|
Thư
tín
Monday,
October 22, 2012 9:27 PM
Chào bác, là
một độc giả của Tin văn tôi muốn góp ý về một cách dịch trong bài này
http://www.tanvien.net/Tribute_1/women.html
Câu sau:
She believed
that contradiction "experienced right to the depths of one's being
means
spiritual laceration, it means the Cross."
Bác dịch là:
Bà tin rằng,
mâu thuẫn là ‘kinh nghiệm những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người,
và, kiếp
người là một cõi xé lòng, và, đây là Thập Giá”.
Theo tôi nên
dịch:
Bà tin rằng,
mâu thuẫn "được nghiệm ra ở tận những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp
người,
chính là cõi xé lòng, là Thập Giá”.
Phúc đáp:
Câu của TV không sát nguyên tác, so với câu của bạn.
Tks, many Tks
NQT
Tuyệt.
Đọc kỹ đến như thế thì quả là đại vạn hạnh cho TV!
Note:
To QTT: Bài
này, tôi dịch, lâu rồi. Khi bạn hỏi, đọc lại,
nhớ ra liền, là, ngay khi dịch xong câu văn, tôi đã nhìn ra độ lệch, so
với
nguyên tác, nhưng thú thực, câu văn dịch đọc nhịp nhàng hơn, và tôi
muốn giữ,
không dịch lại.
Nhưng bạn, đọc, mà nhận ra độ lệch, cũng thật là thú vị.
Tks again.
Take care
NQT
Carlos
Fuentes: Women
on
Sister Benedicta &
Anna
Akhmatova & Simone Weil
The
word martyr,
etymologically speaking, means witness.
Carlos
Fuentes: Women
on
Sister Benedicta &
Anna
Akhmatova & Simone Weil
Triết gia Đức gốc Do Thái
Simone Weil là đệ tử của Alain. Và lời
phán của ông thầy, xuống đệ tử, hãy
suy
đi nghĩ lại mọi điều, dựa vào việc đọc mỗi năm một triết gia hay một
nhà thơ,
như Plato và Homer. Alain không nghĩ ông là Cộng Sản hay xã hội. “Tôi
thuộc phe
Tả đời đời, một phe Tả chẳng bao giờ hành xử quyền lực, như bản chất
của nó,
thể nào cũng đưa đến lạm dụng.”
Simone Weil chẳng những suy đi nghĩ lại mọi chuyện mà còn quyết định
biến tư
tưởng của bà thành hành động, đưa chúng vào thử nghiệm ở trên đường
phố, ở
xưởng thợ, ở mặt trận. Khi còn là sinh viên, bà có biệt danh là “Thánh
Nữ Đỏ”,
và bà biểu lộ khuynh hướng tả phái của bà bằng cách đi tới nhà máy,
xưởng thợ
cùng làm việc với công nhân, chiến đấu chống phát xít tại Tây Ban Nha,
và sau
đó, dục bỏ “chủ nghĩa ái quốc của Nhà Thờ”, và luôn cả những tiếng nói
của Ky
Tô Giáo Pháp, hô hào: “Thà Hitler còn hơn là Mặt Trận Bình Dân”. Nhưng
Simone
Weil cũng dục bỏ Liên Xô Cộng Sản, khi bà biết về những vụ thanh trừng
của
Stalin. Và bà cho biết niềm tin
của mình:
“Chẳng bao lâu, những nhà cách mạng thứ thiệt sẽ được nhìn nhận bởi vì
chỉ họ là
những người không nói tới cách mạng. Chẳng có gì vào thời đại này xứng
đáng một
cái tên như thế”. Và bà càng dấn mình vào môi trường lao động và chính
trị thì
bà càng thấy mình gắn bó với Chúa, qua những thuật ngữ như trọng lực và
ân sủng.
