Bùi
Vĩnh Phúc
Thanh
Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy
2
Nhưng Thanh Tâm Tuyền không để cho
những tù ngục của mệt
mỏi, dửng dưng ấy giam giữ ông. Ông bám vào tình yêu, vào sự lãng mạn
của mình.
Đó là chiếc chìa khóa giúp ông mở tung những cánh cửa của chán nản, của
tuyệt
vọng, của mệt mỏi, của sự đồng phục trong đời sống, của những sắt thép
gỗ đá và
những mệnh lệnh liên tiếp được dựng lên, tung ra để cầm nắm, để giam
giữ
tâm-ý-thể con người. Khuôn mặt tình yêu có trong sáng hay buồn bã, đôi
mắt tình
yêu có rạng rỡ hay thảm sầu, chàng thi sĩ vẫn tìm ra ở đó những phúc âm
của đời
mình.
(...)
Hãy
ngửa khuôn cổ tròn như một cành
hoa trắng,
anh
đeo vào đây vòng ca ngợi
Hãy
chìm mắt xuống những lớp nhớ nhung
như
biển lớn anh đang dâng
Hãy
đặt bàn tay mười ngón lửa
sưởi
lên môi anh từng lạnh giá bởi
những lời đã thốt
Anh
sẽ hôn em, thời khắc hạnh phúc vẫn
mong manh
(...)
Bởi
con chim vẫn giam trong lồng ngực
vừa được bay nên bay
mau
hơn ánh sáng, anh nhìn được mắt em
tuyệt vời tận muôn
nghìn quá khứ.
Bởi
con chim đã bay kịp thời-gian nên
chậm lại, anh nhìn
thấu
hồn em trong suốt những mai sau.
Bởi
con chim còn xòe cánh liệng tròn,
anh thâu nhận hết em
qua vô vàn hình ảnh
(“Liên-đêm-mặt
trời tìm thấy”)
(...)
Anh
đưa tiễn em, gửi theo những giấc
mộng giấu kín hết đời.
Em
lên
đường và anh chỉ còn chân tay tẻ
nhạt vô duyên như xứ sở
tang
thương vì bom đạn.
(“Chiều
trên phi trường”)
Trong
tình yêu riêng của mình, Thanh
Tâm Tuyền đã sống và
chết trong đời sống như thế, đã hạnh phúc và đớn đau như thế, nhưng
người thi
sĩ ấy không để tình yêu che mờ hết những rung động khác trong con người
chàng.
Thanh Tâm Tuyền đòi hỏi tự do. Tự do trong mọi thể thái của nó. Người
thi sĩ ấy
đã làm thơ, và thơ của ông trước tiên là một sự phá bỏ những xiềng xích
cũ. Sự
cân đối, mực thước, cùng nhịp điệu, lối gieo vần của những thể thơ cũ
có lẽ đã
cản trở Thanh Tâm Tuyền trong cách diễn đạt những tư tưởng vỡ bờ, những
lề lối
suy nghĩ nằm ngoài khuôn phép của ông. Thanh Tâm Tuyền muốn cho hơi thở
mình
được tự do, tư tưởng mình được phóng khoát, nên ông đã đẩy thơ tự do
của ông,
thời ấy, vào những con đường hết sức mới lạ. Dĩ nhiên là Thanh Tâm
Tuyền không
thể thoát khỏi ảnh hưởng của những trào lưu Tây Phương đang ghi những
dấu ấn
trên tâm thức của thanh niên thời đó. Nhưng việc ông can đảm đưa vào
thi ca
chúng ta thời ấy những thể mới, ý mới như ông đã làm cũng đã cho chúng
ta thấy
tính cách khai phá của ông.
