Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
TƯỞNG NIỆM
|
Tên của cuộc
chiến
K
hi mới tới Sài-gòn, nhân vật đầu tiên chào mừng, welcome, thằng bé
Bắc-kỳ-di-cư-tôi ngày nào, là khách sạn Majestic.
Khách coi bộ quá hăm hở, mấy ngàn con người lôi
thôi, lếch thếch, chỉ vì ách nước vận trời mà hân hạnh được tầu Mỹ chở
tới đây.
Chưa từng thấy biển, bị "trấn" ngay cho một chuyến đi suốt chiều dài
đất
nước. Chưa từng chiêm ngưỡng thành phố, đụng liền Hòn Ngọc Viễn Đông.
Tuy đã từng ghé Cảng Hải Phòng, những ngày chờ đợi làm thủ tục, đã
"kinh
qua" Vịnh Hạ Long, trên những con tầu há mồm trước khi ra Đệ Thất Hạm
Đội,
nhưng lòng dạ nào mà ngắm trời ngắm đất. Thiên nhiên hình như cũng hết
còn là của họ, như cọng rơm cọng cỏ, con gà con chó, xó nhà miếng vườn,
đành đứt ruột bỏ lại. Ấy là chưa kể, người lớn trẻ con ói lên ói xuống
vì
say sóng.
Chen chúc, luồn lách, cậu bé men tới mép tầu.
Majestic thấp hơn cậu một chút. Con tầu như hiểu ý, nghiêng hẳn sang
một bên, cậu có thể thò tay với tới.
Lần thực sự viếng thăm, chỉ ít lâu sau, là để đập
phá khách sạn.
Thời gian học lớp đệ ngũ trường Văn Lang, của thầy
Nguyễn Khắc Kham. Vẫn "thói" bắc không thể bỏ, chọn thầy trước khi chọn
trường, chọn lớp. Tiếng là trường, chỉ một căn hộ trong một con hẻm
đường Ngô Tùng
Châu gần Ngã Sáu Sài-gòn. Tiếng là di cư, nhưng chính ở đây, cậu có
người
bạn Nam-kỳ đầu tiên. Cũng lần đầu, cậu nghe anh bạn Trí phát âm "tìn
thươn", thay vì tình thương. Con nhà giầu miệt tỉnh, mấy chị em kéo lên
Sài-gòn mua nhà thay vì trọ học. Và phải là một trường Bắc-kỳ. Anh giải
thích:
ở dưới đó, anh "số dzách", nhưng ông thầy lắc đầu, không ăn thua gì
đâu,
so với đám học trò người bắc. Anh đưa về "khoe" với mấy anh chị em. Cả
nhà
đều mến, nhưng phàn nàn với đứa em: bạn mày nói, tụi tao nghe không ra!
Còn thằng bé cứ há hốc mồm, nghe kể về một miền đất, sáng rảo bộ ra
quán
cà-phe nơi đầu ngõ, tiện chân ngoáy ngoáy một hố đất nơi con rạch, trưa
về thò tay nhấc lên một con cá. Nhưng hình ảnh "Nam-kỳ nhất" ở nơi cậu,
là từ một cô gái "lai", Bắc-kỳ xa xưa từ hồi nảo hồi nào. Và nó bắt
nguồn từ... Hà-nội!
Hồi đó ở với bà chị họ, nơi ngoại ô Bạch Mai. Một
bữa có
một ông chú, từ Sài-gòn ghé. Gọi là chú, vì ngày trước học chung với
ông già. Chú Th. quê Phú Hữu, một làng nằm trên sườn một
ngọn đồi, dưới chân núi Tản. Ngày nhỏ theo bà già từ Thanh Trì, ven
sông Hồng, vượt hết cánh đồng Sơn, đứng từ dưới nhìn lên, những căn nhà
lẩn sau đám cây trên đồi. Bà già chỉ: nhà bà Hàn kia kìa. Gái Thanh
Trì thường làm dâu Phú Hữu. Cậu bé có mấy bà cô ở trên đồi. Trai Phú
Hữu thường ra Thanh Trì làm học trò ông giáo Dực. Ông già và chú Th.
học
chung lớp. Chú thi rớt, bị bố la, bỏ xứ Bắc, nhẩy tầu đi một lèo tới
Sài-gòn
làm giầu. Ông già thi vô sư phạm, ra làm hiệu trưởng trường tiểu học,
mỗi
nhiệm sở đẻ một đứa con làm dấu. Đứa Hải Dương, đứa Lục Yên Châu...