Tuy nhiên, bà luôn luôn là một tín hữu Ky Tô ở bên ngoài Nhà Thờ, mà bà
tin là,
chỉ là một cấu trúc độc đoán, thư lại. Bà muốn mình ở với Chúa, và,
hành động tự
do. Và bà sẽ ở với Chúa vì bà tin tưởng “Chúa không sáng tạo gì hết
ngoài tình
yêu tự thân, và những phương tiện, cách thức để yêu.” Chúa thì thực,
Simone
Weil nói với chúng ta, bởi vì tình yêu của tôi không phải là tưởng
tượng. Và vì
lý do này, bà cảm thấy mình là chủ của ước muốn tự do của riêng mình.
Sự chấp
nhận hay từ bỏ Chúa tùy thuộc ở sự tự do của bà. Vào ngày 15 Tháng Tư,
1943, bà
mất vì nhịn ăn tại một bịnh viện Anh. Bà bị từ chối không được gia nhập
lực lượng
kháng chiến Pháp, và vì vậy, bà từ chối, không sử dụng phần ăn quá phần
ăn hàng
ngày ở trại tập trung, mặc dù sự kiện, vi trùng bịnh lao đang ăn tươi
nuốt sống
bà. Cả đời tôi, tôi tin tưởng ở Simone Weil, kể từ ngày tôi đọc tiểu
luận tuyệt
vời của bà, “The Iliad, Poem of Might”, [Iliad hay là bài thơ của Sức
Mạnh], và
ghi vào ký ức của tôi, những bài học mà bà rút ra từ Homer: “sự kiện là
chẳng có
gì tránh được phần số…. đừng bao giờ ca
ngợi sức mạnh, hay thù hận kẻ thù, hay khinh khi những kẻ khổ đau.”
Simone
Weil
TTT
chẳng đã tiên đoán ra được, trước khi khăn gói quả mướp lên đường đi tù
cải tạo,
miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này. Câu nói của ông
đúng
vào những ngày 30 Tháng Tư 1975, khi nhìn VC tiến vào Sài Gòn, thì
cũng
đâu có khác gì Weil, khi nhìn những đoàn quân Nazi tiến vào Paris:
Her observation, at the very moment of the occupation of Paris
by German troops, that this was a great day for Indo-China (for all
people
under French colonial rule). G. Steiner: Sainte Simone -
Simone Weil]: Đây
là ngày trọng đại, ngày hội lớn, cho xứ Đông Dương, cho tất cả những
dân tộc bị
Pháp biến thành nô lệ
For Weil, the "crimes" of
colonialism related
immediately, in both religious and political symmetry, to the
degradation of
the homeland. Time and again, a Weil aphorism, a marginalium to a
classical or
scriptural passage, cuts to the heart of a dilemma too often masked by
cant or
taboo. She did not flinch from contradiction, from the insoluble. She
believed
that contradiction "experienced right to the depths of one's being
means spiritual
laceration, it means the Cross." Without which "cruciality"
theological debates and philosophic postulates are academic gossip. To
take
seriously, existentially, the question of the significance of human
life and
death on a bestialized, wasted planet, to inquire into the worth or
futility of
political action and social design is not merely to risk personal
health or the
solace of common love: it is to endanger reason itself. The two
individuals who
have in our time not only taught or written or generated conceptually
philosophic summonses of the very first rank but lived them, in pain,
in
self-punishment, in rejection of their Judaism, are Ludwig Wittgenstein
and
Simone Weil. At how very many points they walked in the same lit
shadows.
