TƯỞNG NIỆM
|
Vĩnh
biệt W. G. Sebald.
Gửi
NBD.
NQT
W.
G. Sebald, tiểu thuyết gia, nhà phê bình văn học Đức,
đã mất, hưởng dương 57 tuổi, theo tin tờ
New York Times trên lưới số đề ngày 15 tháng Chạp, 2001.
Ông
đưa cô con gái Anna về nhà (Norwich,
Anh quốc); trên đường, lạc tay lái, chắc là do một cơn đau tim, và đâm
vào xe
tải, theo Andrew Wylie, nhân viên lo việc xuất bản của ông. Có lẽ ông
đi liền,
khi tai nạn xảy ra, còn cô con gái bị thương nặng. Wylie nói thêm, cái
chết của
Sebald là “không thể nói được” – và là hơi thở hắt sau cùng của một năm
xấu.
“Không
thể nói được” (unspeakable), một “thuật ngữ” thường
được dùng để chỉ những điều ghê gớm tởm lợm của chủ nghĩa Nazi và cực
điểm của
nó là Lò Thiêu Người. Sebald được coi là nhà văn của mọi nỗi bi thương
và bao
điều tưởng niệm, về cái gọi là “không thể nói được”.
Sau
đây là một số nhận xét về Sebald của những đồng nghiệp
của ông, trên toàn thế giới.
Nhà
thơ, tiểu luận gia, tiểu thuyết gia; những hình ảnh mãnh
liệt của ông chiếu rọi vào cái thế giới đương thời, với những nhân vật
không
làm sao thoát ra khỏi cái bóng ma Đệ Nhị Chiến và Lò Thiêu. Những gì
ông viết
ra, động cơ khiến ông viết, người đọc có thể lần theo đó, tới tận thời
thơ ấu
của ông: Đức quốc thời hậu chiến, một nơi chốn với những sự thực chẳng
thú vị
gì được khỏa lấp, hay tốt hơn hết, đừng thèm để ý tới.
Khắc
khoải, liều lĩnh, cùng cực, câm nghẹn... những tính từ
chỏi nhau như thế, sau khi được gột sạch những rác rưởi, chỉ khi đó,
mới tiếp
cận được cái thế giới đậm đặc luôn giãy giụa của Sebald; James Wood
viết trên
tờ The New Republic. “Người Đức sống ở Anh trên 30 năm này, là một
trong những
nhà văn Âu Châu đương thời đã đạt tới đỉnh của sự thăng hoa, và đây
đúng là một
điều thật kỳ bí.”
Nhân
vật chính của ông, hay là cái phần tử chung (common element)
của thời đại chúng ta: một người kể chuyện lang thang. Tác phẩm của
ông, một
thứ vữa đặc biệt, được trộn bằng giả tưởng, hồi ức và lịch sử.
Ông
thật sự lo lắng, về điều gọi là bản chất của hồi ức:
liệu quá khứ còn hay mất?
Lẽ
dĩ nhiên ông có những tiền thân – những người đi
trước – nhưng hiện nay, chẳng có một
người nào viết như ông, kẻ gom góp những mảnh vụn của Âu Châu.
“Lịch
sử là một cơn ác mộng, ở trong đó, những nhân vật của
Sebald và những cuốn sách của ông - như một toàn thể – cố gắng thức
dậy.”
Khi
“Di dân” (The Emigrants), cuốn tiểu thuyết đầu tiên của
ông được dịch ra tiếng Anh và được xuất bản tại Mỹ (1996), ông được đón
chào
như là một nhà văn của nhà văn (a writer’s writer). Susan Sontag, nữ
văn sĩ Mỹ,
coi đây là một “kiệt tác làm [người đọc] ngỡ ngàng”, rằng “nó có vẻ
tuyệt hảo
vậy mà lại không giống như bất cứ một cuốn sách nào [bà đã] từng đọc”.
“Di
dân” là câu chuyện về hai người Do Thái thoát khỏi Lò
Thiêu. Cuốn tiếp theo, “The Rings of Saturn” (1998), một pha trộn
(hybrid) giữa
tiểu sử và du ký, và đây là câu chuyện của một du khách lạc vào thế
giới hồn ma
bóng quế được “đặt để” ở miền đông nam nước Anh. Robert Silman của tờ
New York
Times, coi đây là một cuộc lữ xuyên qua không gian và thời gian, “xóa
sạch thời
gian và thách đố tỉ giảo”. Richard Holmes, một tiểu sử gia cùng sống
tại
Norwich và là tác giả cuốn “Những Bước Chân”, cũng một pha trộn giữa
tiểu sử và
du ký, đã nhận xét về “The Rings of Saturn”: một cuốn sách trí tuệ
(brillant),
rất, rất uyên nguyên (original), với chất tếu (humor) tỉnh bơ và những
pha đổi
tông (shifts) tuyệt vời; phải nói là huyền ảo.