Trên
đường đi tìm một tự do hằng khao
khát, Thanh Tâm Tuyền,
như bất cứ ai chọn cuộc lên đường đầy thử thách để tìm một dải đất mới
cho
mình, đã có những lúc phẫn nộ. Có những phẫn nộ chính đáng, trong đó có
những
mầm hạt cho một hạnh phúc ước mơ sau này. Có những phẫn nộ vô lý, vô
cớ, không
dựa trên một lý do chính đáng nào cả. Nhưng thật sự ra thì phẫn nộ,
phản kháng
là yếu tính của con người nghệ sĩ, của kẻ sáng tạo. Tôi thấy, ở một mức
độ nào
đó, sự phản kháng của Thanh Tâm Tuyền có một số nét gần gũi với cung
cách phản
kháng của Albert Camus.
Trong
Con người phản kháng (L'homme
révolté), và trước đó,
thể hiện trong Kẻ xa lạ (L'étranger), Camus đã trình bày ý nghĩa của
cung cách
phản kháng này. Nhiều người và nhiều nhà phê bình đã không hiểu rõ ý
nghĩa phản
kháng trong các tác phẩm của Camus nên đã đưa ra những bàn cãi và phê
bình đi
ra ngoài những điều ông muốn nói, và bởi thế, đã thất bại trong việc
đánh giá
các tác phẩm của ông. Bây giờ, sau khi những bàn cãi sôi nổi đã lắng
xuống,
Albert Camus đã chết, và tác phẩm của ông đã được xếp vào loại những
tác phẩm
chứa đựng những giá trị thâm sâu và nhân bản nhất của con người [1] ,
người ta
mới nhìn kỹ hơn những ý nghĩa mà Camus đã mang đến cùng với từ “phản
kháng”
trong văn chương ông. Camus đã không dùng từ này theo nghĩa vẫn được
chấp nhận.
Sự phản kháng của ông không trực tiếp để chống lại cái khát vọng có
tính cách
lãng mạn để thăng hoa và tiêu diệt những giới hạn ràng buộc con người.
Sự phản
kháng này nhắm thẳng vào tất cả những âm mưu, những sức cản làm giảm
bớt đi cái
khả năng của con người trong việc nắm bắt những cơ hội để sống hạnh
phúc trong
vòng những giới hạn ấy. Những kẻ thù mà Camus vạch mặt và không ngừng
chiến đấu
để chống lại là tất cả những sức mạnh làm đông cứng, mô-mi-hoá con
người, cho
dù bất cứ những sức mạnh này ở dưới dạng nào - tinh thần, cá nhân, hay
định chế
- bắt nguồn từ sự vô cảm, mơ ngủ, hay từ những mạng lưới chằng chịt của
các ý
thức hệ, xanh hay đỏ, của thời đại này nhằm trói buộc và cầm bắt
tâm-ý-thể con
người. [2]
Hãy
đọc lại Hãy cho anh khóc bằng mắt
em những cuộc tình
duyên Budapest
để thấy sự phản kháng này của Thanh Tâm Tuyền. Hay là đọc bài sau đây:
Ngực
anh thủng lỗ đạn tròn
lưỡi
lê thấu phổi
tim
còn nhẩy đập
nhịp
ba nhịp ba nhịp ba
tình
yêu tự do mãi mãi
(...).
núi
cao uốn cây rừng
nhịp
ba nhịp ba nhịp ba
tình
yêu tự do mãi mãi
đất
nước ào ào vỗ nhịp
triều
biển chập chùng
Hà
Nội Huế Sài gòn
ôm
nhau nức nở
(...).
nhịp
ba
tình
yêu
tự
do
mãi
mãi
tình
yêu tự do mãi mãi
tình
yêu tự do mãi mãi
tình
yêu tự do
mãi
mãi anh ơi
(“Nhịp
ba”)
Hoặc
sự phản kháng của Thanh Tâm Tuyền
trước những bất hạnh,
những bất công, những bất túc của lương tâm con người. Trong lời phản
kháng
này, ta vẫn còn nghe ra một niềm hy vọng.
Một
người da đen một khúc hát đen
Bầu
trời đen sâu không cùng
Những
dòng nước mắt
Xé
nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng
giọng của máu của tủy của hồn bắt
đầu ngày tháng
Giữa
rừng không lời rừng mãi trống
không
(...).