Nhiệm
sở chót Việt Trì (Vĩnh Yên), năm 1945, rồi "thôi" luôn.
Lần đó chú Th. ghé chơi trên đường về quê, mang làm
quà cho mấy trái xoài, và dẫn thằng cháu đi mua cho một đôi giầy, vô
tình cho nó một thú vui: đánh thật bóng, rồi thử xem bụi hè phố Hà-nội
mất mấy ngày mới làm mờ.
Lần gặp lại, là ở Sài-gòn. Ông hỏi: "Nước nhà độc lập rồi, còn 'dzô'
đây làm gì?" Ông hình như lấy làm tiếc cho thằng con người bạn
học. Cộng sản "nòi", bố bị đảng phái thủ tiêu. Lý lịch "tốt" như thế,
bỏ đi thật uổng! Chửi một hồi thấy tội, ông nhắc lại một vài kỷ niệm,
hồi học chung với ông già. Giầu có như vậy, ông vẫn nhớ, và cười cười,
mày chắc cũng đã hưởng qua nhiều lần, cái thú ngồi giữa đồng làng, làm
một trong tứ khoái, rồi "chịn" lên mặt cỏ tươi. Làng Thanh Trì của tôi,
chú chỉ nhớ có vậy. Thú thật! Làng Thừa Lệnh, quê Chu Tử, kế ngay bên
Phú
Hữu. Hai người hình như quen nhau, từ hồi còn nhỏ. Cô bé con chú Th. là
"mặc khải" miền nam, Sài-gòn của tôi. Dây mơ rễ má với Hà-nội, là vậy.
"Nới" rộng ra, nó liên can đến cả một miền đất.
Nhiều người bắc chắc còn nhớ cái váy nâu, cái quần thâm. Vải may xong,
nhúng nâu, nhúng bùn, phơi nắng, cho tới khi cứng như mo cau, mới được
xỏ vào người. Lần bà chị đưa đứa em tới "trình diện" ông chú, người đàn
bà miền nam xuất hiện trước thằng nhỏ Bắc-kỳ, là hình ảnh một cô bé
trong bộ bà ba đen, mỏng, mượt, mát, như... làn da thứ nhì của con
người.
Đang ngồi học, đột nhiên tất cả ùa ra khỏi lớp. Phái đoàn Việt Cộng ở
khách sạn Majestic! (1).
Lần đó đập phá đã tay, "truy lùng" Văn Tiến Dũng đã đời, cảnh sát mới
can thiệp. Có anh bạn Ngô Khánh Lãng cùng đi. Anh không gặp Việt
Cộng, mà là một cô đầm. Đẹp lắm, anh nói. Với anh, (với chúng tôi), đầm
có nghĩa là đẹp. Khi cửa phòng bị phá, nhìn thấy anh, cô quá sợ. Sợ bị
giết. Suốt cuộc chiến, và những lần biểu tình, xuống đường của nó, đây
là lần đầu, và cũng là lần cuối, tôi biết thế nào là hơi cay. Cũng có
được
một chiến lợi phẩm, cuốn tự điển Larousse bỏ túi, Lãng nhặt được ở hành
làng, trong lúc rút quân. Trên đường về, không biết nghĩ sao, hai đứa
liệng
vô đống rác khổng lồ ở đường Hàm Nghi.
Từ văn phòng hãng thông tấn UPI, 19 Ngô Đức Kế, nhẩy mấy bước
là tới khách sạn Majestic. Một bữa xuống sở, gặp nhiếp ảnh viên người
Nhật, Sawada Kyoichi. Tôi bảo anh, tuần trước mới cưới vợ. Anh tròn
xoe mắt, nói sao không cho biết. Đám cưới mãi tít Cai Lậy, "many VC
there!" Anh bật cười, kéo tôi băng qua đường, lên terrace khách sạn,
làm
một chầu ăn sáng.