Sau
thành công của hai cuốn trên, “Vertigo”, bản tiếng Anh
của cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông (tiếng Đức, 1990) được xuất bản
tiếp theo
đó. Chỉ nội bốn cuốn đã đủ để xác định ngôi đền của ông, trong điện chư
thần
văn học (chữ của Mel Gussow, NY Times).
Cuốn
tiểu thuyết sau cùng của ông “Austerlitz”,
được ban biên tập tờ điểm sách NY Times coi là một trong 9 cuốn hay
nhất trong
năm 2001. Đây là câu chuyện một người sống sót Lò Thiêu truy tìm căn
cước cha
mẹ. Trong bài điểm sách trên tờ NY Times, Michiko Kakutani cho rằng,
[như một
con thuyền ma], cuốn truyện chuyển độc giả của nó vào không gian hồi
ức, cõi mù
sương, với những hình ảnh - nửa là nhớ lại, nửa là mù khơi – và những
hồn ma;
nó làm người ta nhớ liền tới “Những trái dâu dại” của Ingmar Bergman,
những
chuyện ngụ ngôn [làm cho người ta sống dở chết dở khi phải đụng đầu với
ý niệm]
về tội lỗi và thân phận quít làm cam chịu, tức phận người, của Kafka,
và lẽ dĩ
nhiên, nó còn làm độc giả nhớ tới Proust, với tuyệt tác “Đi tìm thời đã
mất”.
Với Sebald, mọi so sánh như trên đều là thiết yếu.
Sebald
viết, bằng cách pha trộn hồi ức, tiểu thuyết, tiểu
luận và luôn cả những hình ảnh. Không giống như một sử gia, tới thư
viện với
một chương trình tìm tòi, nghiên cứu, ông tới đó, như bất thần bị xô
đẩy. “Tôi
thật khó mà chịu nổi chuyện, miệt mài hai năm trời, thí dụ vậy, ở Thư
khố Chiến
tranh ở Munich“, ông nói.
“Thế là
tôi chạy vội vô, ngồi chừng một, hay hai tuần lễ, nhặt nhạnh, theo kiểu
của một
người không thể nấn ná, một người rời căn nhà đang phát hỏa, và chuyện
cháy nhà
là tình cờ”.
Người
đọc rút ra được gì, từ những cuốn tiểu thuyết của
Sebald, tất cả những nhân vật đều có vẻ như lấy ra từ tác giả: khật
khừ, bi
thương, bịnh hoạn? Arthur Lubow, biên tập viên NY Times, tự hỏi, từ
Norwick,
Anh Quốc, nơi Sebald vừa vĩnh viễn từ bỏ. Và theo Lubow, điều này càng
biểu
hiện (apparent), ở trong cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông,
Austerlitz, câu
chuyện một người sống sót Lò Thiêu đi tìm căn cước bố mẹ, một cuốn sách
mà
trong đó, nhân vật có tên là tựa đề cuốn sách, và người kể chuyện tráo
đi tráo
lại giọng điệu, định kiến, cũng như những điều mà cả hai cùng quan tâm.
Theo
Lubow, thật khó mà tách rời tác giả ra khỏi những nhân vật của ông.
Và
vẫn chính ông, đã thở ra một cách nhẹ nhõm, khi gặp gỡ
tác giả, và nhận ra rằng, Sebald ở ngoài đời, một giáo sư giảng dậy môn
văn
chương tại Đại học East Anglia, ở thành phố có ngôi nhà thờ cổ này,
thật khác
xa một con người tang tóc thê lương: Tức cười, ưa bắt chuyện, nhưng
chắc chắn
một điều, vừa có dịp là ông nói về những người đã chết, và ông không
nói bằng
một giọng thê lương. Điều ngạc nhiên hơn nữa, mặc dù những điều thê
lương,
những hồn ma làm đầy những trang viết, nhưng đó là những cuốn tiểu
thuyết thật
dễ đọc, với một thông điệp thật rõ ràng: nối vòng tay lớn, không phải
chỉ giữa
những người sống mà còn luôn cả với những hồn ma. Bởi vì, như nhân vật Austerlitz
trong cuốn tiểu thuyết cùng tên, nhận xét: biên giới giữa sống và chết
không
rạch ròi như người ta tưởng.
1. Làm sao mà
thế giới của chúng ta lại u ám đến như vậy?
Benjamin
Markovits, trên tờ Điểm sách Luân Đôn, số đề ngày
18 tháng Mười 2001, đã tự hỏi như trên, khi đọc Austerlitz của Sebald.
