. Ôi tuyệt vời những giây phút đầu tiên,
tạm gọi
là tự do, sau bao nhiêu năm tù đày. Chúng tôi ngồi chờ ca nô xuôi sông
Thương,
vượt sông Hồng chở về trại chuyển tiếp Ấm Thượng, xóm nhỏ bên bờ sông
Hồng. Ðể
sáng hôm sau đáp tàu hỏa xuôi về Hà Nội. Ngày mai ra sao? Dẹp qua một
bên. “Sung
sướng quá giờ cuối cùng đã hết” ("Xuân tâm").
Mấy toa tàu cũ
kỹ lắc lư chở hơn bốn mươi người được tha từ ga Ấm Thượng về đến
ga Hàng Cỏ, Hà Nội. Tất cả được lùa nhốt trong nhà đợi. Ði tiêu tiểu
phải xin
phép. Chuyến tàu thống nhất tám giờ tối nay sẽ trả chúng tôi về miền
Nam yêu
dấu nay đã đổi chủ thay ngôi. “Hương âm vô cải mấn mao thôi”.
Ngày về tóc đã
bạc phai mái đầu. Tôi
được giao nhiệm vụ sắp hàng anh em, điểm số.
“Thưa cán bộ
thiếu mất một anh”. “Bỏ mẹ! Anh kiểm lại xem. Lúc lên tàu tôi đếm
đủ. Không nhẽ rớt xuống đường. Ðếm lại!”. “Thưa cán bộ đúng là thiếu
một”. “Có
biết thiếu ai không?” “Thưa biết”. Ai?” “Nguyễn Thiệu Hùng”. Tôi vọt
miệng nói
tiếp “Tôi nghe nói anh ấy có bà cô ở đối diện ga. Chắc anh ấy tranh thủ
ghé
thăm. Cán bộ đừng lo. Ðúng giờ tàu vào Nam chắc chắn anh ấy sẽ có mặt
thôi”.
Tôi biết rõ vì trước khi lên tàu Mai Trung Tĩnh có nói với tôi. “Vô kỷ
nuật.
Ông nại cho vào tù ở thêm cho biết thế nào là nễ độ”. Tay cán bộ răn
đe. “Anh
đi ngay ra khỏi ga, túm đầu anh ấy về ngay cho tôi”. “Tôi không rành
đường sá,
nhỡ lạc không về kịp chuyến tàu thì bỏ bu”. “Ði. Tôi bảo đi là cứ đi.
Ðừng nôi
thôi”. “Hay là cán bộ cho anh Dư Văn Tâm cùng đi. Anh ấy là dân Hà Nội
chính
cống”. “Ðược. Nhớ tìm được thì về ngay nhé. Khẩn trương!”. “Vâng!”. Tôi
chạy
đến chỗ ông Thanh Tâm Tuyền. “Mình đi thăm Hà Nội ba sáu phố phường”.
“Ði thế
nào được. Chúng nó giam lỏng”. “Cứ theo tôi. Thế mới tài!”. Ông không
tin. Tôi
cười kể cho ông nghe. Ông vội vã khoác chiếc áo măng tô màu đen. Ðội
nón công
nhân kiểu Lenin. Nón này là bảo vật tôi để lại cho ông kỷ niệm chia
tay. Không
ngờ hai anh em cùng được tha. “Anh đem tôi đi tham quan Hà Nội”. “Ông
Hùng thì
sao?”. “Dẹp qua một bên. Lo bò trắng răng. Ðến giờ tàu chạy thì ông ấy
mò về”.
Thanh Tâm
Tuyền hóa xác. Thường ngày thong thả chậm chạp, giờ đi như chạy.
Ðường phố dường như quá quen thân cho dẫu bao tang thương biến đổi. Ông
bươn bả
đi trước, tôi chạy theo. Không nói với nhau nhưng tôi biết ông đang xúc
động
khi trở về nơi chốn cũ. Tấp vào một quán phở bên kia đường để thưởng
thức tô
phở Bắc chính hiệu. Gọi mỗi đứa một cốc cà phê. Thế là nhất. Mấy năm
đói khát
thèm ăn, tô phở làm chúng tôi thất vọng đã đành mà ông chủ quán, thuộc
loại bộ
đội giải ngũ, trong bộ đồ lính cũ, lại càng làm cho tôi phát ngấy. “Phở
ở đây
mới là phở. Trong Nam các anh nàm sao sánh được”. Tô phở phất phơ hai
lát thịt
nhỏ, mỏng dính. Nước dùng bột ngọt đậm chát. “Phét. Chúng mày lấy đâu
ra thịt.
