Đọc sách:TRẦN
LỆ XUÂN
Giấc Mộng
Chính Trường
Trần Lệ Xuân Giấc Mộng
Chính Trường là tựa đề cuốn sách dầy 290 trang của tác giả Lý Nhân bút
hiệu của
nhà báo Phan Thứ Lang do Nhà xuất bản Công An Nhân Dân Hà Nội phát hành
vào
tháng 6 năm 1999. Cuốn sách viết về Bà
Ngô Đình Nhu nhủ danh Trần Lệ Xuân, người đàn bà có vóc dáng và sức
quyến rũ của
một tài tử điện ảnh hơn là một người vợ năng động của Ông Ngô Đình Nhu,
cố vấn
chính trị của TT Ngô Đình Diệm. Bà Nhu
là người có nhiều liên hệ với những biến
chuyển và thăng trầm của Đệ Nhất Cộng Hoà VN. Bà Nhu là nạn nhân của
những đàm
tiếu vô luân. Bà Nhu là ngục sĩ của bọn thời cơ đón gió và Bà Nhu cũng
là cái
bia đỡ đạn của những người bất mãn hoặc được mua chuộc để chống đối. Cuối cùng thì Bà Nhu là người đã phải gánh
chịu
"một bể oan cừu" đắng cay tủi
hờn bên cạnh những hào quang quyền lực phù du ngắn ngủi.
"Nói về cách ăn mặc thì Lệ Xuân
cũng ăn mặc bình thường như những người đàn bà VN khác thôi. Nhưng sở dĩ Lệ Xuân bị người ta phê phán vì Lệ
Xuân là vợ Nhu, lại là em dâu của Tổng Thống Diệm." (Tr. 122) Người khen thì ca ngợi Bà Cố xinh đẹp duyên
dáng, thông minh tài giỏi. Kẻ chê thì chửi
rủa con mụ lăng loàn dâm đãng. Lịch sử vẫn chưa có những tiếng nói trung thực
cho một người đàn bà sa cơ thất thế muốn thực sự đứng ra ngoài lề của
những khổ
nhục trần ai nhưng vẫn không đạt được sở nguyện. Gần
bốn thập niên sau ngày Đệ Nhất Cộng Hoà
VN xụp đổ những ngọn giáo căm thù, những mũi tên đố kỵ và ganh ghét vẫn
còn
đang tới tấp phóng vào trái tim tan nát của người đàn bà đã bị những
đứa tay
sai của bọn "phiêu lưu chánh trị" dầy xéo thảm thương.
Trần Lệ Xuân sinh năm 1926 là con gái
thứ hai của luật sư Trần Văn Chương và bà Thân Thị Nam Trân. Năm 17
tuổi Lệ
Xuân đậu tú tài phần thứ nhất của Pháp và được gia đình gả cho Ông Ngô
Đình Nhu
hơn Lệ Xuân đến 16 tuổi. Ông Chương là bạn
vong niên của Ông Nhu và "phục Nhu giỏi vì trước đó chưa có người Việt
Nam
nào được nhận vào học ở trường Chartes, một trường danh tiếng nhất của
Pháp và
cả thế giới." (Tr. 11) Lệ Xuân kính
phục Ông Nhu là một học giả uyên bác và cũng là một chính trị gia lão
luyện. Từ lòng kính trọng chuyển sang tình
yêu hầu
như không có ranh giới và cô học sinh trung học nhỏ bé xinh tươi Lệ
Xuân dã trở
thành Bà Ngô Đình Nhu sau này được xưng tụng là Bà Cố và báo chí quốc
tế gọi là
Madame Nhu.
Sinh trưởng và lớn lên trong một gia
đình vọng tộc nói tiếng Pháp giỏi hơn tiếng Việt với lối sống phóng khoáng của một phụ nữ Âu Tây từ cách
suy diễn tư tưởng đến những hành xử thông thường nhưng Bà Nhu đã có đủ
thông
minh và sức chịu đựng để hoàn toàn lột xác làm dâu một gia đình quan
lại với
truyền thống nho phong đạo đức . Bà Nhu
đã mau lẹ thích nghi với nếp sống mới mặc dầu chỉ mới 17 tuổi nhưng đã
biết chu
toàn bổn phận của người vợ "lo toan tất cả cho chồng, từ bao thuốc lá
Job
xanh mỗi ngày cho đến tiền chợ." (Tr. 24).