Trích
dẫn [nhà thơ Anh] Philip Larkin - đã có lần tự hỏi, sự tình sẽ ra sao,
nếu như
người yêu của ông bước vô cái sọ của mình: “Nàng sẽ ôm chặt hai tai,
chống lại
cuộc trình diễn thơ bất tận/ réo rắt theo dòng đời, hết thất ngôn lại
lục bát,
rồi tự do...” – ông cho rằng, bước vào trong cái đầu (hay thế giới giả
tưởng,
tức những cuốn tiểu thuyết của) Sebald, phản ứng cũng y hệt như vậy, và
người
đọc thở phào, khi bước ra ngoài. Bên trong, là một thứ ánh sáng nhức
nhối,
những chiếc ghế cứng nhắc, căn phòng lạnh, và mặc dù được bầy biện thật
đẹp,
đầy bụi. Và luôn luôn, từ chiếc đài (la-dô), là buổi trình diễn bực bội
đó.
Sebald
đã có lần cho biết, ông không chọn lựa, mô tả điều
ghê gớm tởm lợm, nhưng giả dụ, rằng nó – điều ghê gớm tởm lợm – “cho
biết” tất
cả những gì ông suy nghĩ và viết (that it informs everything he thinks
and
writes). Theo nghĩa đó, Austerlitz “được biết” bằng những nỗi thê lương
“ruột”
(favorite) của tác giả: ở trong đó, là thiên nhiên – đúng ra là một
thiên nhiên
đã biến chất, đã không còn là thiên nhiên nữa - tức cuộc sống của một
di dân;
những dấu vết thời gian chà đi xát lại, và hậu quả của nó lên nhân vật
chính;
anh ta ngày một trơ ra, hết còn mẫn cảm; sự độc ác của lịch sử; đặc
biệt, của
thời kỳ Đức Quốc Xã. Trước những điều ghê gớm như vậy, nhà thơ Auden
viết, ngọn
lửa nghệ thuật sáng lên (“nghệ thuật chỉ cho chúng ta thấy ngọn lửa xác
quyết,
khẳng định, và đó là lý do của nó”). Sebald vặn cho ngọn lửa chỉ còn
lập lòe,
tù mù, như một hạt đậu xanh.
Độc
giả có thể tìm thấy nguồn gốc của Austerlitz ở phần bốn,
cuốn The Imigrants, tác phẩm đầu tiên được dịch từ tiếng mẹ đẻ của tác
giả là
tiếng Đức qua tiếng Anh, dịch giả Michael Hulse, xuất bản tại Anh, nơi
ông sống
từ năm 1966. Đây là đoạn nói về cuộc đời của Max Ferber (mô phỏng cuộc
đời họa
sĩ Frank Auerbach), một đứa trẻ Do Thái được gửi tới Anh vào năm 1939,
để trốn
thoát Đệ Tam Reich. Cha mẹ của đứa bé sau bị giết chết ở trong trại tập
trung.
Sebald không chú tâm nhiều tới nỗi đau phải chia lìa người thân, mà là
sự trống
vắng tiếp theo sau đó. Ferber nhận ra rằng cha mẹ của mình đã chết,
cùng với
những lá thư cứ thế mà khô kiệt đi, rồi đứt hẳn. “Sự liên lạc thư từ
trở nên
thật mệt nhọc đối với tôi,” Ferber viết, “và khi thư ngưng, vào tháng
Mười Một
1941, lúc đầu tôi cảm thấy nhẹ nhàng, bây giờ nghĩ lại, tôi thấy thật
khủng
khiếp. Dần dần, nó làm rõ ra cái số kiếp của tôi: sẽ chẳng bao giờ được
viết
thư cho gia đình.”
Không
hẳn những nhân vật của Sebald không thể đương đầu với
khổ đau, mà là, khổ đau cứ tự nó tiêu đi, nhưng lại chẳng cho hạnh phúc
thế chỗ
nó. Như Ferber nhận xét về “phận mình”: “Tôi dần dần hiểu ra rằng, quá
một điểm
nào đó, nỗi đau xóa sạch ý thức về nỗi đau, và có lẽ, tự xóa sạch luôn
chính
nó; có vẻ như chúng ta cũng chẳng hiểu gì nhiều cho lắm, về chuyện này.”
Trong
“Austerlitz”,
Sebald trở lại với hiện tượng này, qua câu chuyện một di dân cố xoay sở
làm sao
để sống nổi đời mình, tức là cố quên hẳn đi cái gốc rễ đã quên mất.