Bố khỉ!” Tôi chửi thầm. “Ông đói dài mấy năm còn chả thấy ngon huống
hồ...!”.
“Các bác được Đảng khoan hồng nhớ về lao động...” Tôi nói đểu: “Thôi
nhờ ông
anh tốp lại! Mấy năm nghe chán rồi. Biết rồi khổ lắm nói mãi! Vào đây
đớp phở
mì chính (bột ngọt) chứ không phải nghe ông lên lớp. Tính tiền!”. Ông
Thanh Tâm
Tuyên thấy tôi sửng cồ vội vàng đứng dậy ra khỏi quán. Bác Nguyễn Tuân
ơi!
Chúng bán phở Bắc như thế này là chúng nó làm nhục bác rồi!
Chúng tôi,
những thằng tù khổ sai biệt xứ mới được thả, đi giữa đường phố Hà
Nội trong túi cũng xu hào rủng rỉnh. Ðã gần mười năm toàn thắng, thế mà
những
bộ đồ lính, tấm vải dù làm võng của chúng tôi đem theo từ ngày Sài Gòn
thất thủ
vẫn còn là món đồ đắt giá hợp thời trang. Dân Hà Nội chen lấn qua song
cửa nhà
ga tranh nhau mua. So với tô phở giá năm đồng, chiếc áo lạnh áo jacket nhà
binh tôi bán bảy trăm. Miếng vải dù tưởng vất đi cũng có người mua đến
chín
chục.
Ông Thanh Tâm
Tuyền dẫn tôi đi như chạy trên Phố Thuốc Bắc rực mùi cao đơn hoàn
tán, lần đến ngôi nhà cũ nát tường vôi loang lổ. Căn phố hẹp tối tăm,
nhiều gia
đình cùng ở, ngăn chia nhau bởi những tấm màng vải nhàu bẩn. Người cô
già mù
lòa vẫn nhận ra tiếng nói của đứa cháu sau bao năm trời chia cách. Ôm
chầm. Cô
khóc, cháu sụt sùi. Và tôi, người chứng kiến những giây phút cảm động
nhất của
một cuộc kỳ ngộ, bước ra hàng hiên lau vội nước mắt.
“Anh đưa tôi
đi xem Hồ Hoàn Kiếm và phố Hàng Ðào”, từ giã người cô, ra khỏi
nhà, tôi đề nghị. “Thong thả”. Anh chặn bà già bưng mẹt bán bánh dày
kẹp chả
chiên. Món ăn đã biến mất trong trí nhớ của tôi. “Cho chúng cháu hai
cái”. Anh
thích thú nói với tôi. “Ăn đi. Ðặc biệt Hà Nội”.
Ði qua những
con đường loang lổ rêu phong, dễ chừng từ thời Pháp thuộc đến nay
chẳng hề tu bổ. Nước cống rãnh tràn ướt lối đi rác bẩn. Những ngày giáp
Tết,
đường phố chen chúc bụi bặm người lam lũ, xám xịt. Nam nữ áo quần bộ
đội, dép
nhựa nón cối. Ôi! Ðâu Hà Nội dáng kiều thơm của Quang Dũng? Ôi! Ðâu áo
dài tha
thướt, đâu tóc dài thả gió lê thê của nhạc sĩ Hoàng Dương, Anh Bằng, Vũ
Thành?
Và rồi phố Hàng Ðào với những thiếu nữ khuê các của Nhất Linh, của Khái
Hưng?
Trước mắt tôi chỉ là một phố nhỏ lạc hậu so với Sài Gòn thân yêu của
tôi mười
năm trước đó. Hình ảnh sau cùng đổ vỡ thảm thương trong mơ tưởng của
tôi. Hồ
Gươm! Một vũng đọng. Tháp Rùa! Rêu bẩn, trơ trẽn phất phơ một ngọn cờ.
Cám ơn Mai
Trung Tĩnh. Nhờ ông, tôi có dịp thăm Hà Nội và Thanh Tâm Tuyền trở
lại cố đô” .
Sài Gòn, ngày
về...