Đối với đại gia đình nhà chồng bà Nhu cũng đã tỏ ra
mẫu mực và đảm đang
"Cái Tết năm 60 có lẽ là cái Tết cậu Út không vất vả, không phải la hét
gia nhân lo cơm nước như những năm trước vì đã có Lệ Xuân quán xuyến
tất cả."
(Tr. 119)
Mặc dù chưa học hết trung học nhưng lại
được ở gần một "bồ chữ" nên Bà Nhu đã hấp thụ và học hỏi được rất nhiều
từ ông chồng uyên thâm để sửa soạn bước ra sân khấu chính trị. Bà Nhu được nói đến như là người có những
quyết
định thông minh hợp thời hợp cảnh, cứng rắn và dứt khoát trong vụ Bình
Xuyên
năm 1954 và nhất là vụ đảo chánh 11-11-60, ai cũng thẩm định rằng nếu
Bà Nhu có
mặt ở dinh Gia Long vào ngày 1-11-63 thì sự việc đã không diễn ra như
vậy. Bà Nhu chính là một viên gạch lót
hoàn hảo để
điền khuyết vào những trống vắng và đòi hỏi lễ nghi ngoại giao mà vị
Tổng Thống
độc thân không có. Khi tiếp thu dinh Độc Lập "Diệm đã phải dùng một tấm
gỗ
làm phản để ngủ" (Tr. 67), sau này một tay bà Nhu dã trang hoàng lại
dinh
để tiếp khách và làm việc. "Vốn là
người có học, lại có khiếu thẩm mỹ nên bà ta đã đôn đốc gia nhân trang
trí toàn
bộ dinh Độc Lập " (Tr. 67) Bà Nhu
cũng thể hiện trọn vẹn vai trò của một "tiếp viên quốc gia" khi đươc
chính thức ủy thác tiếp đón phu nhân các vị lãnh đạo ngoại quốc đến
thăm
Sàigòn. Thông minh,duyên dáng và có sức
hấp dẫn lôi cuốn người đối diện Bà Nhu đã thu phục được cảm tình và sự
ủng hộ của
các vị lãnh đạo các quốc gia bạn mang về những thắng lợi ngoại giao rất
cần thiết
cho VNCH.
Bà Nhu làm chính trị nhưng lại bị
công kích nặng nề về những phát ngôn rất
vô chính trị. Đó là một
nhược điểm
to lớn của Bà Nhu và những người thù hằn ganh ghét bám vào đó như một
loại võ
khí duy nhất để tấn công. Bà Nhu tin tưởng
ở sứ mạng, thành tâm thiện ý của mình và đơn giản nghĩ là những người
khác tất
cả đều "đồng tình" như vậy.
Khi đưa dự luật gia đình và lành mạnh hoá xã hội ra
quốc hội Bà Nhu tin
chắc sẽ được tất cả các đồng viện nhất tề ủng hộ vì dự luật đó chỉ mang
phúc lợi
đến cho mọi người và đồng thời xây dựng một xã hội đạo đức lành mạnh
văn minh
tiến bộ. Nhưng Bà Nhu đã bàng hoàng đến
giận dữ khi phải trực diện với một số dân biểu chống đối mà những người
này tất
cả đều có một đời sống cá nhân bê bối không vợ nọ con kia thì cũng
nghiện
hút. Từ một phản ứng tự nhiên đối với
những
gian giảo ngoài tầm dự đoán Bà Nhu đã lập tức kết án tư cách của đám
người nghiện
hút vợ hai vợ ba này "thật hèn".