Nhân vật kể
chuyện, như những cuốn tiểu thuyết trước đó, là một ấn bản (version)
của chính
tác giả, muốn biết tại sao người đàn ông mà anh tình cờ “bắt gặp” tại
một ga xe
lửa ở Antwerp lại quan tâm và nghiên cứu ngành kiến trúc. Người đàn ông
này tên
là Jacques Austerlitz, một giảng viên tại một trường trung học ở Luân
Đôn. Đó
là lần đầu tiên của một chuỗi gặp gỡ giữa hai người, qua đó, Austerlitz
lần lần bày tỏ câu chuyện của đời mình, “Ngay từ khi còn nhỏ, cho tới
thời niên
thiếu,” anh nói với người kể chuyện (the narrator), “tôi chẳng làm sao
biết
được, tôi thực sự là ai”. Anh được nuôi dưỡng dậy dỗ, dưới cái tên
Aafydd
Elias, “tại một thành phố nhỏ Balas tại Wales” bởi một vị mục sư tên là
Emyr
Elias, và bà vợ tính tình e lệ, người Anh, Gwendolyn. Họ đã nhận anh
làm con
nuôi, từ khi 5 tuổi – “có lẽ”, như Austerlitz phỏng đoán, là để “đảo
ngược cái
thói làm dáng, trong những vấn đề thuộc về tình cảm, ngày càng trở nên
không
thể chịu được, đối với cả hai.” Cả hai gần như lúc nào cũng lạnh lùng,
dửng
dưng, và cậu bé chỉ cảm thấy được một chút dễ thở, là nhờ những giờ
phút khốn
khổ ở nơi nội trú, dù sao đây cũng là một giải thoát đối với cậu. Bà mẹ
nuôi
trong lúc hấp hối chờ qua thế giới bên kia, đã hỏi đức ông chồng: “Làm
sao mà
thế giới của chúng ta lại u ám như thế này?” Ông chồng chỉ ít lâu sau
cũng đi
theo bà vợ, như thể - cậu con nuôi lại tiếp tục phỏng đoán – cả hai đã
dần dà,
mỗi lúc một tí, bị giết chết bởi cái lạnh, nằm ở trong trái tim của họ”.
Austerlitz
là
tên một trận đánh của Napoleon và như tác giả bài điểm sách nhận xét,
“lẽ dĩ
nhiên, Austerlitz không
phải là
Đức, và anh ta cũng chẳng là gì cả.” Nỗi đau đã hủy diệt, hay ít ra,
làm u tối,
chính cái gọi là bằng chứng hiển nhiên. Cuốn tiểu thuyết của Sebald là
câu
chuyện của Austerlitz,
bằng cách
nào, đi từ đau khổ này tới đau khổ khác, cố khám phá, không hẳn “Thực
sự ta là
ai?” nhưng màlà cuộc đời anh ta “không có”, nhưng “nên có”, để mà
“sống.”
Austerlitz
tin
tưởng, “tất cả cứ thế tàn lụi đi”, và “với bất cứ một đời sống tàn lụi
đi, thế
giới khô kiệt theo”.
Sebald
nhận xét, “những người không có hồi ức thì hạnh phúc
hơn, so với những người đau khổ vì những hồi ức.”
Austerlitz
đau
khổ cả hai kiểu.
2. W. G. Sebald: Viết như chó chạy rông ở ngoài đồng
hay là Ý nghĩa của Tình cờ.
Lời
người giới thiệu: Dưới đây là chuyển ngữ cuộc trao đổi
giữa Joe Cuomo và W. G. Sebald, người vừa tử nạn xe hơi ngày 14 tháng
Chạp năm
2001, hưởng thọ 57 tuổi, tác giả những cuốn tiểu thuyết thoát thai từ
tro than
Lò Thiêu.
Cuộc
phỏng vấn thực hiện trước đó, và đăng trên tờ Người Nữu
Ước, số đề ngày 3 tháng Chín 2001 (lên lưới ngày 27 tháng 8, 2001), vào
dịp bản
dịch tiếng Anh cuốn tiểu thuyết Austerlitz được nhà xuất bản Random
House phát
hành (Tháng Mười, 2000). Tờ báo số mới nhất (Dec 20, 2001) đã cho đăng lại cuộc trò
chuyện trên.
Sinh
tại Allgau vào năm 1944, Sebald sống tại Đức tới năm
1966; sau đó ông làm giáo sư tại một số đại học Anh, tuy nhiên ông vẫn
viết văn
bằng tiếng Đức. Những cuốn tiểu thuyết của ông gồm có Vertigo (xb tại
Đức 1990,
tại Mỹ 2000), The Emigrants (1996), và The Rings of Saturn (1998) đã
đem đến
cho ông một số giải thưởng như Berlin Literatur và Literatur Nord
Prizes, và
The Los Angeles Times Book Prize. Vào tháng Ba năm 2000, ông có tham dự
trong
chương trình đọc sách của trường [the] Queens College (Evenings
Readings
series, forbin.qc.edu/qcer) trong đó có mục phỏng vấn của Joe Cuomo (a
question-and-answer session), một nhà văn và cũng là một “lecturer” của
Queens
College. Bài chuyển ngữ sau đây là trích từ cuộc phỏng vấn trên.