Steiner
Đối với
Simone Weil, những “tội
ác” của chủ nghĩa thực dân thì
liền lập tức mắc míu tới băng hoại, thoái hóa, cả về mặt tôn giáo lẫn
chính trị
ở nơi quê nhà. Nhiều lần, một Weil lập ngôn – những lập ngôn này dù
được trích
ra từ văn chương cổ điển hay kinh thánh, thì đều như mũi dao - cắt tới
tim vấn
nạn, thứ thường xuyên che đậy bằng đạo đức giả, cấm kỵ. Bà không chùn
bước
trước mâu thuẫn, điều không sao giải quyết. Bà tin rằng, mâu thuẫn là
‘kinh
nghiệm những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, và, kiếp người là một
cõi xé
lòng, và, đây là Thập Giá”. Nếu không ‘rốt ráo’ đến như thế, thì, những
cuộc
thảo luận thần học, những định đề triết học chỉ là ba trò tầm phào giữa
đám
khoa bảng. Nghiêm túc mà nói, sống chết mà bàn, câu hỏi về ý nghĩa đời
người và
cái chết trên hành tinh thú vật hóa, huỷ hoại hoá, đòi hỏi về đáng hay
không
đáng, một hành động chính trị hay một phác thảo xã hội, những tra vấn
đòi hỏi
như vậy không chỉ gây rủi ro cho sức khoẻ cá nhân, cho sự khuây khoả
của một
tình yêu chung, mà nó còn gây họa cho chính cái gọi là lý lẽ.
Chỉ có hai người trong thời đại chúng ta, hai người này không chỉ nói,
viết,
hay đề ra những thảo luận triết học mang tính khái niệm ở đẳng cấp số
1, nhưng
đều sống chúng, trong đau đớn, tự trừng phạt chính họ, trong
sự từ bỏ
niềm tin Do Thái giáo của họ, đó là Ludwig Wittgenstein và Simone Weil.
Đó là
vì sao, ở rất nhiều điểm, họ cùng bước trong những khoảng tối tù mù như
nhau.
*
But
perhaps the deepest sense of Milosz’s political impact lies elsewhere;
following in the great Simone Weil’s footsteps, he set forth a model of
thought
linking metaphysical passion with responsiveness to the plight of the
simple
man.
Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa nhất của thái độ chính trị của Milosz thì
nằm ở một
nơi nào đó; theo gót những bước chân của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra
cho mình
một kiểu suy nghĩ, nối liền đam mê siêu hình với sự nhủ lòng, trước số
phận của
một con người bình thường.
Trí tuệ và những
bông hồng
Ở
S. Weil có khía cạnh Antigone, và điều này tránh cho bà trở nên hoài
nghi, và tới
gần sự thánh thiện.
Tôi đọc, với ngưỡng mộ, và nản quá nản quá, cuộc đời Weil. Sự kiêu ngạo
của bà
đánh tôi đau hơn là sự thông minh của bà!
Tôi vừa đọc Weil viết về Iliade, Viễn tưởng dởm. Làm sao mà bà
có thể
viết, thế giới Hy lạp bắt đầu bằng hùng ca và chấm dứt bằng Phúc Âm? Có
gì là
chung, giữa Achille và phần còn lại, và những ngư phủ Judée?
Sự quan tâm
sâu xa của tôi đối với những người
Do thái, và tất cả những gì liên quan tới Do thái. Những trường hợp.
Tất cả.
Simone Weil. Kafka. Những hình tượng của một thế giới khác, Chỉ
có họ có
sự bí ẩn. Những người không phải là Do Thái, thi đều quá hiển nhiên.