Vòng vo Tam Quốc nãy giờ, duyên do là, tôi không thể quên anh, hoặc anh
cũng rứa, cho nên đứa sống, đứa chết đành mượn Majestic là nơi "tái
ngộ", nhớ về những ngày đầu, theo kiểu "ý thức đuổi theo cái chết
của ý thức" (2).
Tuy cùng là Mỹ, nhưng hãng thông tấn AP giầu hơn UPI. Lương hậu hĩ hơn.
Một số thông tín viên, nhiếp ảnh viên thường coi UPI là nơi
học nghề. Khi đã có chút tên tuổi, chờ AP bật đèn xanh, là nhẩy. Tôi
vẫn
còn nhớ nhiếp ảnh viên Henri Huêt, người Pháp lai, làm cho UPI, sau về
AP. Mỗi lần lên Đài, nơi tôi làm việc, anh hay nói chuyện với tôi, và
chị
Linh, nữ điện thoại viên phụ trách mạch Paris. Bằng tiếng Pháp. Một
bữa,
anh vừa quay đi, chị Linh ghé tai tôi nói nhỏ: Thằng chả ăn mắm hút
ròi,
chưa lột lưỡi đã biết tiếng Việt, vậy mà bầy đặt! Thực tình, cho tới
lúc
đó, tôi vẫn nghĩ anh không biết tiếng Việt.
Cách loan tin cũng khác. UPI thường chuyển tin liền, nếu cần,
cải chính sau. Tin AP do đó chính xác hơn. Nhân viên cũng nhiều hơn.
Đám phóng viên tự do, freelance, thường ghé AP trước. Nếu UPI có hơn
được AP một chút gì đó, là nhờ kỹ thuật chuyển vô tuyến viễn ảnh. Ông
Hưng, tuy cựu nhân viên bưu điện, như lo về bưu vụ; khi chuyển hình,
ông
thường để tín hiệu tối đa, vô tình tăng nhiễu. Thời gian đầu, Horst
Faas,
trưởng phòng hình ảnh AP nghi, gã chuyên viên trẻ UPI "phá". Anh kêu
Iwasa, chuyên viên kỹ thuật của hãng, từ Tokyo qua Sài-gòn, lên Đài
kiểm tra chất lượng máy móc, đường dây. Iwasa ăn ngủ trên Đài cả tháng.
Anh rất
chịu gã chuyên viên trẻ, chịu khó nghe gã bập bẹ "dịch" vừa bằng tay,
vừa bằng miệng, truyện ngắn đầu tay của gã sang tiếng Anh, và hỏi cái
cô
Mai ở trong truyện là cô nào trong số các cô ban ngày anh thường gặp.
Mai
của tôi, My Mine, khi đó đã bỏ bưu điện qua làm nữ tiếp viên hàng không
Air Vietnam.
Trong số những nhiếp ảnh viên UPI, Sawada nổi tiếng nhất, nhưng chẳng
bao giờ anh bỏ hãng, dù Horst Faas đã nhiều lần ra dấu. Những
ngày Khe Sanh, hình ảnh của Sawada về những ngọn đồi đẫm máu, tên chỉ
là những con số (chắc là chỉ cao độ), đã được tờ Paris Match dùng làm
trang
bìa. Cả số báo là hình của anh. Gần như tháng nào anh cũng được hãng
tuyên dương. Bức hình đoạt Pulitzer: một bà mẹ, tay bồng con, tay kia
với theo một đứa, mấy đứa lớn bu quanh mẹ, vượt một khúc sông, chạy
giặc. (3)
Tôi vừa mới làm cho UPI là đã quen anh. Theo nguyên tắc, tôi luôn luôn
phải có mặt tại Đài, phòng hờ những lần gửi hình đột xuất. Một lần ỷ y,
tôi về nhà, khi đó ở một con hẻm đường Nguyễn Huỳnh Đức, sau
nhà Hội Đồng xã Phú Nhuận. Anh mầy mò kiếm ra được. Khi anh mất, bà vợ
có ghé Việt Nam. Hai vợ chồng không con. Tôi đứng nhìn người đàn bà
Nhật,
chắc cũng ít nói như anh, vẻ xa lạ hờ hững giữa văn phòng hãng. Như
chưa
được sự giới thiệu của người đã chết, tôi e dè không dám tới nói lời
chia
buồn, và tôi nghĩ bà cũng chẳng cần. Làm sao giải thích cho bà hiểu
nổi,
tại sao chồng bà lại chết vì một xứ sở vô tình đến như vậy?