Joe
Cuomo: Bạn tôi, một nhà văn có hạng, nói với tôi, vừa
đọc xong cuốn “The Rings of Saturn” là anh ta liền khởi sự đọc lại ngay
từ đầu.
Lý do là anh ta không biết chuyện gì đã xẩy ra cho anh ta. Tôi cũng tự
hỏi bằng
cách nào ông tiếp cận “cái gọi là” thể văn tự sự, trong khi viết cuốn
sách đó?
W.
G. Sebald: Tôi cũng khó mà nhớ, nó đã ra làm sao. Thoạt
đầu tôi tính viết vài mẩu ngăn ngắn cho mấy tờ báo Đức, để trừ khoản
tiền cho
một chuyến ngao du chừng nửa tháng. Chương trình là như vậy. Rồi thì
tản bộ,
rồi thì tản mạn, [tôi muốn nói] tìm kiếm điều này điều nọ. Tôi nghĩ đó
là lợi
ích, và là một trong lý do tôi thích tản bộ. Chuyện này chuyện nọ cứ
như bóng với
hình cùng tản bộ với bạn. Hay là ghé viện bảo tàng nho nhỏ miệt vườn,
mua một
cuốn sách mỏng được viết bởi một sử gia địa phương; thứ này làm sao
kiếm thấy ở
Luân Đôn. Trong cuốn sách mỏng như thế đó, bạn có thể tìm thấy những
chi tiết
ngồ ngộ, có thể chúng sẽ dẫn bạn tới những xó xỉnh ngồ ngộ khác. Theo
tôi, đây
là cách tìm tòi không theo hệ thống; lẽ dĩ nhiên, một hình thức nghiên
cứu như
thế đối với một nhà khoa bảng, nó thật khác xa hình thức mang tính
chính thống,
và bởi vì chúng ta thường chỉ thích việc nào ra việc đó, nghĩa là làm
việc theo
hệ thống.
Thú
thực, tôi chẳng ham làm việc theo hệ thống. Ngay cả việc
nghiên cứu, tìm tòi tài liệu cho văn bằng Ph. D, nó cũng chẳng hệ
thống, mà
theo kiểu tình cờ. Càng làm việc theo ngẫu hứng, tôi càng nhận ra điều
này:
thực sự chỉ có cách đó là được việc – giống như kiểu chó chạy rông ở
ngoài
đồng. Nếu bạn để ý tới một con chó, dưới sự “cố vấn” của cái mũi, nó
băng qua
một dải đất theo một lối mà bạn không làm sao ngờ được. Và thường là nó
xục ra,
thứ nó tìm. Tôi thích chó, có lẽ vì vậy, tôi học từ chúng, làm sao
viết, viết
như thế nào.
Vậy
là, khi bạn có trong tay một dúm vật liệu, bạn “tích tụ”
chúng, và chúng sinh con đẻ cái, [tôi muốn nói], điều này dẫn tới điều
kia, thế
là bạn có được một cái gì đó, từ mớ vật liệu được lắp ghép theo kiểu
ngẫu hứng.
Và bởi vì chúng được lắp ghép theo kiểu bạ đâu xâu đấy, bạn phải vận
dụng trí
tưởng tượng để móc chúng với nhau theo cặp đôi, tức tìm mối liên kết
giữa hai
sự vật. Nếu bạn kiếm ra những điều, giống như những điều mà bạn kiếm
trước đó,
vậy là, hiển nhiên, chúng móc vào nhau, nhưng theo một kiểu trước đó
chưa từng
có; vậy là bạn viết ra được một điều chi mới mẻ, bổ ích (productive).
Vấn đề là
bạn phải rút ra từ mớ vật liệu chằng chịt, rồi vận động trí tưởng của
bạn, làm
sao bật ra một điều gì trước đây chưa có. Tôi nghĩ về việc viết lách
như vậy.
Và, lẽ dĩ nhiên, phải có sự tò mò ở trong đó.
-Tiến
trình đầy tính khám phá, ‘viết như chó chạy rông ở
ngoài đồng’, luôn ‘tóm’ lấy ông, mỗi khi ngồi vào bàn?
