|
Pour saluer Semprun
Jorge
Semprún, Who Blurred Line Between Novel and Memoir, Is Dead at 87
“You ask
what haunts my writing,” Mr. Semprún said in 2007. “Well, after the
camp there
was the moral question of being a Communist. Trying to explain the
folly and
the necessity of that choice. Trying to show how it came to be my
raison
d’être, and why this dead star hovered for so long above the previous
century.
Here are my obsessions, in no particular order: torture, the camps, the
Jewish
experience during the Holocaust, the singularity of that experience in
the
larger context of deportation. It is not easy to reflect on these
issues today.
Historically, the most significant pitfall has been the most dangerous
—
silence, the refusal to talk about what happened.”
“Ông hỏi, cái
gì ám ảnh cái viết của tôi”. “Sau trại tù thì lòi ra câu hỏi đạo đức về
cái
chuyện là 1 tên CS. Cố gắng giải thích sự khùng điên và sự cần thiết
của chọn lựa
đó. Cố chứng tỏ, bằng cách nào một bữa đẹp trời nó biến thành lý do
hiện hữu, và
tại làm sao ngôi sao chết lại lửng lơ lâu đến như thế trên thế kỷ vừa
qua. Ðây
là những ám ảnh của tôi, không theo một trật tự đặc biệt nào: tra tấn,
trại tù,
kinh nghiệm Do Thái trong thời kỳ Lò Thiêu. Tính đặc thù của kinh
nghiệm này ở
trong một nội dung rộng lớn hơn là tống xuất. Không dễ dàng suy nghiệm
những đề
tài này vào những ngày này. Nói theo tính cách lịch sử, cạm bẫy ý nghĩa
nhất thì
nguy hiểm nhất – im lặng, chối từ không nói về những gì xẩy ra”.
C'est la mort de Primo
Levi qui est à l'origine de
L'Écriture ou la Vie , n'est-ce pas ?
Oui. Primo Levi était un
de ceux qui semblait avoir le
mieux assumé la mémoire de la mort. Il avait acquis une certaine
sérénité,
était revenu à la fin de sa vie avec un livre qui n'était pas un roman
mais un
essai d'ordre sociologique. Et puis un jour, il se suicide. Je peux
très bien
imaginer ce qui se passe alors. Nous sommes un 11 avril. Le mois
d'avril est en
Europe le mois des commémorations liées à la déportation. Cette mémoire
dominée, maîtrisée, assagie, éclate de nouveau. Ce retour du printemps
est
toujours très angoissant pour l'être humain en général et pour le
déporté en
particulier. Quel mois terrible et terrifiant, cela fait trois ans à
peine
qu'il est devenu à mes yeux un mois comme les autres...
L'effroyable leçon des
camps n'est-elle pas de
constater que la liberté de l'homme, c'est de pouvoir faire tout le
Bien et
tout le Mal ?
Absolument. La grande
leçon spirituelle, métaphysique,
philosophique, c'est que le Bien et le Mal sont ancrés dans l'homme
parce qu'il
est libre. La théologie catholique a eu beaucoup de mal à se sortir de
cette
question. Elle a inventé la ligne du Bien qui conduit à Dieu et la
ligne du Mal
qui est celle de la liberté humaine. La théologie catholique prend des
risques
énormes, car si la seule fois où l'homme est libre, c'est-à-dire peut
se
détacher de Dieu, c'est pour faire le mal, voilà qui ouvre à une
théologie du Mal
extrêmement dangereuse. Or on est obligé d'accepter cette réalité. On
ne peut
exiger la disparition de la pulsion de Mal. Tout juste peut-on
construire des
barrières efficaces, des schémas de droits, d'obligations et de
contraintes
sociales pour que prévale la capacité du Bien. Sans pour autant vouloir
construire un homme nouveau, synonyme d'utopie sanguinaire et
sanglante. L'homme
nouveau est toujours un
monstre.
Source
Cái chết của
Primo Levi là nguồn của cuốn Viết hay Ðời?
Ðúng thế. Primo
Levi có vẻ như là nhà văn bảnh nhất
trong cái việc “cưu mang” hồi ức của cái chết. Ông viết về nó, một cách
thanh
thản, cuối đời lại ban cho đời 1 cuốn sách, không phải tiểu thuyết mà
một tiểu
luận xã hội. Thế rồi 1 ngày đẹp trời ông tự tử. Tôi thật sự nghĩ mình
hiểu được,
và tưởng tượng ra được điều gì khiến ông làm như thế. Chúng tôi ở vào
cái ngày
30, ấy chết xin lỗi, 11, Tháng Tư. Tháng Tư là cái tháng chết tiệt
không phải
chỉ ở nước Mít mà ở toàn Âu Châu, tháng tưởng niệm tống xuất. Cái hồi
ức này, được
kìm giữ, lại bật tung ra. Sự trở lại của Tháng Tư luôn luôn là 1 nhức
nhối đau
thương, không chỉ cho loài người mà còn cho riêng từng kẻ bị tống xuất.
Thật khủng
khiếp, thật kinh sợ, riêng tôi phải mất 3 năm thì mới chịu nổi nó.
Bài học ghê
rợn về trại tù phải chăng là từ nó, con người suy nghiệm ra chân lý: tự
do của
con người, đó là khả năng làm tới chỉ, cả hai thứ, Cái Thiện và Cái Ác?