Làm cho UPI, dần dần trong tôi nẩy sinh một tình cảm quái gở.
Mỗi lần có một phóng viên, nhiếp ảnh viên mới, là tôi tự hỏi, tay này
chịu được bao lâu? Lần nhiếp ảnh viên người Nhật, tên Mine, mới tới
Sài-gòn, tôi lắc đầu tự nhủ thầm, đúng là tên tiền định! Chân ướt chân
ráo, anh đã được "đãi ngộ": đang ở một đồn binh Mỹ, một chiếc C.130 bay
ngang, bị ngay pháo bên dưới cắt thành hai mảnh. Hai năm qua đi, hết
hạn,
anh trở về Tokyo. Tưởng là thoát, không ngờ anh phải qua Việt Nam, thế
hai tuần, cho một đồng nghiệp đi phép. Anh bị chết cháy, trong thiết
vận
xa M.113, khi trúng mìn.
Kent Potter, được UPI cho làm trưởng phòng hình ảnh, deskman,
chỉ việc ngồi lựa hình, đánh caption (4) gửi đi, vậy mà gặp mặt là
nghe anh than chán quá, chán quá. Chiến tranh gì mà buồn tẻ thế này!
Đúng lúc đó, xẩy trận Hạ Lào. Anh nhẩy vội ra Trung. Chuyến đó, chiếc
trực thăng chở phóng viên báo chí bị rớt, (trúng đạn?), chết đâu mười
mấy mạng, trong có anh. Tôi cứ nghe như Thần Chết lắc đầu quầy quậy,
giọng bực mình, tao đã bảo ở nhà, vậy mà không chịu, cứ nằng nặc...
Sawada không chết vì cuộc chiến Việt Nam, nhưng sau đó, khi nó chuyển
qua Kampuchia. Anh là người, có lúc tôi nghĩ, may mắn, vì luôn luôn có
mặt trong những trận đánh lớn, và cứ nhè những khía cạnh cuộc chiến
muốn giấu, để mà lột trần ra. Cái xấu, cái ác, có lẽ cũng là chuyện làm
xàm, đôi khi chán ngắt, chính vì vậy Thần Chết muốn giấu, cũng nên!
Thông
thường đám phóng viên Tây-phương, cứ thấy xác chết là "mê", chụp hình
lia lịa. Hình của Sawada là những gì hết đỗi tầm thường, nếu không muốn
nói, nhàm chán, y hệt như nếu không có những xác người "bầy ra đấy", nó
vẫn phải "xẩy ra": hình một người lính VNCH "chán đời", ngồi thừ, điếu
thuốc gắn trên môi, "để đó". Có vẻ như anh không còn một chút hơi sức,
chỉ để kéo một hơi thuốc. Có vẻ như anh chẳng vui gì mà hút thuốc, sau
khi người bạn thân vừa tử trận. Hay là anh nghĩ, không biết con vợ "bay
bướm" ở nhà có "buồn" vì anh vẫn còn sống... Bản chất ù lì, "tiêu cực"
có khi cần thiết cho sáng tạo, hơn là sự hăm hở, sôi sục, muốn "viết",
"chụp". Hình mấy mẹ con bơi qua sông chạy giặc: vẻ "trơ ra" của thiên
nhiên. Vũ Ngọc Phan đã từng chê Nguyễn Tuân: muốn kéo thiên nhiên xuống
cho vừa ý con người...