Phe chống đối làm dữ và văn phòng Bà Nhu đã phải ra
một thông cáo để sửa
hai chữ "thật hèn" thành "thất hẹn". Thật
là một giai thoại chữ nghĩa lý thú. Công
khai phê vào lý lịch cá nhân đám dân cử
nghiện ngập vợ này con kia hai chữ "thật hèn" cũng chẳng có gì gọi là
quá đáng. Ở vào những trường hợp khác Bà
Nhu cũng đã có những phản ứng mau lẹ thiếu chín chắn như vậy và đã trở
thành một
nguyên cớ cho những người thù hằn ganh ghét.
1- Những câu
chuyện của bọn lưu manh gian giảo.
Đối với một người đàn bà và đặc biệt
người đàn bà Việt Nam thì chữ tiết hạnh bao giờ cũng vẫn là một đề tài
để hoặc
là tán tụng hoặc là chê bai mạt sát. Bọn
người chống đối Đệ Nhất Cộng Hoà VN cũng đã biết lợi dụng cái quy luật
lễ nghĩa
đạo đức này và chúng cũng đã ngụy tạo ra được những câu chuyện vô cùng
tục tĩu
để bôi xấu Bà Nhu. Mặc dù ai cũng biết
đó chỉ là những câu chửi rủa của bọn côn đồ đầu đường xó chợ nhưng thực
tế đã tạo
được những xầm xì to nhỏ. Sau ngày
"cách mạng thành công" bọn khố xanh khố đỏ đã mang ra phòng thông tin
đô thành trưng bầy một cái ghế của thợ uốn tóc và chúng
gọi là cái ghế khoái lạc của Bà Nhu.
Đám đông hiếu kỳ bị lôi cuốn bởi những trò bịp
bợm lại không đủ bình tĩnh và sáng suốt để nhìn ra cái chân tướng của
bọn gian
manh và đám đông vụng về ham vui đó đã ít nhất có những giây phút đồng
loã với
bọn gian manh bịp bợm.
Bọn lưu manh đầu đường xó chợ đã được
thuê mướn phao tin TT Diệm có những liên hệ tình dục loạn luân với bà
Nhu. Đầu óc
rặt những phân và nước tiểu trong những thân xác
bệnh hoạn của các
"sử gia chân chính" đã ngụy tạo ra những chuyện bẩn thỉu dơ dáy nhất
mà chúng có thể nghĩ ra được chỉ để thoả mãn những thù hằn đê hèn vì
không được
làm bộ trưởng, vì không được đeo lon tướng...Tác giả Lý Nhân đã nói lên
sự thật
hiển nhiên và không có bất cứ một biện giải nào có thể đứng ra ngoài sự
thật
vĩnh cửu đó. "Vào đầu năm 1958, khi
chế độ Ngô Đình Diệm đang ở vào thời kỳ cực thịnh, một buổi tối, bà Nhu
bận đồ
ngủ, mặc áo choàng vào phòng ông Diệm để kiện cáo một vài chuyện lặt
vặt, ông
già Ẩn khép cửa đi ra...Bỗng ông Tổng Thống quát tháo ầm ĩ, bấm chuông
gọi ông Ẩn
và đại úy Bằng vào mắng vu vơ trước mặt bà Nhu.
Từ buổi đó, biết ý Diệm nên mỗi khi bà Nhu vào phòng
Tổng Thống thì ông Ẩn
hay một sĩ quan tùy viên phải có mặt."
(Tr.86) Nhiều người vỗ ngực xướng
danh
"chính trị gia" to mồm khoác lác từng trải, sành sõi , lão luyện thêu
dệt ra những huyền sử về những người mà trong thâm tâm họ rất mong có
được cơ hội hầu hạ phục dịch.