Vì
Blues không xanh vì điệu Blues đen
Trên
màu da nức nở
Trong
hộp đêm
Bắt
đầu chảy máu thầm kín khóc cổ họng
mình
Ngón
tay cấu lấy ống kèn như một bùa
thiêng
(...).
thế
giới va chạm những loài kim réo
gọi
Thời
gian mềm
không
gặp thời gian
Không
gian quay thành những vòng kỷ
niệm
Rồi
một buổi nào Blues hiện về xanh
(„Đen“)
Và
sau đây là một cơn phẫn nộ vô cớ.
Nào ai có biết tôi phẫn
nộ gì. Cuộc đời này lúc nào cũng chật hẹp, tù túng, người nhìn người
hau háu
những móng vuốt giơ ra. Tôi phẫn nộ với tất cả mọi thứ đảo lộn hay đã
được sắp
xếp để đặt vào thế giới này. Hãy hét lên cho nguôi giận.
Tôi
buồn chết như buồn ngủ
dù
tôi đang đứng trên bờ sông
nước
đen sâu thao thức
tôi
hét tên tôi cho nguôi giận
thanh
tâm tuyền
đêm
ngã xuống khoảng thì thầm tội
lỗi... [3]
(„Phục
sinh“)
Ngôn
ngữ của Thanh Tâm Tuyền mạnh và
chắc; nhịp điệu sắc gọn
ở những bài mang ý phẫn nộ. Trong những bài nói chuyện yêu đương chan
chứa,
những hình ảnh dịu được đưa vào đã giúp điều chỉnh giọng thơ. Chính
Thanh Tâm
Tuyền cũng có nói xa gần đến điều này khi bảo thơ tự do “không gieo vần
lối
đồng âm đồng thanh, vần của nó là vần ẩn giấu cách xa (có thể đi tới
khác âm,
nghịch thanh), nhịp điệu của nó là sự phối hợp của một toàn thể không
khuôn trong
một số câu nhất định khiến cho hơi thơ tự do dễ kéo dài hơn các hơi thơ
khác”
[4] . Ngoài ra, cũng trong đoạn trình bày về thơ tự do, cũng như về
thái độ,
cung cách làm thơ của mình, như Võ Phiến đã dẫn trong Văn học Miền Nam,
Tổng
quan (Văn nghệ 1986), trong tập Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, Thanh Tâm
Tuyền
cũng nhắc đến một thứ nhịp điệu gọi là nhịp điệu của hình ảnh, một thứ
nhịp
điệu khác là nhịp điệu của ý tưởng, cả hai thứ này là sự thể hiện của
nhịp điệu
của ý thức.
Tôi
nghĩ là Thanh Tâm Tuyền cũng đã
khá hào hứng khi nói về
những bài thơ cũng như những khám phá của mình - mặc dù nhiều điều
trong những
suy nghĩ của ông rất đáng cho chúng ta lưu ý. Nhưng, thật sự, như tôi
đã nhận
xét ở trên, trong những bài có chủ ý rõ là nói về tình yêu nam nữ, tình
yêu đôi
lứa, Thanh Tâm Tuyền vẫn dùng những nhịp gãy, nhịp trắc trở, những dấu
nhấn
khác thường so với những thể thơ cũ. Nhưng những hình ảnh rất đẹp và lạ
và mới
trong những bài thơ này đã làm cho cả bài thơ mềm đi và bay lên như một
tiếng
chim vào cửa sổ trời mở rộng.
Đọc
kỹ, thật sự, ở một số bài, người
ta vẫn thấy Thanh Tâm
Tuyền còn sử dụng những vần hoặc nhịp điệu của thơ cũ. Những bài này
không
nhiều, nhưng vẫn có. Và vẫn rất đáng yêu. Hãy đọc lại năm câu thơ này:
Vứt
mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng
sông
Mà
lòng mình phơi trên kè đá
Con
thuyền xuôi
Chiều
không xanh không tím không hồng
Những
ống khói tàu mệt lả.