Cioran
Nếu
có thể coi Osip Mandelstam là ngoại lệ, thì Anna Akhmatova (1889-1966)
quả đúng
là nhà thơ vĩ đại nhất của Nga, thế kỷ 20. Đàn ông yêu bà, nhưng họ
không hiểu
được bà. Tất cả đám đực rựa thì cũng bẽn lẽn thú nhận điều này: Anna
kiêu ngạo hơn,
thông minh hơn họ. Bên dưới dáng mảnh mai, là một ý chí sắt đá. Mảnh
mai và ý
chí sẽ mang đôi cánh đến cho những dòng thơ tuyệt vời của bà, có thể cô
đọng,
biểu trưng bằng bài thơ sau đây, nung chảy nhà văn và độc giả, ở một
khoảnh
khắc đốn
ngộ, vừa trần thế, vô thường, vừa thiên thu, vĩnh viễn: “Thời của chúng
ta ở trên
mặt đất này thì đang bỏ chạy/Vòng vây xiết chặt lại/Nhưng anh ta-người
bạn không
biết của nhà thơ-/Thì một lòng một dạ và sẽ sống hoài hoài”. Niềm tin
khủng khiếp
vào thơ ca là vinh quang của Anna Akhmatova, thì
cũng là nhà tù của bà . Quyết tâm chọn con
đường của riêng mình, thoát ra ngoài sự kìm kẹp của Zhdanov và “chủ
nghĩa hiện
thực xã hội”, bà bị lăng nhục và truy lùng bởi Stalin. Nhà độc tài thèm
là 1 nghệ sĩ này nhìn thấy ở Akhmatova một sức mạnh kép, nguy hiểm,
ngoài vòng
cương tỏa, không thể nào chịu nổi. Bà là cả hai, một phụ nữ, và một nhà
thơ, một
người có thể lèm bèm về cái gói nho nhỏ quyền uy của mình: "Tôi lấy từ
phía tả, và từ phía hữu… Và mọi thứ - trong sự im lặng của
đêm”, bà viết, và cảnh
cáo nhà độc tài, mi ngu quá, làm sao hiểu, cái vòng nguyệt quế, bài
đồng ca, khúc hát nối vòng tay lớn
của thi ca thì ở "bờ bên kia của địa ngục". Vào năm 1935, thơ của bà bị
biếm bởi
chế độ, và bà được dán nhãn một con “điếm”, con mụ “phản cách
mạng”. Thơ
của bà thì nằm trong ký ức của những người đọc bà vào lúc đó. Nhưng
chiến tranh
có cách của nó để tái lập vinh quang và sự nổi tiếng: tiếng nói của bà
rền rĩ cùng
với những âm vang sâu thẳm của truyền thống văn học Nga, và sự kháng cự
của dân
tộc. Bà trở thành vị nữ thần thi ca. Sùng bái. Quá sùng bái. Những bài thơ và bài nói
chuyện của bà
về sự chiến đấu, bảo vệ thành phố của bà, Leningrad, trong khi bị vây
hãm đã làm
bà nổi tiếng, đem đến cho bà những hoan hô, xưng tụng, giải thưởng.
Nhưng bà biết,
“như ma cà rồng, tên đao phủ luôn luôn kiếm ra nạn nhân của nó, nếu
không,
làm sao nó sống sót”. Tên đao phủ đợi trong bóng tối. Khi chiến tranh
chấm dứt,
Stalin tự hỏi liệu người đàn bà sáng ngời, độc lập này xứng đáng – liền
lập tức,
ngay khi có thể - bị tước đoạt hy vọng bà có được sự tự do của mình
qua những đóng
góp của bà trong chiến thắng. Tên độc tài ra lệnh trưng thu vinh quang
và tự do
của bà. Bà mất căn phòng của bà, và thu nhập, như là nhà văn. Bà sống
trong nghèo
khổ, đói lạnh. Bà từ chối và cám ơn sự từ thiện của bè bạn. Và để làm
mất đi những
nghi ngờ kéo dài, liệu tự do sáng tạo chỉ có được với cái giá cao
nhất của nó,
con trai của bà bị đầy đi tập trung cải tạo. Được ra trại vào năm 1956,
con trai và
mẹ không còn nhìn nhận ra nhau, và cũng chẳng còn gì để nói với nhau.
Người con
chuyển cho mẹ mọi sự giận dữ về những đau khổ của chính mình.
“Hãy hỏi những người cùng thời với tôi,” Anna Akhmatova viết, trong
“Bài
thơ không có anh hùng/nhân vật”, “Và tôi sẽ nói cho anh hay/Làm thế nào
chúng tôi
sống trong nỗi sợ vô thức/Làm thế nào chúng tôi dạy dỗ những đứa con
cho tên đao
phủ/Cho nhà tù, và cho phòng tra tấn…”.