Không được vâng dạ sai bảo thì quay ra chống
đối một cách hèn hạ ngu xuẩn "Có người còn tỏ ra biết nhiều chuyện Ngô
cung bí sử đầy hấp dẫn mà hai nhân vật chính là anh chồng và cô em dâu. Sự thực, theo chỗ chúng tôi
biết được, đã không diễn ra như vậy,"
(Tr. 112)
Cũng có những tiếng đồn thổi Bà Nhu
có những liên hệ tình cảm tội lỗi với Trần
Văn Đôn. Tác giả Lý Nhân cũng phân giải
một cách rành rẽ đó chỉ là một bịa đặt nhơ nhớp của bọn cầm thú hèn hạ. "Lệ Xuân vì không ưa mấy ông tổng bộ trưởng,
lại khinh mấy tay tướng lãnh xuất thân từ lính khố xanh khố đỏ thời
Pháp thuộc
nên bà ta không thèm đứng nói chuyện, mà kéo tay chồng ra một góc nói
chuyện
riêng" (Tr. 118) Và để rõ ràng hơn, tác giả viết "Lệ Xuân ở trong
phòng nghe tiếng mấy viên tướng từ bỏ quốc tịch Pháp để đứng sau lưng
Diệm, bà
ta đã nói với chồng: Mấy tướng tá này phe nào mạnh theo phe đó, chúng
nó chẳng
trung thành với ai đâu, có ngày nó cũng thịt cả mình nếu nó có quyền,
có tiền
ai cho. Câu nói trên ám chỉ Trần Văn Đôn
và mấy tướng tá khác, vì vậy Đôn rất căm thù vợ chồng Nhu" (Tr. 59) Trong quyển Việt Nam Nhân Chứng, Trần Văn Đôn
đã minh thị xác nhận câu chuyện tình cảm bỉ ổi này không hề có. Như vậy đó chỉ là sản phẩm bẩn thỉu ngụy tạo
của bọn lưu manh ngu dốt tập tành học đòi làm chính trị và cũng biết
đâu với bản
tính gian giảo sẵn có chính "xừ lủy" là người đã ngụy tạo và thuê mướn
bọn đầu đường xó chợ làm cái công việc đốn mạt này.
2- Đệ Nhất Cộng
Hoà VN và Phật giáo
Công ơn của TT Ngô Đình Diệm đối với
Phât giáo VN đã được sử sách ghi nhận và chứng tích hãy còn đó, đầy rẫy
trên khắp
mọi nơi phía nam vĩ tuyến 17. Chỉ trong
vòng chín năm (1954-1963) đã có 1275 ngôi chùa mới được xây dựng và
hàng ngàn
ngôi chùa khác được trùng tu. Hệ thống
giáo dục trung tiểu học Bồ Đề được thành lập tại hầu hết các tỉnh thị. Các hội đoàn Phật giáo được chính quyền khuyến
khích và hỗ trợ hoàn chỉnh tổ chức và phát triển. "Giữa
Phật giáo và nhà Ngô cho tới lúc ấy
(6/1963) còn có sự giao hảo và có thể
nói là ưu đãi nữa. Lễ Phật Đản được tổ
chức rất lớn, năm 1961 làm tại công trường Mê Linh bến Bạch Đằng, năm
1962 tại
chùa Xá Lợi, tới tháng 3 năm 1963 khánh thành Phật đài tại Bãi Dâu Vũng
Tầu, cờ
Phật giáo treo la liệt từ ngoài đường vào chùa không ai nói gì, chính
phủ còn
trợ cấp thêm tài chánh để tổ chức cho trọng thể " (Tr. 170).
Một lỗi lầm hành chánh của chính quyền
về việc treo cờ tôn giáo không phải là lý do để "tranh đấu" nhưng bọn
CIA và cộng sản đã quỷ quyệt lợi dụng lỗi lầm này để tiến hành những
mưu mô côn
đồ dã man nhất trong công tác triệt hạ Đệ Nhất Cộng Hoà VN. "Hàng ngày hai đài VOA và BBC cứ loan
tin và còn thổi phồng vụ đàn áp Phật giáo lên để dư luận thế giới theo
dõi" (Tr. 191). Trước
khi bọn phản loạn tấn công dinh Gia
Long thì các cơ quan truyền thông quốc tế dưới sự hướng dẫn và điều
động của
CIA đã bắn những quả đạn ngàn cân vào thành trì của tiền đồn chống Cộng. Đám con buôn quốc tế mà Bà Nhu gọi là những
tên "phiêu lưu chánh trị" đã mang tiền ra mua chuộc bọn cộng sản và
những đứa tay sai địa phương để thanh thoả lợi lộc cá nhân và phe nhóm. Cờ Phật giáo đã được bọn sư hổ mang dùng
như
một phương tiện để tranh đấu nhưng ba năm sau cũng bọn người này đã
hoàn toàn
thất bại và bị nguyền rủa thậm tệ khi mang bàn thờ Đức Thích Ca ra
ngoài đường
để bên cạnh những cống rãnh rác rưởi, vì chúng đã không có được sự yêu
cầu của
CIA và bọn cộng sản lại chưa sẵn sàng.