(„Bao
giờ“)
Vần vẫn còn đấy, mặc dù nhịp điệu có
được làm cho sai khác
đi. Đoạn thơ sau đây cũng thế. Vần vẫn còn đó, nhưng nhịp điệu đã được
chuyển
hoá đi làm cho khác lạ, tạo nên những syncopes như trong âm nhạc. Những
âm được
sử dụng cũng là những âm chõi, cùng với những nhịp nhấn khác lạ, làm
cho bài
thơ toát ra một cảm giác buồn bực, dồn nét, bứt rứt. Tất cả những điều
đó dọi
phóng thành một cảnh buồn, chiếu mãi trong tâm thức người đọc. Những
cảnh này
được tạo nên bằng những bức ảnh đen trắng hoặc có màu xám xịt. Tiếng
lóc cóc
của vó ngựa trên đường về huyệt mộ và tiếng kèn harmonica nổi bật lên
trong bối
cảnh này.
Khi
đêm chạy trở lui
Người
nào thổi harmonica
Tôi
đến bằng mọi cách
Tiếng
kèn khóc oà
Mưa bẩn sân ga
Toa
tầu hạng ba
Chuyến
xe hàng ốm yếu
Thổ
mộ con ngựa già
Đường
mòn đưa đến huyệt
Đứa
trẻ con thổi harmonica
Trong
hoàng hôn tóc rối
Tiếng
kèn khóa oà...
(“Sầu khúc”)
*
Tôi
đã yêu thơ, đã làm thơ, và đã đọc
thơ của nhiều người.
Càng đọc nhiều tôi lại càng yêu nhiều. Càng yêu nhiều, tôi lại cứ muốn
đọc mãi.
Thơ làm cho ta yêu cuộc sống hơn, thiết tha với sự sống hơn. Nếu thơ
không làm
được những điều đó, không gợi lên trong lòng người đọc những tình cảm
đó, thơ
không đạt đến cứu cánh của nó nữa.
Thơ
Thanh Tâm Tuyền cho tôi nhiều cảm
xúc. Mỗi lần trở lại
với thơ ông, tôi đều tìm ra một nét gì mà tôi đã chưa hề thấy trước đó.
Bởi
những ý tưởng, những hình ảnh Thanh Tâm Tuyền sử dụng thường không nằm
trong
những ước lệ của tiếng nói hay của lối suy tư hàng ngày, ta thường
không nhìn
ra được hết cái chân diện mục của chúng. Gần gũi với trường phái thơ
siêu thực
của Pháp, những hình ảnh mà Thanh Tâm Tuyền sử dụng trong thơ ông cũng,
phần
nào, có tác dụng của những đường nét trong những bức tranh siêu thực
của các
hoạ sĩ thế kỷ 20. Dù sao, nếu nhìn dưới khía cạnh hội họa, tôi nghĩ
chúng ta
đều thấy rằng những “bức tranh cất tiếng” [5] của Thanh Tâm Tuyền có
nhiều nét
gần gũi với các bức tranh của những họa sĩ siêu thực lớp sau như Max
Ernst,
René Magritte, Salvador Dali, Pierre Roy... hơn là với những họa sĩ
siêu thực
lớp trước như Jean (Hans) Arp [6] . Nói về tính chất siêu thực trong
văn chương,
cũng như trong các thể thái khác, có lẽ không ai có thẩm quyền hơn
André
Breton. Ông định nghĩa: tính cách siêu thực là cái tính cách tự động
thuần túy
xét trên mặt tâm linh, qua đó, nó được diễn tả ra hết sức rõ ràng -
bằng chữ
viết, hoặc bằng bất cứ một thể thái nào khác - cái tiến trình tư duy
thật sự
của con người. Đây là tiếng nói của bất cứ một hình thái thẩm mỹ hay
đạo đức
nào. Được sáng tạo ra từ những thúc đẩy ở ngoài phạm vi luận lý và lấy
chất
liệu từ tiềm thức và từ những thị kiến nghệ thuật, các thi sĩ hoặc họa
sĩ thuộc
trường phái siêu thực đã sáng tạo nên những tác phẩm xuất phát từ những
mơ mộng
thuần túy của họ về một thế giới mà họ mong ước đạt tới. Tác phẩm của
họ không
còn nằm trong phạm trù thực tại mà đã bước chân sang một biên địa khác,
có
những lý tưởng, những ước mơ, và ngay cả những ảo vọng nữa. Đây là
những con
chim vô hình đập cánh và bay vào cõi vô biên, để rơi lại những tiếng
hót vương
vất trong cõi trần gian.