Dù trăm nghìn
vất vả, lo sợ và bất an, chúng tôi vẫn có những ngày tháng nhàn
rỗi. Thanh Tâm Tuyền thời gian này không giao thiệp tiếp xúc nhiều. Bạn
bè hay
lui tới với anh chỉ năm, ba. Anh thân với người anh thích. Một phần bản
tính,
một phần vì an toàn cho bản thân. Tên anh trong bìa đen "biệt kích văn
nghệ" của chính quyền. Nhất là khoảng sau ngày đầu tháng 5, 1984 ngày
nhà
anh bị bất thần khám xét, phải trình diện Phòng Chính trị Công an Thành
phố
cùng lượt với sự bắt giam trở lại các văn hào kẻ sĩ Doãn Quốc Sĩ, Hoàng
Hải
Thủy..., ca sĩ Duy Trác. Tôi mừng vì không tin rằng anh thoát khỏi trại
giam
thêm nhiều năm như các anh đó.
Nguyễn Ðình
Toàn, Ðinh Cường, Phan Lạc Phúc, Cung Trầm Tưởng là những khuôn mặt
thân quen tới lui. Anh qua tôi hay tôi qua anh. Uống trà, cà phê anh
pha lấy
hoặc ngồi ở mấy quán cóc mọc lên như nấm quanh Gia Định, Tân Định. Tôi
và anh
cũng thỉnh thoảng ghe thăm anh chị Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ.... nhất
là từ
khi anh Nguyễn Sĩ Tế bị đau mắt. Có khi cùng nhau lên quán sách của anh
Phạm
Kiều Tùng bên ngoài nhà thờ Huyện Sĩ, tìm sách cũ và cà phê tán dóc.
Những khi
rủng rỉnh thì ghé trước chợ Tân Ðịnh mua hai cái croissant nóng giòn
thơm lựng mùi bơ Bretagne, ghé quán nhâm nhi cà phê đen đặc đến trưa.
Nhưng
giây phút đó quả là hạnh phúc. Ðủ lãng quên đời.
Anh Mai Thảo
và các bạn bè thân quen đang ở nước ngoài liên lạc giúp đỡ. Tôi
biết anh đã từ chối không nhận $ 50 đô của một thi sĩ gửi cho và nhờ
anh Mai
Thảo trả lui với lời cám ơn. Ðang lúc nghèo túng, anh cũng chỉ nhận sự
giúp đỡ
của bạn bè chí thân. Ngày được giấy tờ đi Mỹ, tôi đi với anh qua bệnh
viện
Nguyễn Văn Học, nhờ em của anh Dương Nghiễm Mậu, đang làm ở phòng quang
tuyến,
rọi phổi để có gì lo chữa chạy kịp khỏi trì hoãn ngày lên đường. Phổi
anh tốt.
Ði Mỹ
Nhờ anh vợ,
phi công, qua từ 1975 bảo lãnh, tuy đi theo diện H.O. nhưng ưu tiên
đi trước vào năm 1990. Ðến Baton Rouge, New Orleans. Nơi cư trú của anh
vợ. Họa
sĩ Ngọc Dũng ân cần mời gia đình về với anh ở Washington D.C., anh từ
chối và
sau đó quyết định về cùng con. Cháu Quang Tuệ vượt biên qua trước đang
ở
Minnesota, nơi anh chị Cung Tiến, bạn thân của Thanh Tâm Tuyền, chưa có
con,
nhận Tuệ làm con nuôi. Việc làm nhân nghĩa của anh chị đã được đất trời
đền
đáp. Năm sau anh chị sinh con đầu lòng, cháu Ðăng Quang.
Cũng cần nói
thêm, đi ở tù cũng có số là cái chắc (!) Ngày Sài Gòn sụp đổ, họa
sĩ Ngọc Dũng rủ anh cùng đi Mỹ. Anh không đi được vì vợ đang có bầu.
Ðứa con út
của anh, cháu Trung Từ, ra chào đời đúng 9 giờ sáng ngày tan hàng 30
tháng 4.
Con chưa kịp đầy tháng thì bố đi tù. Tôi đang viết bài này cũng đúng
ngày 30
tháng 4, ba mươi hai năm sau.