Chính quyền Đệ Nhất Cộng Hoá VN nếu
không được xem như là đã ưu đãi Phật giáo thì chính quyền ấy cũng chưa
hề có tì
vết ngược đãi Phật giáo. Vì khiếp sợ
bộ
áo cà sa khoác trên mình một tên cộng sản nên Nguyễn Khánh đã ra lệnh
hành quyết
Ông Ngô Đình Cẩn nhưng cánh cửa chùa Phổ Quang đã hoan hỉ mở ra để đón
nhận
thân xác phàm trần của Ông Cẩn dưới bóng từ bi nhà Phật.
Ông Cẩn là kẻ thù không đội trời chung với bọn
cán bộ cộng sản mặc áo cà sa. Ông Cẩn là
nạn nhân của những tên "phiêu lưu chính trị" lợi dụng tôn giáo để trục
lợi nhưng Ông Cẩn là ân nhân của Phật giáo Việt Nam.
Các vị chân tu và những phật tử thuần thành
đã không quên ơn Ông Cẩn, một người đã có những giao hảo tốt đẹp và
những hành
động tích cực trong việc tổ chức và phát triển đạo Phật.
Thân xác Ông Cẩn đã bị bọn gian manh lật lọng
hãm hại nhưng anh linh Ông Cẩn, một con chiên Công Giáo ngoan đạo, lại
được bao
bọc chở che bằng ánh đạo vàng của Phật Tổ.
3- Bà Nhu
kinh tài
Có quá nhiều lơi đồn đại về những hoạt
động thương mại bất chính của Bà Nhu, nhiều "sử gia" quả quyết Bà Nhu
có 18 tỷ mỹ kim ở ngân hàng Thụy Sĩ, vài cái thương xá nhộn nhịp xầm
uất ở
trung tâm thủ đô Paris và một đồn điền mấy ngàn mẫu cà phê ở Ba Tây. Trong nước thì cái gì cũng của Bà Nhu. Cây xăng của Bà Nhu. Xe
tắc xi của Bà Nhu. Hãng bột ngọt của Bà
Nhu. Đất của Bà Nhu...
Tác giả Lý Nhân đã có một cái nhìn chính xác
về những lời đồn đãi vô lối này. "Chung quanh bà ta thì lại không thiếu
những
kẻ dựa hơi bà Cố để loè bịp mọi người, nào là lập công ty này, công ty
nọ thậm
chí cả công ty phân bón, vệ sinh cũng được khai là của bà Nhu" (Tr.
127) Và để giải bầy một cách khách quan
và trung thực hơn, tác giả đã dùng tài liệu của Ông Huỳnh Văn Lang cựu
Tổng
Giám đốc Ngân Khố "vì bất mãn với Nhu mà bỏ đi ngoại quốc" (Tr.272)
như sau "Người ta cũng thường kháo nhau về những chuyện làm tiền của bà
Nhu. Tôi có thể quả quyết những lời đồn
đại như thế đều hoàn toàn thất thiệt. Có
lúc người ta bảo nào ô tô buýt của bà, công ty đường của bà, Vinatexco
cũng của
bà nốt, ngoài ra, bà còn độc quyền than củi vé số...