Lâu
lâu, thỉnh thoảng thôi. Tôi cho rằng, khi bạn viết, hay
làm điều gì theo kiểu trên, sẽ có những lúc bạn hầu như cảm thấy, mình
đi đúng
đường. Không phải bạn hoàn toàn tin tưởng, nó phải như thế, rằng “nó
đây rồi”,
không thể chệch vào đâu được nữa, nhưng mà là, bạn cảm thấy vững tâm
hơn, so
với những khi khác. Và theo tôi, nó là như vậy, một khi những con chữ
theo nhau
từ trong túi áo bạn chui ra. Thì như bạn biết đấy, bạn ngồi vào bàn,
lôi mấy
mẩu đầu, cố kéo ra cho đầy trang, thí dụ vậy. Và nếu mọi chuyện thuận
buồm xuôi
gió, thế là chúng cứ thế tuôn ra; tôi muốn nói, những lời “người này”
nói,
“người kia” nghe, những hình tượng, những nơi này, chốn khác... những
gì ba
mươi năm bạn chẳng hề nghĩ tới, tưởng chừng quên sạch, đột nhiên chúng
cứ thế
đon đả, mời chào bạn. Tôi chủ trương, cứ mặc kệ cho sự vật tiến diễn,
chừng nào
bạn còn có thể tin cậy được, kể cả những đột biến, do chính cái hành
động viết
gây ra. Tôi lấy thí dụ, phần cuối của cuốn sách [The Rings of Saturn],
là nói
về tơ lụa, và cái chương sách đó đã kết thúc bằng mấy trang về cách để
tang
(culture of mourning). Vào đúng cái lúc tôi kết thúc những trang sách
đó, tôi
đọc lại, và tôi nghĩ, đây là từ tờ Thời Báo (Times), đây là tất cả
những vụ
việc (events) mà tôi cần, từ cái danh sách những gì xẩy ra, một ngày
nào đó,
cách đây một trăm ba mươi năm, hay hai trăm hai mươi năm. Và tất cả cứ
thế tuồn
vào bản văn, như thể tôi viết [là để] nhắm tới điểm đó. Ngộ thiệt!
Nhưng đôi
lúc, thật là mãn nguyện, một khi chuyện xẩy ra như vậy.
-Diễn
biến tự xẩy ra như vậy, ông đã tả trong một cuốn tiểu
thuyết; về một điều gì không thể nào giải thích được, xẩy ra; chúng ta
thực sự
không biết xoay sở ra sao với nó; nhưng chuyện xẩy ra như thế rất có ý
nghĩa.
Đúng
như thế. Và tôi nghĩ toàn thể vấn đề này đều trông vào
sự tình cờ, và đây là sự kiện nổi bật ở trong những sáng tác của tôi.
Tôi mong
rằng, độc giả không cảm thấy, mình bị quấy rầy. Nhưng bạn biết đấy,
ngay trong
cuốn đầu tay, Vertigo, đã có cả lố. Tôi thực sự không trông mong ở
những dẫn
giải siêu tâm lý, kiểu này hay kiểu nọ, hay là những lý thuyết của Jung
về chủ
thể. Tôi thấy chúng chán phèo. Theo tôi, một cách nào đó, cần phải đem
ý nghĩa
cho cái vô nghĩa của cuộc sống. Bạn gặp một người cùng ngày sinh với
bạn – cho
dù xác xuất của việc này là 1/365, như
vậy cũng đâu có gì là ghê gớm, quái dị. Nhưng nếu bạn hợp với người đó,
thế là
liền lập tức, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật... và tôi
cho rằng,
tất cả những hệ thống triết học, tín ngưỡng, cách ở đời... đều được xây
dựng
theo đường lối đó, trong mong ước tìm ra cái nghĩa, khi chưa có.
-Một
trong những điều đáng kể, ở trong cuốn sách, ông không
hề cố gắng sử dụng những tình cờ như trên, hướng nó về một mục đích. Và
theo
tôi, ông đã làm được điều này: rằng người đọc không cảm thấy họ bị sỏ
mũi, bị
nhìn thế giới theo một kiểu nào đó. Cả lố tiểu thuyết tâm lý “pop” được
dàn
dựng theo kiểu này: Bởi vì chúng ta sinh ra đời cùng một ngày, vậy là
chúng ta
có duyên vợ chồng với nhau. Hoặc một chuyện na ná như vậy. Hiện đang có
ý hướng
giản lược thế gian, theo một mẫu mã như vầy: cái này là bằng chứng của
cái kia.
Và ông như cảm thấy đòi hỏi phải cưỡng lại ý hướng trên, qua những cuốn
tiểu
thuyết, cuốn nọ tiếp cuốn kia của ông.
Bởi
vì tôi sẽ rẻ rúng nó, nếu làm như vậy.
-Đúng
thế.