Coi lại
Với tài năng,
Thanh Tâm Tuyền đã có một vị trí trân trọng trong văn học Việt
Nam. Ðặc biệt về trào lưu thơ được gọi là thơ tự do. Người yêu chuộng,
nghiên
cứu và phê bình về văn học đương đại của Việt Nam nhất là giai đoạn
khởi sắc
của miền Nam 54-75 không thể kể thiếu tên ông. Toàn bộ tác phẩm của tác
giả cần
được tập trung lưu giữ đã đành, mà cuộc đời của tác giả cũng trở thành
đối tượng
cần thiết để đối chiếu về mặt ảnh hưởng trên sự nghiệp sáng tác. Người
cùng
thời, kẻ quen người biết ông rồi cũng lần lượt theo ông. Cho nên, nhiều
người
đang cố nhớ ghi lại những điều được biết về ông. Ý kiến có khác biệt,
nhưng sự
kiện là điều có thể kiểm chứng. Chỉ với mục đích đó, trong khả năng
hiểu biết
của mình, sau khi đọc nhiều bài viết về Thanh Tâm Tuyền, những điểm sau
đây nên
coi lại.
1. Khi đưa tin
về cái chết của Thanh Tâm Tuyền, nhiều báo có ghi rằng: sau
khi tù cải tạo về, ông có thời gian đi làm ruộng ở Phước Tuy, Bà Rịa.
Thanh Tâm
Tuyền chưa hề ra khỏi Sài Gòn cho đến ngày đi Mỹ.
2. Ông lấy vợ
là người đẹp ở Bình Dương. Lấy ông vì yêu thơ ông.
Chị Thanh Tâm
Tuyền, tục danh là Cao Thị Mai Hoa, người gốc Cần Thơ theo gia
đình lên Sài Gòn. Chưa ở Bình Dương ngày nào. Học trường Tây Michelet.
Ông Diệm
dẹp trường Tây. Chị vào Trung Học Nguyễn Bá Tòng, học đệ tứ chương
trình Việt.
Gặp thầy dạy Việt văn Dư Văn Tâm. Bị thầy đì vì không rành văn chữ
Việt. Ý thì
có mà chính tả quá bết. Lúc đó cô nữ sinh Mai Hoa mới tròn trăng mười
sáu. Thầy
hơn trò đến mười tuổi. Với tuổi đó và trình độ Việt ngữ như thế, chắc
không
cách nào mê được thơ đếm số cửa sổ “Một cửa sổ, hai cửa sổ...” (Tôi không
còn cô độc) của thầy
Tâm. Sau đó thầy dần dần mê trò. Câu chuyện tình đẹp
này, đầu đuôi có một người biết rất rõ: nhạc sĩ Cung Tiến. Ðộng viên
nhập ngũ
Thủ Ðức, 1963. Ra trường. Gia đình đi hỏi. Phong tục, lễ nghi Bắc Nam
có khác.
Ba chìm bảy nổi. Cuối cùng đẹp đôi. Ðám cưới ngày 4 tháng 7, 1964.
Liên, đêm, mặt
trời tìm thấy, tác
phẩm xuất bản đánh dấu ngày vui này.
Có người quyết đoán Liên là tên một người yêu của nhà thơ. Theo Thanh
Tâm Tuyền
giải thích, Liên chỉ có nghĩa là liên khúc của thơ và thơ xuôi trong
tác phẩm.
Ngày cưới vợ mà lấy tên người yêu cũ đặt cho quà cưới của mình thì có
nước...
đi thăm Bùi Giáng. Theo chị Mai Hoa, anh là mẫu người chồng, người cha
lý
tưởng. Dạy con rất nghiêm. Không nịnh vợ. Ðúng sai rõ ràng. Ðiều này
chắc chúng
ta, những ông chồng, khẩu phục, tâm phục! Như bao nhiêu gia đình khác,
anh cũng
mất một đứa con trai trên đường vượt biên.
Thơ của Thanh
Tâm Tuyền thường đề tặng bạn hữu. Ðặc biệt tặng cho vợ, chỉ có
hai bài.
Thơ tình trong
tù (1980): “Vẫn em
của thuở trăng nào / Ðêm hôm nở đóa chiêm
bao xanh ngần/ Vẫn em tình của trăm năm/ Ðoan trang khóe hạnh thâm trầm
dáng
thơ/ Vẫn em mối kết thiên thu/ Vẫn em xoa dịu sầu tư cõi này”.