Những doanh nghiệp mà mọi người ở trong chánh
phủ đều biết rõ ràng là thuộc về ai. Tôi
chắc không thiếu những kẻ lưu manh muốn doanh nghiệp của mình được mọi
dễ dàng
đối với chính quyền hoặc được quần chúng quan tâm, thường tự phóng tin
cho rằng
cơ sở của họ là ông này bà kia hoặc là có sự hùn hạp của các nhân vật
tai to mặt
lớn. Suốt chín, mười năm
tôi có trách nhiệm trong giới kinh tế, tiền
tệ trong nước, tôi không bao giờ thấy có một cơ sở kinh tế nào của bà
Nhu hoặc
có các phần hùn của bà." (Tr. 273)
Đến bây giờ thì mọi người đều đã biết
Bà Nhu chẳng có gì và cũng không ai có thể trưng ra được một bằng chứng
Bà Nhu
có của chìm của nổi ở ngoại quốc. Những
năm đầu của kiếp lưu vong Bà Nhu và các con sống rất chật vật được gửi
gấm ở nhờ
gia đình một vị Bá Tước người Ý ở La Mã.
Sau này mua được một căn nhà nhỏ bé ở Paris cũng do
tiền tặng dữ gián tiếp
của một người hảo tâm giầu có. Bây giờ
các con đã thành đạt Bà Nhu hiện có một cuộc sống vật chất thoải mái
như đại đa
số các gia đình Việt Nam ở Pháp chứ cũng chẳng dư dả gì.
4- Luật Bà
Nhu
Đạo luật gia đình và lành mạnh hoá
xã hội "thực sự do một số dân biểu như Nguyễn Phương Thiệp, Lại Tư và
một
số luật gia khác soạn thảo rồi Lệ Xuân góp ý sửa đổi thêm bớt vào" (Tr.
134) vẫn được gọi là "luật Bà Nhu."
Nói chung đạo luật này đề cao giá trị đạo đức gia
đình, tôn trọng nhân
phẩm và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.
Đạo luật này cũng dự trù những biện pháp kiểm soát
và ngăn ngừa các tệ
đoan xã hội. Đó là một đạo luật rất tiến
bộ nhằm xoá bỏ những hủ tục , xây dựng nền tảng gia đình theo quan niệm
đạo đức
dân tộc và nhất là xác định vị trí và vai trò của người phụ nữ trong
gia đình
cũng như ngoài xã hội. Những
người kém
văn hoá lại không có một ý niệm căn bản luật học kết tội Bà Nhu đưa ra
đạo luật
này để ngăn chận luật sư Nguyễn Hữu Châu có ý định ly dị người chị ruột
của Bà
Nhu là Trần Lệ Chi. Đó là một lối lập luận gian trá ngu xuẩn. Luật sư Nguyễn Hữu Châu là một
luật gia thời danh, nếu muốn ly dị vợ Ông có
đủ trăm phương ngàn kế thực hiện ý muốn.
Những người chống báng "luật Bà Nhu" là bọn người vợ
nọ con
kia, bọn chứa thổ đổ hồ và đám người có một cuộc sống vô vọng. Những người ăn ở lương thiện đàng hoàng tử tế
không ai ta thán "luật Bà Nhu" nhưng lại hết lòng ủng hộ.
Bà Nhu đã đứng cạnh những người phụ nữ chân yếu
tay mềm tranh đấu cho một xã hội công bằng hạnh phúc và văn minh. Người phụ nữ phải được kính trọng và có chỗ
đứng
xứng đáng trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Đời sống của nhân dân phải phù hợp với hiện trạng
văn hoá, chính trị va
kinh tế trong nước. Quốc gia đang ở
trong thời chiến không có lý gì một đám thiểu số nhởn nhơ hút sách nhẩy
nhót trong
lúc người chiến binh đang từng giây phút đối diện với tử thần và vợ con
họ đang
vất vả ngược xuôi kiếm miếng ăn hàng ngày.
Người chiến sĩ tiền phong Trần Lệ Xuân đã can đảm
đứng lên giải phóng phụ nữ ra cái vòng đầy
đọa vì hủ tục, vì giai cấp và người chiến
sĩ này có ước vọng biến cải xã hội VN trở
nên văn
minh lành mạnh để đổi mới một xã hội đã quá bầm dập vì những năm tháng
sa đọa
vì chính sách thực dân của ngoại bang và những phó sản còn rơi rớt lại.
5- Một chuyện
tình thăng hoa.
Quyển sách cũng viết về một chuyện
tình thánh thiện và đẹp như thiên đàng của cậu ấm Ngô Đình Diệm và tiểu
thư
Trang Đài con gái út Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài (Tr.89-94).
