TƯỞNG NIỆM
|
Samuel Beckett, một thoảng
nhớ...
Mr.
Beckett đã chết. Vậy thì Paris, cũng thế. Tôi nghe người ta nói ông
chết tối thứ Sáu tuần rồi. Vậy thì là, tất cả những người hùng
của tôi đã chết, kể từ tối thứ Sáu tuần rồi.
Tếu thật, cuộc
đời bám dính lấy ông, tới 83 và 3/4 năm lận. Khi ông nói với tôi, ông
rụng răng, tôi lớ ngớ buông sảng một câu: "Vậy là mệt lắm đấy".
Ông quạt lại
liền: "Có cái gì tệ mà không biến thành hại? Đâu có giới hạn những điều
xấu xa trở thành tồi tệ hơn". Thế là cả hai đứa chúng tôi cười
đến vãi đái ra.
Mr. Beckett
biết chọc quê. Lần đầu tiên gặp Gill, bà xã tôi, ông kêu một ly đúp.
"Phải ly đúp mới được. Lóng rày, không làm sao kiếm một ly cho ra hồn".
Vào khoảng đầu
thập niên 1970, tôi ở Paris với một người bạn là Jean-Paul Delamorte,
một tiểu thuyết gia hụt, a romacier manqué. Lindon (bên tạp chí Nửa
Đêm, Minuit) vừa mới cho ra lò những bài viết mới nhất của Beckett,
bằng tiếng Pháp, nhan đề là Foirade, Foirade, Foirade I, Foirade II. Vì
có hẹn khuya này uống một "tăng" với ông, tôi hỏi Jean-Paul foirade
thực sự nghĩa là gì.
Jean-Paul hèm
lên hèm xuống, chẳng giống một con giáp nào hết. "Foirade thực ra
là... ơ hơ... đúng rồi, disgusting" .
Khi tôi lập
lại với Beckett, ông đỏ mặt tía tai: "Disgusting?! Đúng là lố bịch!".
Nơi chốn:
Chúng tôi đang ngồi tại La Closerie des Lilas, một tiệm ăn vốn là nơi
tụ tập đàn đúm của đám viết lách vào thập niên 1930. Mấy ngày trước khi
giải phẫu cườm mắt, Beckett đeo cặp kính dầy như đít chai Coke.
Tướng tá nhà văn lớn Samuel Beckett chẳng cách nào giấu nổi. Vừa ló đầu
vô, bị thiên hạ chiếu tướng liền. Cứ mỗi lần mở miệng, bằng ấy cái tay
ngừng đớp hít, bằng ấy cái tai nhỏng lên. Beckett, như mù dở với hai
cái đít chai Cô ca Cô la, chẳng hề hấn gì với ba trò hóng chuyện đó.
Ông giải
thích, về phản ứng của ông, với từ "disgusting" của Jean-Paul, bằng
cách chứng tỏ, ông đã "chọn từ foirade một cách hết sức là nghiêm túc",
và ông đang "động não" cố tìm ra một từ tiếng Anh hoàn toàn xứng hợp
với nó.
"Foirade:
disgusting? Thật là hoàn toàn vô nghĩa!. Une Foirade là một sự thất bại
thảm thương... Một điều gì người ta toan tính, nhưng toan tính này thật
ra chỉ là một sự thất bại, tuy nhiên vẫn phải toan tính, bởi vì thật
xứng đáng, không thể chối cãi được... vậy đó, một "thất bại mếu"
(a lamentable failure).
Tới đây, hình
như mọi thực khách trong tiệm ăn đều dướn người về phía chúng tôi, như
muốn nuốt lấy từng lời vọt ra khỏi miệng Beckett. Và nhà văn của chúng
ta thêm vô, kèm nụ cười rất ư là "bỏ đi": "Lẽ dĩ nhiên, foirade còn có
nghĩa là phát rắm ướt !
(Mấy tháng sau
đó, trong một tiệm sách ở New York, tôi nhìn thấy ấn bản tiếng Anh của
Foirades. Tên tiếng Anh: Fizzles).
Giữa đông,
giữa năm 1973, lạnh cứng người, cô đơn, túi thủng, tôi đành phải làm
cái trò đọc thơ, vào lúc tám giờ tối, tại Trung Tâm Văn Hóa Mỹ ở con
phố Dragon.... với cái giá năm chục đô. Tôi có cái uống với Beckett vào
lúc bẩy giờ. Tôi đâu dám xì ra cái chuyện đọc thơ, bởi vì:
1.
Tôi nghĩ ông chẳng ưa cái chuyện đọc thơ trước công chúng, cho dù phải
cạp đất.
2.
Ông gần như chẳng bao giờ làm chuyện đó.
Trong lúc cà
kê, ông có vẻ đâu đâu. Dưng không, ông nói: "Bạn đọc thơ, phải không?"
Tôi chới với, làm sao ông biết? Rồi ông thêm: "Chắc mong bạn bè tới
đông, hẻ?". Hiển nhiên, tôi làm ông đau, khi không mời. Vậy là tôi đã
làm ông đau, bực thiệt! Ông nói, như cho tôi đỡ đau: "Không, cám ơn
bạn, tôi không bao giờ tới với những chuyện đó".
Rồi thì ông
yêu cầu tôi đọc một bài thơ, của tôi, cho ông nghe. Nhột quá, tôi bảo
ông, cái giá năm mươi đô là ổn, đối với tôi. Ông bật cười, tuy nhiên
vẫn bắt tôi đọc thơ cho bằng được. Thơ đọc thầm lén mà! Thế là tôi ư ử,
bài "Trên Đại Lộ Raspail":
How
easily our only smile smiles.
We will never
agree or disagree.
The pretty
girl is perfected in her passing.
Our love lives
within the space of a quietly closing door .
Ông chăm chú
nghe, mắt nhắm tít. "Được! Được!", ông nói.
"Ồ, c...! "
Tôi bật lên. Ông mở choàng mắt, và tôi tự giải thích:
"Tớ ăn cắp của
bạn!"
"Không, không.
Tôi chưa hề nghe nó trong đời..."
"Không, không,
của bạn! Bài 'Dieppe'..., bạn chấm dứt với 'the space of a door
that opens and shuts'
"Ô! Đúng
thế thực." Nhưng rồi, bỗng nhiên, ông thêm vô: "Ô, c...!"
"Chuyện gì
nữa, hả?", tôi hỏi.
"Tôi chôm của
Dante, chính tôi! (me-self)."
(Theo bài viết
của Israel Horovitz, trong Tạp chí Paris, The Paris Revue, Mùa Xuân
1997).
|
|