Với một lý do tốt lành, bà nói, “Tôi không
thường xuyên viếng thăm hồi nhớ/ và nó luôn luôn làm tôi kinh ngạc.”
Thật là một
điều khôn ngoan đối với bà, khi lắng nghe thật gần sự trưởng thành của
cây trường
xuân, và tự thuyết phục mình, “một người nhỏ bé nào đó đã quyết định
sống”.
Khi
Anna Akhmatova mất, người tưởng niệm bà xếp hàng dài qua những đường
phố phía bên
ngoài Hội Nhà Văn ở Moscow.
Đây là di chúc của bà:
“Tôi tin chắc
là, ngay cả bây giờ chúng ta không hoàn toàn hiểu bản đồng ca kỳ
diệu của
những thi sĩ mà chúng ta sở hữu, tiếng Nga thì trẻ trung và uyển
chuyển, chúng
ta chỉ mới bắt đầu làm thơ: chúng ta yêu nó và tin tưởng ở nó”
Người
ta nói bà luôn luôn bước, với bước dài, vững vàng, thanh thản. Người ta
nói, bà
chẳng bao giờ để cho mình bị đánh gục bởi những toan tính làm nhục bà.
Carlos
Fuentes
Bắc
Kít theo Gấu, chưa từng có thứ thơ này, thứ thơ làm nên một Osip
Mandelstam, một Anna Akhmatova. Bắc Kít chỉ có thơ "Cách Mạng" [lấy
mạng
người], xúi người ta
đi vô chỗ
chết, và thơ tán gái, thơ tìm… lá diêu bông, thí dụ, nhưng sợ Đảng
quá, thì
bèn phải lồng mùi máu vào trong đó, anh ở đầu Trường Sơn, đánh Mỹ Ngụy,
em ở cuối
Trường Sơn, lo tiếp tế..
Đừng
nghĩ là Gấu cường điệu, bạn thử tìm 1 bài thơ, chỉ 1 bài,
của đám thi sỡi Bắc Kít, ở ngoài cái
câu phán của Gấu.
Rekviem
(1935-40)
Requiem
Kinh Cầu
Anna Akhmatova
(Anna
Andreevna Gorenko)
(1889-1966)
Ở đỉnh cao của thời Khủng Bố
Stalin, nhà thơ Nga Anna Akhmatova -
đã là một tiếng nói mãnh liệt của thế hệ của bà - bắt đầu trước tác một
vòng
thơ tang mà bà gọi là Kinh Cầu.
Tuy luôn sống trong nguy hiểm, và bị cấm in
thơ, nhưng bà từ chối rời nước Nga. Kinh
Cầu được đọc thầm, từ tai người này
qua tai người khác, cho tới khi được xb tại Munich vào năm 1963, nhà
thơ không
biết điều này.
Tuy chỉ là kể lại những nỗi đau đớn cá nhân, tiếp theo sau cái
chết của chồng, và con trai bị cầm tù, nhưng đây là một trong những bài
thơ chứng
tích vĩ đại nhất của thế kỷ.
Nhà thơ Joseph Brodsky đã viết
về Kinh Cầu: "Ở vào một vài
giai đoạn của lịch sử, chỉ có thơ mới có thể chơi ngang ngửa với thực
tại, bằng
cách nhét chặt nó vào một cái gì mà nhân loại có thể nâng niu, hoặc
giấu diếm, ở
trong lòng bàn tay, một khi cái đầu chịu thua không thể nắm bắt được.
Theo
nghĩa đó, cả thế giới nâng niu bút hiệu Anna Akhmatova."
[Kinh Cầu được "Thư Viện Công Cộng
New York" coi là một
trong 100 tác phẩm của thế kỷ, bản in 1996. Trên đây là lời giới thiệu
của Thư
Viện nói trên]
It seems
that the voice we humans own
Will never
sound, never celebrate,
Only a wind
from the age of stone
Keeps on
knocking at the black gate.