Tuy
nhiên, điều có ý nghĩa, ở phần đầu cuốn Vertigo, là về
Stendhal; và cái đoạn khá ngắn ngủi đó
đã kết thúc bằng cái chết của Stendhal trên một đường phố ở Paris có
tên là Phố
Danielle-Casanova. Tôi không biết ‘Danielle’ Casanova là ai. Cái tên
Casanova
thì còn có nghĩa đối với tôi, qua nội dung của cuốn sách. Nhưng
‘Danielle’
Casanova, không. Mùa hè sau đó, tôi tới Corsia. Tôi cuốc bộ qua một
vùng núi,
tới làng Pina ở bờ biển, trong làng có một căn nhà gắn tấm biển tưởng
niệm
Danielle Casanova, bị sát hại bởi những đồng bào của tôi ở [lò thiêu]
Auschwitz. Bà là một nha sĩ, một người Cộng Sản, và chiến đấu trong Lực
lượng
Kháng chiến Pháp. Tôi đi qua đi lại căn nhà chừng ba, bốn lần; lần nào
cửa cũng
đóng im ỉm. Một lần tôi đi vòng qua sau nhà, và gặp cô em của bà. Tôi
đã nói
chuyện với cô em chừng cả một tuần lễ [thính giả trong buổi nói chuyện
cười ồ
thú vị]. Chuyện xẩy ra là như vậy đấy. Tôi có đủ thứ giấy tờ về bà, và
bây giờ
tôi chưa biết sẽ làm gì với chúng. Nhưng đó là một kiểu cơ duyên bèo
nước, theo
tôi. Và một khi nó chợt tới, vậy là bạn nghĩ, có lẽ, không phải mọi
chuyện đều
là vô tích sự. Đôi lúc, nó cho chúng ta một ý nghĩa thoáng qua, về niềm
an ủi.
-Trở
lại với tác phẩm đầu tay của ông, “Theo Thiên Nhiên”
(“After Nature”), ông có thể cho biết, nó đã được hình thành như thế
nào?
Câu
hỏi lý thú đấy, bởi vì bạn khó mà đoán ra được, làm sao
tôi vướng vào cái dịch vụ lạ lùng, là viết lách. Tôi muốn nói, tôi chưa
hề có
tham vọng “trở thành”, hay “là” nhà văn. Ở vào cái quãng nửa đời người,
tôi
ngày càng bị vây khổn bởi những đòi hỏi, ở chỗ làm tại đại học, ở ba
chỗ linh
tinh khác nữa, như bất cứ một người nào trong cuộc đời của mình. Tôi
cần phải
kiếm cách thoát ra. Vẫn là chuyện tình cờ, đúng lúc đó, tôi mò xuống
Luân Đôn,
rồi đọc một cuốn sách của một nhà văn Đức thuộc loại hũ nút, tên là
Konrad
Bayer. Ông này là một trong những nhà văn trẻ thuộc nhóm siêu thực hậu
chiến,
cả đám không làm sao vượt lên khỏi Nhóm 47. Ông sau tự tử, để lại vài
ba tác
phẩm mong mỏng, trong có cuốn [Cái đầu của] “The Head of Vitus Bering”;
trong
cuốn này có một tiểu chú nhắc tới một nhà thực vật và động vật học
người Đức
thế kỷ 18 tên là Georg Wilhelm Steller, bạn thấy không, ba chữ cái đầu
tên ông
y chang của tôi; tình cờ hơn nữa, nơi ông ra đời đúng là nơi má tôi đã
tới, khi
đang mang bầu tôi, vào năm 1943.
-Trong
cuốn sách có nói tới chuyện này.
Vâng.
Bạn thấy đấy, nỗi “băn khoăn” làm thế nào “dưng không
trồi lên sự thực” [chữ của Thanh Tâm Tuyền], làm thế nào có một cái gì
đó, từ
cái chẳng có, sau cùng hoá ra, đây là công việc viết lách. Với tôi, nó
là bước
ngoặt, chuyển từ độc điệu khoa bảng qua một dạng chưa được xác định,
nghĩa là
hoàn toàn tự do; như bạn biết đấy, một nhà khoa bảng luôn phải nghe:
“Này, viết
lách bậy bạ nhảm nhí như thế hả?” Bây giờ tôi có thể nói: “Viết vậy
đóù, được
không?”
-Sợi
chỉ xuyên suốt những tác phẩm của ông, theo tôi, là cái
phần thế giới mà chúng ta biết thì nhỏ xíu. Và cái phần thế giới mà
chúng ta
chưa biết thì thật vô cùng. Tuy nhiên, trong cái cõi nhỏ xíu mà chúng
ta biết
đó, ông cố làm bật ra cái đúng, cái tiếng nói thực của nó. Và, trong
khi làm
như vậy, chúng ta tin tưởng rằng, chúng ta biết được một điều gì đó về
thế
giới.