Thơ
Thanh Tâm Tuyền, ở một số khía
cạnh, đã bay nghiêng về
những vùng không gian đó. Còn ông, trong chốn trần gian tăm tối và đầy
lệ thảm
kia, nơi tất cả những tiếng nói bình thường của con người đang bị bóp
nghẹt hay
bóp méo, nơi những trái tim không còn được tiếp tục nhẩy đập những nhịp
yêu
thương cũ, ông sẽ ra sao?
Những
câu thơ tiên tri ngày nào có trở
về trong đời sống kẻ
thi sĩ?
Những giấc ngủ xiềng xích
Cuộc
lưu đày thêm xa
Tôi
trốn về lẩn lút
Đất
đai không tìm ra
Đâu
cũng toàn quỷ sứ
Riễu
cợt tôi ngây ngô
Cớ
sao nhà ngươi khóc
Muốn
làm người là điên
Con
người thì cô độc
Không
phép thuật nhiệm mầu
Tôi
khóc mặc tôi khóc
Bầy
quỷ nhảy xung quanh
Tôi
khóc hoài tôi khóc
Và
chúng nó phát điên
Chúng
tước lấy tiếng nói
Giam
tôi trong bóng tối.
Tôi
khóc không ra lời
Và
tôi đi lang thang
Tôi
đi tìm tiếng nói
Cho
cổ họng của tôi
(...)..
Tôi
nhìn người tuyệt vọng
Tôi
nhìn người khẩn cầu
Linh
hồn tôi rách nát
Lời
nói còn ở đâu ....
(“Liên-đêm-mặt
trời tìm thấy”)
*
Thanh
Tâm Tuyền, ngay trong những ngày
xưa, thời ông còn
được tự do làm thơ hạnh-phúc-yêu-thương-phẫn-nộ, đã cho thấy ông là một
con
người đã từng nếm nhiều trái-cây-đau-khổ. Tôi nghĩ là ông đã đọc nhiều,
đi
nhiều, thấy nhiều, cảm nhiều, mơ mộng nhiều, suy nghĩ nhiều, nhớ thương
nhiều... Ông đã sống nhiều và ông đã trải đời sống mình ra thơ. Con
người ấy,
nhìn ở một góc cạnh nào đó, có những lúc ngạo mạn, vô lý, rừng rú,
nhưng cũng
có những lúc sôi nổi, thiết tha, đắm đuối, dịu dàng.
Để tóm kết bài viết này, tôi muốn ghi
lại những dòng chữ sau
đây của Rainer Maria Rilke. Người thi sĩ Đức tài hoa và tha thiết ấy đã
nói
những lời hết sức thật và sống động về thơ, về sự làm thơ:
Người ta phải chờ đợi và gom góp những
cảm xúc và sự dịu
ngọt của cả đời dài, có khi cả một đời người, tới lúc đó, ở cuối cuộc
gom góp
đó, người ta mới có thể viết được mươi câu thơ hay. Bởi lẽ, thơ, không
phải như
người ta tưởng chỉ là những cảm xúc giản dị, mà nó chính là kinh
nghiệm.