And it seems
to me that under the sun
I alone
remain-this honor's mine,
Simply
because I was the first
Who wanted
to drink the deadly wine.
1917
Akhmatova
Có vẻ như cái thứ tiếng người mà chúng ta có
đó
Nó sẽ chẳng
bao giờ kêu lên
Chẳng bao giờ
ăn mừng
Chỉ là tiếng
gió từ thời kỳ đồ đá
Liên tục gõ
lên chiếc cổng đen
Và hình như
chỉ còn tôi, đơn độc dưới ánh mặt trời
Và đây là niềm
vinh quang của tôi
Giản dị, ấy
là vì tôi là người đầu tiên
Muốn uống ly
rượu độc
Plus heureux
que moi, vous vous êtes résignés à notre poussière natale.
Hạnh phúc
hơn ta, tụi mi đành ôm mớ bụi quê hương.
Vous avez,
en outre , la faculté de supporter tous les régimes, y compris les plus
rigides.
Ngoài ra, tụi
mi có tài, chế độ nào cũng bợ đít được hết, ngay cả thứ khốn kiếp nhất.
Ciroran: Sur
deux types de société [Về hai thứ xã hội]
trong Histoire
et Utopie [Lịch sử và Không tưởng]
Women
I believe in women. With sex.
With names. With biographies. With
experience. With destiny. The German Jewish philosopher Edith Stein
(1891-1942), a disciple of Edmund Husserl entered the Carmelite order
in 1933
to become Sister Benedicta of the Cross, yet she never renounced her
Jewish
roots. She declared that anti-Semitism was tantamount to "Christicide"
and in 1933, when Pope Pius XI declared that "the Church prays for the
Jewish people, bearers of the Revelation until the arrival of Christ,"
she
felt emboldened to ask his successor, Pius XII (Eugenio Pacelli), for
an
encyclical to protect the Jews. "Spiritually, we are all Jews," the
Jewish nun said to the pro-German pontifice. She received no response.
Pius XII
would not protect the Jews, and Edith Stein would be wrested from the
Church
and the protection it offered. Despite the fact that she was a nun, she
was
deported to the first concentration camp, Dachau. Who can ignore these
facts
when speaking of the destiny of women in history, our history? Edith
Stein died
in Auschwitz in 1942. Some time before, in her book Science of the
Cross,
she had said: "Reason divides us. Faith unites us." I had heard of
Edith Stein and began to read her work at a very young age, at
nineteen, thanks
to the ill-fated Mexican philosopher Jorge Portilla, a devotee of this
woman,
thinker, and martyr. The word martyr, etymologically speaking,
means witness.
Anna Akhmatova (1889-1966) was,
with the possible exception of
Osip Mandelstam, the greatest Russian poet of the twentieth century.
Men loved
her, but they did not understand her. They all admitted it, too: Anna
was
prouder and smarter than they were. Beneath her fragile appearance lay
an iron
will. Fragility and will gave wings to her marvelous poetry, which can
perhaps
be epitomized by a poem that fuses, in one earthly and eternal moment
of
recognition, writer and reader: "Our time on earth is fleeting, / The
appointed round constricting, / But he-the poet's unknown friend- / Is
devoted
and everlasting." This tremendous faith in poetry is Anna Akhmatova's
glory as well as her prison. Determined to forge her own path, free
from the
restrictions of Zhdanov and "socialist realism," she was vilified and
hounded by Stalin. The artful dictator saw in Akhmatova a double force,
a
dangerous and intolerable one. She was both a woman and a poet, one who
might
dispute a small parcel of his power. "I take from the left and from the
right .... And everything-from the silence of the night," she writes,
warning the tyrant lest he misunderstand that the chorus of poetry is
always
"on the other shore of hell.” In 1935 her poetry was banned by the
regime,
and she was labeled a "whore" and a "counterrevolutionary."