Sự tầm phào.... Sawada chết "lãng nhách" như vậy. Người Kampuchia, lính
hoặc không lính, đều không ưa phóng viên nhà báo. Nhưng lại mê
cái máy hình, chiếc xe honda... Như đa số phóng viên chết tại đây, họ
đều bị giết khi đang chạy xe trên một khúc đường vắng, thường chỉ bởi
một con người, "đột nhiên" nổi lòng tham.
Majestic sau đổi tên là Cửu Long. Tôi có lần lẩn thẩn, tại sao không là
Văn Tiến Dũng, kỷ niệm một lần ông đã từng ở đây, và phải "bực
mình" bỏ đi.
Có lần tôi đã mất cả một ngày trời, chỉ để 'nhớ cho ra", tên một tiệm
sách: tiệm Lê Phan ở đường Phạm Ngũ Lão, Sài-gòn.
Hình như cái tên là khó nhớ nhất, đối với bộ não con người.
Bởi vì phải mất 30 năm tôi mới nhớ ta tên một cô bạn.
Tên một phóng viên người Nhật.
Và tên một cuộc chiến.
Tên của cuộc chiến (2)
... Một ngôi
làng chìm trong khói lửa. Tiếng gào thét. Dân làng bị dồn đuổi nhẩy ào
xuống con mương cạnh đó tìm nơi thoát thân. Trong làn nước bùn đục ngầu
có hai
tốp mẹ con cuống cuồng bơi, người mẹ ra sức bảo vễ đứa con nhỏ, nét mặt
hoảng loạn cùng cực... Kyoichi bất giác chuyển động và bấm máy lia lịa
như
mất hồn. Bức ảnh hoàn thành với cái tên Lánh nạn.
Đó chỉ là một cảnh quay được dàn dựng bởi diễn xuất của diễn viên Nhật
bản, Osawa Takao trong vai Kyoichi và một số diễn viên nghiệp dư người
Việt Nam tại Xuyên Mộc, Bà Rịa (sáng 3-6-1999). Những cảnh ấy đã tái
hiện một sự kiện người thực việc thực trong cuộc đời nhà nhiếp ảnh
người Nhật Sawada Kyoichi xẩy ra vào tháng 5-1965 trên chiến trường
Việt Nam. Sawada Kyoichi là ai?
Sinh ra ở vùng quê Aomori, lên Tokyo làm biên tập ảnh cho hãng UPI,
chàng trai Sawada vẫn mang nặng mặc cảm: "Nơi đó chỉ thừa nhận những kẻ
sinh ở thành phố, có tiền, có học vị". Và anh đến chiến trường Việt Nam
(vào năm 1965) quyết "trở thành nhà nhiếp ảnh được cả thế giới
công nhận, cho cái bọn đang kiêu căng ở hòn đảo biết tay". Chỉ sáu
tháng
sau khi đến Việt Nam, Kyoichi có bức Lánh nạn ở một làng nhỏ phía bắc
Quy Nhơn. Bức ảnh sau đó được đăng trên hầu hết các tờ báo lớn trên thế
giới khi đưa tin về chiến tranh Việt Nam, nhận giải thưởng Granpuri
trong
liên hoan ảnh phóng sự thế giới tại Hagu, và giải báo chí quốc tế
(Pulitzer),
tại New York. Sawada Kyoichi trở thành một trong ba phóng viên ảnh
trong
cuộc chiến Việt Nam đoạt giải Pulitzer.
"Thế kỷ 20, dân tộc Việt Nam đã có một cuộc chiến tranh lừng lẫy, và
đất nước tôi có một người con - Sawada Kyoichi - đã góp phần ghi lại
những hình ảnh đau thương và hào hùng về cuộc chiến đó. câu chuyện
về anh gợi lại suy nghĩ về sự tàn hại của chiến tranh bởi nó vẫn đang
tiếp diễn ở nhiều nơi trên thế giới". Đó là lý do thúc đẩy Đài truyền
hình Nagoya và hãng truyền hình Kyodo (Nhật Bản) cùng hợp tác sản xuất
bộ phim "Khoảnh khắc lóe sáng" - phim truyền hình dài 95 phút, một dạng
phim tư liệu dựng lại trung thực cuộc đời nhà báo dũng cảm này.
"Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, tuy là phóng viên
chiến trường, Sawada quan tâm trước hết đến những người dân vô tội Việt
Nam bị cuốn hút vào cuộc chiến..." - ông Matsumoto, nhà sản xuất bộ
phim, nói. Thật vậy, theo trình bầy của tác giả kịch bản Inaba Kazuhiro
- người từng tham gia chiến tranh Việt Nam - ý nghĩa của bộ phim không
nằm ở các sự kiện mà là quá trình thay đổi cách nhìn của chính Sawada
khi trực tiếp đối
mặt với chiến tranh. Nhờ sự cảnh tỉnh của một nhà xã hội học người
Nhật,
Sawada nhận ra khi chụp những bức hình như Lánh nạn, anh đã "không cảm
thấy đau đớn gì, khi nhìn người bị thương, bị chết", chỉ biết chụp ảnh;
trong khi "với tư cách một con người có một việc phải làm - là cứu họ -
trước khi có những bức ảnh ấy". Từ New York, sau khi nhận giải
Pulitzer, Sawada quay về Việt Nam, tìm những nhân vật trong bức Lánh
nạn, hỏi thăm, tặng quà, và tặng họ tấm ảnh ấy...
Cuộc sống chung cực kỳ hòa hợp với người vợ Sata (do
nữ diễn viên Zair Naomi thủ vai), hơn anh 10 tuổi, vừa là vợ, vừa là
bạn, là
một mảng khác, đã lãng mạn bộ phim. Họ hạnh phúc và đang muốn có đứa
con đầu lòng. Nhưng Sawada không thể ngồi yên... "Nếu chờ ai đó sẽ làm
thì không biết bao giờ mới có hòa bình, nên anh phải làm vì anh là thợ
ảnh", Sawada nói với vợ trong đêm Giáng Sinh cuối cùng lên đường sang
chiến trường Cambodia (năm 1970). Anh bị bắn chết tại đây. Một cái chết
"thanh thản như đang ngủ"...
Lời người viết:
Phần đầu bài viết đã đăng trên tạp chí Văn, như một tưởng niệm của
người viết, về người bạn cùng sở, Sawada Kyoichi. Phần hai, tác giả
là Hoài Hương, đăng trên báo Tuổi Trẻ, mà người viết được đọc qua báo
Nhân Dân, trên Internet. Người viết xin mạn phép tác giả Hoài Hương,
lược
bỏ một số đoạn có tính tuyên truyền, và thành thực tin rằng, ở bên kia
thế giới, Sawada Kyoichi cũng đồng ý như vậy. Vả chăng, đoạn nói về bức
ảnh "Chết trong bụi đỏ", "chụp cảnh chiếc xe tăng đang kéo lê xác người
trên đường, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Chứng tích Chiến
tranh TP Hồ Chí Minh (số 18 Võ Văn Tần)", theo như người viết được
biết, tuy
của UPI, nhưng không do Sawada Kyoichi chụp.
Cái gì của César, hãy trả cho César.
Chú thích:
1. Phái đoàn miền Bắc, do Văn Tiến Dũng cầm đầu, là để
bàn chuyện hiệp thương, tổng tuyển cử... sau năm 1954, theo tinh thần
hiệp định Genève.
2. Chaque conscience poursuit la mort de l'autre (Hégel); Simone de
Beauvoir trích dẫn, trong Nữ Khách, (L'invitée).
3. Kyoichi Sawada (UPI), đoạt Pulitzer, giải thưởng của Mỹ, về hình
chiến tranh (combat photography), năm 1966; Toshio Sakai (UPI), 1968;
Horst Faas (AP), 1965; David Halberstam (NY Times), 1964; về hình cùng
với Macolm Browne (AP), về phóng sự (combat reporting).
4. Caption: Chú thích dưới một tấm hình. Chỉ những phóng viên
lâu năm trong nghề mới được làm việc này. Tiền đánh caption hơn tiền
trả cho nhiếp ảnh viên chụp tấm hình.
Nguyễn
Quốc Trụ
|