Để
có thể viết được một câu thơ, người
ta phải thấy bao
nhiêu là thành phố, bao nhiêu là người là vật, người ta phải hiểu biết
về loài
vật, người ta phải cảm được sự sung sướng của con chim bay và biết được
những
cánh hoa nhỏ bé đã mở mắt chào đón bình minh như thế nào. Người ta phải
có khả
năng nhớ lại những con đường ở những xứ sở xa xôi mà người ta đã đi
qua, những
gặp gỡ bất ngờ và những chia tay xa tắp trong trí nhớ. Người ta phải có
khả
năng nhớ lại được những ngày niên thiếu với những dấu vết khó giải
thích, nhớ
lại những bậc sinh thành mà người ta đã làm cho đau khổ khi những bậc
sinh
thành này mang đến cho người ta niềm vui mà người ta không thèm đón
bắt, nhớ
lại những cơn đau yếu hết sức kỳ lạ bắt đầu bằng một số những thay đổi
sâu xa
và trầm trọng, nhớ lại những ngày người ta ẩn kín, im lặng trong phòng,
nhớ lại
những buổi sáng bên bờ biển, những biển hồ sông rạch, nhớ lại những
buổi tối
lang thang đã bay qua đời người ta rồi bay tuốt lên trời cao với những
vì sao
(...). Người ta phải có những kỷ niệm về những đêm yêu đương, không đêm
nào giống
một đêm nào, có những hồi tưởng về những tiếng la hét của phụ nữ trong
khi sinh
đẻ, và về những người đàn bà nhẹ hẫng, tái nhợt, nằm thiêm thiếp trên
giường
với em bé ở bên. Nhưng người ta cũng cần phải có kinh nghiệm ở bên cạnh
một
người đang chết, người ta cần phải có kinh nghiệm ngồi bên cạnh một
người đã
chết rồi trong một căn phòng có cửa sổ mở tung ra những cơn ồn ào từng
chập.
Nhưng chỉ có hồi niệm không vẫn chưa đủ. Người ta phải có khả năng để
quên
chúng đi khi chúng trở nên quá nhiều, quá đầy trong óc người ta, và
người ta
phải có lòng nhẫn nại để chờ cho đến khi chúng quay trở lại. Bởi vì đấy
chưa
phải là hồi niệm đâu. Chúng chỉ là hồi niệm khi chúng biến thành máu
chảy trong
trái tim, trong thân thể người ta, khi chúng trở thành cái nhìn và
những điệu
bộ, không tên tuổi và không còn có thể tách thoát, phân biệt khỏi chính
chúng
ta. Chỉ tới lúc đó người ta mới có thể bất ngờ, trong một thời khắc
hiếm hoi
nào đó, viết ra chữ đầu tiên của một câu thơ đang bắt đầu ngoi lên từ
trong
những vùng âm u mờ mờ sương đục của hồi niệm và chảy tràn ra ngoài. [7]
Thanh
Tâm Tuyền đã dâng hiến cho đời
nhiều dòng thơ rất đẹp,
những câu thơ đau khổ và phẫn nộ, hạnh phúc và thương yêu của ông làm
cho ta
chảy nước mắt. Nhưng nếu Thanh Tâm Tuyền chỉ có được mươi câu thơ hay,
ông cũng
xứng đáng cho ta yêu mến và cảm phục, bởi lẽ ông đã sống, đã tân toan
trong đời
sống, đã chịu đựng và gìn giữ tất cả để trở nên một thi sĩ.
Hãy
choàng vào cổ thi sĩ một vòng hoa
và hãy để chàng ngồi
giữa chúng ta trong cuộc đời này.
Thi
sĩ, hãy cho ta khóc bằng mắt anh
những cuộc tình duyên
và những đời người khốn khổ!
1986
-------------------------------------------------------------------------------
[1]Trong
một tiểu luận tựa đề là
“Camus in America”, Serge
Doubrovsky đã cho rằng Camus là một nhà văn vĩ đại của nước Mỹ. Và mặc
dù Camus
đương nhiên là một nhà văn lớn của Pháp, nhìn dưới khía cạnh quần
chúng, ông vĩ
đại hơn nữa trong lòng người Mỹ. Trường hợp đặc biệt và độc nhất của
Camus được
tạo ra do một sự liên đới cảm nhận và chia sẻ giữa Camus, tác phẩm của
ông và
quần chúng Mỹ. Cái chết đột ngột của Camus làm chấn động bất cứ một con
người
nào có suy tư. Chưa nói đến phản ứng của giới văn học, có nhiều người
bình
thường đã nước mắt đầm đìa khi nghe tin Camus chết; có những người khác
thề
nhịn ăn trong nhiều ngày. Trên nước Mỹ, nơi văn chương chỉ được coi là
một hoạt
động có tính cách phụ thuộc, cái chết của Hemingway và Faulkner không
để lại
những giọt nước mắt. Chưa nói là một tác giả ngoại quốc, một nhà văn
nổi tiếng
của Mỹ chết đi cũng không gây xúc động gì lắm trong lòng quần chúng Mỹ
cho bằng
cái chết của một tay chơi football hồi hưu. Trường hợp Camus là trường
hợp đặc
biệt và độc nhất (“Camus in America”.