Her poems remain in the memories only of those people who read her in
time. But
war has a way of restoring honor and renown: her voice resonates with
the
deepest echoes of the Russian literary tradition and the resistance of
her
people. She has been deified. Too deified. The poems and speeches she
wrote in
defense of her city, Leningrad, under siege, have brought her renown,
ovations,
awards. And still, she knows that "like a vampire, an executioner will
always find a victim, otherwise he cannot survive." The executioner
waits
in the shadows. When the war ended, Stalin wondered if this brilliant,
independent woman did not deserve-as soon as possible-to be robbed of
the hope
that she had won her freedom through her contributions to the victory.
He
ordered her glory and her freedom to be seized. She lost her apartment
and her
income as a writer. She lived in squalor, cold and hungry. She scraped
by
thanks to the charity of her friends. And to remove any lingering
doubts as to
whether creative freedom does not come at the highest of prices, her
son was
sent to a concentration camp. Liberated in 1956, son and mother no
longer
recognized each other. They had nothing to say to each other. The son
transferred on to his mother all the rage of his own suffering. "Ask my
contemporaries," says Akhmatova in the great "Poem Without a
Hero," "And we will tell you / How we lived in unconscious fear, /
How we raised children for the executioner, / For prison and for the
torture
chamber .... " With good reason she says, "I don't often visit memory
/ and it always surprises me." It is far wiser for her to listen
closely
to the growth of the ivy and convince herself that "someone small has
decided to live." When Akhmatova died, the line of mourners outside the
Writers' House in Moscow stretched several blocks long. This is her
testament:
"I am sure that even now we do not entirely know the magic chorus of
poets
that we possess, that the Russian language is young and flexible, that
we only
just recently began writing verse: that we love it and believe in it
....
" They say she always walked with a firm, serene stride. They say that
she
never let herself be defeated by the attempts to humiliate her.
The German-Jewish philosopher
Simone Weil (1909-1943) was a
disciple of Alain and his mandate to rethink everything based on the
reading,
each year, of one philosopher and one poet, such as Plato and Homer.
Alain
claimed to be neither Communist nor socialist. "I belong to the eternal
Left, the Left that never exercises power, which by nature tends toward
abuse."
Not only did Simone Weil
rethink everything, she decided to turn
her thoughts into action, put them to the test on the street, at the
factory,
on the battlefield. As a student, she was known as the "Red Virgin"
and she manifested her leftist tendencies by going to work in a
factory,
fighting fascism in Spain, and, later on, rejecting the "patriotism of
the
Church" and the French Catholic voices that claimed: "Better Hitler
than the Popular Front." But Simone Weil also rejected Soviet Communism
once she learned of the Stalinist purges. And she made her convictions
known:
"Very soon, the true revolutionaries will come to be recognized because
they will be the only people who will not speak of revolution. Nothing,
in this
age, deserves such a name." And the more firmly she planted herself in
the
fields of labor and politics, the more attracted she felt to God, in
terms of
both gravity and grace. Nevertheless, she will always be a Christian
outside
the Church, which she believes to be a dogmatic, bureaucratic
structure. She
wants to be with God, to act freely. And she will be with God because
she is
convinced that "God did not create anything but love itself, and the
means
to love." God is real, Simone Weil tells us, because my love is not
imaginary. And for this reason she feels she is the master of her own
free
will. Her acceptance or rejection of God depends on her freedom. On
April 15,
1943, Simone Weil died of starvation in an English hospital. She was
prohibited
from joining the French resistance, and so she refused to consume more
than the
daily ration of a prisoner in a concentration camp, despite the fact
that
tuberculosis was eating her alive. All my life I have believed in
Simone Weil,
ever since I read her marvelous essay "The Iliad, Poem of Might," and
memorized the lessons that she draws from Homer: "the fact that nothing
is
sheltered from fate .... never admire might, or hate the enemy or
despise sufferers."
Carlos
Fuentes This I Believe, An A to Z of
Life
|
|