Chàng và nàng đã gặp nhau vài lần ở sân nhà
thờ Phủ Cam, chỉ có lời thăm hỏi và chưa một lần nói tiếng yêu nhưng
"Tình
trong như đã mặt ngoài còn e."
Gia đình Cụ Nguyễn Hữu Bài rất vui lòng và tiểu thư
Trang Đài cũng mộng
mơ. Khi được biết cậu ấm Diệm đã thề hứa
với Chúa giữ cuộc sống độc thân để hy sinh trọn đời cho dân cho nước
thì tiểu
thư Trang Đài cũng từ giã tuổi hoa niên dâng mình cho Chúa sống cuộc
đời tu trì
trong dòng kín. Người đời đã tốn bao
nhiêu giấy mực để ca tụng những chuyện tình cao đẹp nhưng có chuyện
tình nào
cao hơn và đẹp hơn chuyện tình của cậu ấm Diệm và tiểu thư Trang Đài.
Tác giả Lý Nhân có thể là một cán bộ
cộng sản, một loại cán bộ chính quy hay một thứ ăn theo 30 tháng 4. Ông cũng có thể là một trong những "ngụy"
bị kẹt lại. Nhưng dù ở bất cứ một vị thế
nào Ông cũng đã giữ cho ngòi bút của mình luôn được rành mạch nghiêm
túc. Mặc dù quyển sách cũng có những chi
tiết thiếu
khách quan vì không được kiểm chứng một cách tường tận do thiếu phương
tiện. Độc giả có cảm tưởng như tác giả Lý
Nhân đã
đóng vai trò của một luật sư biện hộ cho Bà Nhu trước toà án lịch sử và
Ông đã
hoàn thành bổn phận của mình một cách đáng trân trọng.
Tổ chức công an trị của Hà Nội có một Ủy Ban
Tư Tưởng đứng ngang hàng với Bộ Chính Trị và những người làm thơ viết
văn cũng
đã mặc nhiên ký một khế ước với nhà nước tuân thủ mọi đường hướng mệnh
lệnh
trong công tác vận động và hướng dẫn tư tưởng người dân.
Chỉ cần một câu văn hay một từ đi ra ngoài đường
lối chính sách của nhà nước cũng đủ cho người viết lên đường đi cải tạo
hay vào
ngồi trong nhà tù. Vấn đề đặt ra là quyển
sách đã đi qua nhiều bộ phận kiểm duyệt rất cẩn thận và quyết đoán của
nhà nước
Cộng Sản và lại đươc một cơ quan của bộ máy công an ở Hà Nội xuất bản
đã đặt ra
một câu hỏi to lớn cho người đọc. Câu trả lời có vẻ giản dị nhưng lại
là một
chân lý: Dưới ánh sáng mặt trời sự thật bao giờ cũng là sự thật và ngay
cả người
Cộng Sản cũng không thể nào chối bỏ sư thật.
Ngày 12 tháng 9 năm 1963 trước khi
lên đường đi Nam Tư dự hội nghị Liên hiệp Nghị sĩ quốc tế Bà Nhu đã nói
với những
người đưa tiễn "chúng ta có thể bị người hủ lậu chỉ trích nhưng nhất
định
chúng ta không bị khinh bỉ." (Tr. 210)
Những người chống bác hiềm khích Bà Nhu quanh quẩn
cũng chỉ mấy anh khố
xanh khố đỏ thiếu văn hoá, một anh cán binh cộng sản Bắc Việt hồi chánh
chưa học
hết lớp ba trường làng được một tờ báo chợ ở Seattle xưng tụng là đại
bình luận
gia và một anh phu đồn điền cao su mới chỉ đọc thông viết thạo ở San
Diego. Khối đại đa số những người Việt
thầm lặng với một lương tâm ngay lành và trí tuệ an bình vẫn luôn dành
cho Bà
Nhu lòng quí mến trọng vọng và đó là chỗ đứng đích thực của Bà Nhu
trong lịch sử.
Trương Phú
Thứ