Trích N.R.F., XCVIII (01/02/1961), 292-296, Ellen Conroy Kennedy dịch
ra Anh
văn).
[2]Xem
Germaine Brée, Introduction to
Camus, Prentice Hall,
Inc. 1962.
[3]Thật
sự, Thanh Tâm Tuyền không phải
là người đầu tiên tự
gọi tên mình một cách đau khổ trong thơ. Trước đó, một nhà thơ khác
cũng đã tự
gọi tên mình một cách thống khổ như thế. Xem Federico García Lorca,
“Thơ ở New York”,
“Đất và
trăng”.
Quiero
llorar porque me da la gana
como
lloran los ninos del
último banco
porque
yo no soy un poeta, ni un
hombre, ni una hoja
pero
sí un pulso herido (...)
Quiero
llorar diciendo mi nombre,
Federico
García Lorca, a la orilla de
este lago...
(Tôi
muốn khóc bởi vì tôi muốn khóc
như
những đứa trẻ con khóc buồn trên
những tay ghế dựa của
những
kẻ
ngẩn ngơ
bởi
vì tôi không là thi sĩ, cũng chẳng
là con người, chẳng
là cánh lá
nhưng
chỉ là cái nẩy bật chảy máu của
một vết thương (...)
Tôi
muốn khóc và gọi tên tôi
Federico
García Lorca, bên bờ hồ
này... )
[4]Xem
Liên-đêm-mặt trời tìm thấy,
1964.
[5]Chữ
của Plutarch (diễn lại ý của
Simonides): “Painting is
mute poetry, and poetry a speaking picture”, Irving Babbitt, The New
Laokoon, Boston and New York, 1910.
[6]Những
họa sĩ siêu thực đầu tiên,
trong nỗ lực diễn tả
những kinh nghiệm nội tâm, ở bên ngoài ý thức, đã đi theo con đường sử
dụng các
kỹ thuật của tâm lý học hiện đại. Sơn hay mực được vẩy đổ trên vải vẽ
không có
một mục đích để tạo một hình thể rõ rệt nào trong óc người sáng tạo.
Những mảnh
giấy nhỏ cũng được xé ra và thả xuống mặt tranh, tạo nên những sự kết
hợp bất
ngờ. Nhà nghệ sĩ siêu thực hy vọng rằng những sự kết hợp bất ngờ đó có
thể là
chìa khoá mở toang cánh cửa tiềm thức của họ. Những họa sĩ siêu thực
lớp sau
phát triển tính cách siêu thực theo một kỹ thuật khác. Họ diễn tả lại
cái thế
giới của những giấc mộng mà họ có qua nỗ lực thực hiện những bức tranh
tiến đến
độ chính xác và rõ ràng như sự chính xác, rõ nét của một tấm ảnh chụp.
Mặc dù
có vẻ đứng ở một cực bên kia với những họa sĩ siêu thực đầu tiên trong
kỹ thuật
sáng tạo, những họa sĩ siêu thực lớp sau này cũng nhấn mạnh rằng hình
ảnh trong
tranh của họ là những hình ảnh tự phát, tự sinh, và có những liên hệ
trực tiếp
với những kinh nghiệm vô thức của thế giới nội tâm họ.
[7]Rainer
Maria Rilke, The Notebooks
of Malte Laurids
Brigge, M.D. Herter Norton dịch ra Anh văn (W.W. Norton & Company,
Inc.,
1949).