Với
tôi, làm được như vậy, là tuyệt vời. Bạn khó mà nắm bắt
thực tại, một khi nó biến đổi theo chiều hướng bệnh lý, và tất cả –
phải nói là
hầu hết – cung cách ứng xử của chúng ta đều có chút chi liên quan tới
bệnh lý.
Viết, sáng tạo là chắt chiu từng kỷ niệm, chi li từng chi tiết. Với một
dúm kỷ
niệm, chi tiết, thành phần như thế đó, bạn dàn dựng, xây nên một cái
gì. Và ba
cái chuyện tỉ mỉ loay hoay sờ xoạng như vậy, là có dính đến bệnh lý,
nếu không
muốn nói là hoang tưởng. Lẽ dĩ nhiên, nó là ngón nghề (device) của
hoang tưởng.
Bạn thử đọc những tác phẩm của những tay hoang tưởng, chúng đều được
viết đúng
câu kệ một cách không thể chê được, tuy nội dung bệnh hoạn, bởi vì
chúng khởi
đi từ một loạt những cách ngôn trời ơi đất hỡi. Một khi bạn chắt chiu
từng kỷ
niệm, chi li từng chi tiết, là bạn lạc vào cõi mê hồn, chốn kỳ quặc, và
nó cứ
dẫn bạn đi hoài hoài. Nhìn từ quan điểm đó, bạn thấy ngay là cái ngón
nghề chi
ly mò mẫn đó khó có thể là cách đo chân lý. Khỗ một nỗi, đây chính là
ngón nghề
của giả tưởng, của văn xuôi: bạn bị kết án phải chi ly, mầy mò. Từ một
hình
ảnh, bạn phải làm sao có được một câu chuyện tình, thí dụ vậy. Làm sao
không
phải mầy mò, qua ngôn ngữ, qua tưởng tượng?
-Trước
khi kết thúc cuộc nói chuyện, còn hai điều này: Trong
“The Rings of Saturn”, đoạn Thomas Browne nói làm tôi nhớ tới lời giảng
của Cha
Zosima, trong “Anh em nhà Karamazov”, và cả hai đều chỉ ra mối quan tâm
của
ông, rằng cái kinh nghiệm có được bằng cách mầy mò sờ xoạng, một cách
nào đó,
lại móc nối được cái thế giới vượt quá lên trên những gì có thể mầy mò
sờ
xoạng. Đoạn này còn làm cho tôi nhớ tới tác phẩm của những thi sĩ, như
Czeslaw
Milosz, Adam Zagajewski và Joseph Brodsky. Ông có nghĩ, những gì ông
viết ra là
cùng một dòng với họ?
Tôi
nghĩ họ đều có một điểm chung, là niềm quan hoài siêu
hình, điều này thật hiển nhiên với Dostoevsky. Những đoạn tuyệt vời
nhất của
Dostoevsky là về siêu hình, chứ không phải về tôn giáo, theo tôi. Và
siêu hình
là một điều luôn luôn ám ảnh tôi, theo nghĩa này: rằng một con người có
quyền
giả dụ về những địa hạt vượt ra ngoài cái hữu hạn là đời người. Thật
đáng tiếc,
có thể nói, thật điên khùng, khi những triết gia của thế kỷ 19 đã vứt
bỏ siêu
hình, coi là không đáng, và giản trừ họ, như là những nhà hậu cần,
thống kê.
Theo tôi, siêu hình là một nỗi
quan hoài chính đáng. Và
những nhà văn như Kafka, thí dụ vậy, đều quan tâm tới siêu hình. Nếu
bạn đọc
một câu chuyện như “Điều tra của một con chó” (Investigations of a
Dog), chủ đề
của nó thật thấp, nếu nói về mặt tri thức luận. Chỉ loay hoay ở dưới
đầu gối,
nghĩa là không quá mấy ngón chân. Nhưng con chó đã làm những trò quỉ
thuật như
thế nào để cho bánh mì lọt vào trong cái thế giới thấp hèn đó, nghĩa là
từ trên
bàn ăn rớt xuống. Làm sao nó rớt xuống, con chó không hiểu được. Nhưng
nó biết,
nếu nó trình diễn một thứ nghi lễ nào đó, biến động sẽ tiếp theo. Thế
là con
chó đã trải qua những giả dụ rất ư kỳ quặc về thực tại, hoàn toàn khác
hẳn với
của chúng ta. Khả năng hiểu biết của con chó thì hạn hẹp, của chúng ta
cũng
vậy. Giống như trò chơi đố chữ, thật hết sức
hữu lý, nếu chúng ta hỏi, như những triết gia đã từng hỏi: “Liệu có
chắc
chúng ta đang thực sự ngồi ở đây không?”
NQT
|