Sáng sớm mồng
một Tết 1984, ông bảo vợ pha trà thơm để ông đọc tặng bài thơ đầu
năm. “Xuân tứ” (1984): “Cỏ
hoa thầm thì hát/ Ngoài vườn trăng đêm nay/ Xuân
ngàn mùa vẫn một/ Hương sắc không hề phai/ Sự trôi chảy mãi thật/ Tình
đơn sơ
còn đây/ Ôi nỗi niềm bát ngát/ Thủy chung nào vơi đầy.”
Theo ông làm
thơ dễ hơn viết văn. Ông thích làm thơ hơn là viết văn.
3. Một đôi
điều thắc mắc nhân đọc một bài viết về Thanh Tâm Tuyền của Văn
Quang, nhà văn quân đội quen thuộc trước 1975, nay còn trong nước. Ðọc
được
trên website Gio-o.
Trích: “... Khoảnh khắc đáng nhớ nhất là
lần cuối cùng gặp anh cũng
là ngày anh được tha ra khỏi trại cải tạo Vĩnh Phú, vào khoảng năm
1982. Anh
ghé vào khu nhà giam tôi đang sống, anh hỏi. ‘Có trà ngon không, mang
đãi khách.
Bây giờ anh là tù, tôi là người ngoài tù’. Tôi gật gù...”
Tôi không còn
nhớ chắc Văn Quang có chung trại khi chúng tôi được tha hay
không. Nếu có chăng (?) thì việc Thanh Tâm Tuyền đến thăm Văn Quang và
nói
những lời như trên đây khó có thể xảy ra được.
Thứ nhất, như
đã nói ở trên, Thanh Tâm Tuyền trước ngày đọc lệnh tha hoàn toàn
không biết có tên mình nên mới nhờ tôi lén mang những bài thơ về. Bữa
cơm tưởng
là chia tay nhau hôm đó, gồm có Thanh Tâm Tuyền, tôi và người học trò
cũ anh
rất thương mến, Nguyễn Văn Thích. Khi qua Mỹ, anh làm một bài thơ rất
dài tặng
tôi, trích đăng trên báo Văn 26. “Ăn tết với Nguyễn Văn
Thích”: “...Nhớ
chứ, nhớ chứ Nguyễn Văn Thích/ Ðừng để riêng ta cái nhớ dai/ Cái nhớ
thầm thì
những khuya khoắt...”
Thứ hai, sau
khi đọc lệnh, ai được tha tức khắc được ở khu riêng, không được
tiếp xúc. Như chỗ tôi và gia đình biết, trước như thế nào tôi không rõ,
nhưng
sau này Thanh Tâm Tuyền không quá thân với Văn Quang, bản tính lại cẩn
trọng
không hồ đồ, không dại gì xé rào, hy sinh tấm giấy ra trại của mình để
sang
thăm Văn Quang. Ðã không quá thân tình, lại sợ làm nản lòng người ở
lại, như
Văn Quang viết, thì việc đòi hút thuốc, uống trà và ăn nói như trên,
khó có thể
xảy ra với Thanh Tâm Tuyền.
Trích tiếp: “Thanh Tâm Tuyền tên thật là
Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13-3-1936,
có bạn ghi ngày 15-3-1935, tôi lại nhận được một nguồn tin khác, anh
sinh năm
1934, do chính Thanh Tâm Tuyền tiết lộ với một số bạn bè khi ngồi ở nhà
hàng La
Pagode.”
Giấy khai sinh
cũ, rách, gia đình còn giữ được cho đến bây giờ. Cô mụ Nhự, làm
chứng khai sinh ghi rõ không gì bàn cãi. Dư Văn Tâm sinh ngày 13 tháng
3 năm
1936.
Tóm
Tuy đã cố nhớ
để viết những điều về Thanh Tâm Tuyền, nhưng chắc chắn cũng lắm
điều chưa rõ. Lắng nghe và đón nhận những bổ túc, sửa đổi cần thiết.
Thúc đẩy
của văn hữu. Khuyến khích của anh Lê Tất Ðiều. Tin cậy của gia đình
Thanh Tâm
Tuyền. Tôi đã qua được sự ngại ngùng. Và sau cùng, như nén tâm hương
gửi anh về
những ân tình và kỷ niệm, nhân Chung thất 49 ngày anh mất.
Chicago, ngày
Chung thất 9 tháng 5, 2006
© 2006 talawas