Ðúng tuyệt đối.
Bài học lớn tinh thần, siêu hình, triết học, đó là Thiện
và Ác thì cắm rễ ở trong con người bởi là vì nó tự do.
Thần học Ky Tô nhức nhối khi đụng vô câu hỏi này, và
nhức nhối, làm sao thoát khỏi. Nó phịa ra hai dòng, dòng Thiện đưa đến
Chúa, và
dòng Ác là dòng của sự tự do của con người. Thần học Ky Tô ôm vào nó đủ
thứ rủi
ro, ấy là bởi vì, một khi con người tự do một cái, là nó vờ Chúa, nếu
Chúa
làm quá, thì làm thịt Chúa luôn, để làm điều Ác, từ đó mở ra con đường,
hay lý
thuyết thần học về Cái Ác Tuyệt Ðối, cực kỳ nguy hiểm.
Chúng ta bắt buộc phải chấp nhận thực tại này. Chúng
ta không thể nào đòi hỏi phải khu trục đến tận triệt để Cái Ác, 1 tiếng
« cà
rựt », của nó, cũng không. Người ta có thể xây dựng thành lập
những rào cản
hiệu quả, nhưng phương án, đồ án về quyền lợi, bổn phận, và những cưỡng
chế xã
hội, để làm bốc lên Mùi Thiện. Nhưng, chớ bao giờ có cái ham muốn thay
mặt Chúa,
tạo ra một con người mới, sặc mùi không tưởng, sặc mùi máu, sặc mùi VC
quốc tế!
Bởi vì thứ con người mới mà Bác H mơ tưởng đó, là 1 Con Quỉ.
Luôn luôn là như vậy
Pour saluer Semprun
La première
est de Maurice Blanchot : « Qui veut
se souvenir doit se confier à l’oubli, à
ce risque qu’est l’oubli absolu et à ce beau hasard que devient alors
le
souvenir ».
[Kẻ nào muốn
nhớ là phải “bán mình” cho lãng quên, cho rủi ro chẳng nhớ 1 tí chó gì
về em hết,
và cho nỗi tình cờ tuyệt vời, chính cái này sẽ trở thành kỷ niệm để
đời, "không
nàm sao quên lổi"]
La seconde
est d’André Malraux : « … je cherche
la région cruciale de l’âme où le Mal
absolu s’oppose à la fraternité ».
Người nào mong mỏi hoài
nhớ chắc hẳn đã tin
rằng có lãng quên, tin rằng có sự rủi ro tiếp đó là sẽ quên tuốt tuột,
và chính
từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này mà kỷ niệm được hình thành.
Người ta biết
rằng sẽ quên, không chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng nhớ thành
ký ức, để
sau này khỏi quên đó mà .
K
I seek the
crucial region of the soul where absolute Evil and fraternity clash.
-Andre
Malraux
Tôi tìm vùng
chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và tình anh em đụng độ
Có Ðức Ông “Don”
Quichotte trong Jorge Semprun, vừa mới mất, 87 tuổi. Nhưng 1 Don được
những cơn hỗn mang của thế kỷ 20 đẽo gọt, tạo dáng. Ông là đứa con trai
của chiến tranh. Từ đầu đến
chân, ngửi chỗ nào cũng có mùi chiến tranh. Và thế là ông không làm sao
ra khỏi.
Như thể, lúc nào ông cũng cà khịa với 1 kẻ nào đó, hay 1 điều gì đó. Ba
cuộc
chiến quần ông nát bấy người, chúng biến thành gia tài của… riêng ông:
cuộc chiến
Tây Ban Nha, vũ trụ trại tập trung Nazi, và hoạt động bí mật dưới cờ VC
quốc tế
cho tới năm 1964.
Gấu
mua cuốn trên lâu lắm rồi, từ cái hồi còn cái tiệm Britnell nổi tiếng
nhất, lâu
đời nhất, của Toronto, kế bên thư viện hách nhất thành phố, Toronto Reference Library, cũng
là thư viện đầu tiên Gấu tới thăm, liền sau khi tái định cư một, hai
bữa, khi
còn ở trung tâm tiếp nhận người tị nạn, nơi gặp lại cô bạn lần đầu
tiên, sau
bao ngày xa cách, kể từ khi cô lấy chồng, thì cứ nói như thế cho tiện
việc sổ
sách.
Văn chương hay Cuộc đời. Bị cái tít, như “tường lửa
ngăn chặn”, Gấu cứ nghĩ đây là 1 cuốn tiểu luận, cho đến bữa nay, tình
cờ vớ
được nó, trong đống sách ngổn ngang do dọn nhà, giở ra đọc,
quá
tuyệt, vì được viết theo cái kiểu hồi tưởng, giai thoại, về
những
ngày ở Lò Thiêu.
Chương
9, "Ô Saisons, Ô Châtaux.." viết về Milena, và Thư gửi Milena,
của Kafka, đọc thật cảm động. Có thể nói, chương nào cũng như thế. Cứ
như thể,
đây là món quà của 30 Tháng Tư năm nay, của bao nhiêu người đã chết,
gửi nhắn
lại.
Sự
run rủi tuyệt vời từ đó phát sinh kỷ niệm.
Tks.
NQT
Il y
avait du Quichotte en Jorge Semprun qui
vient de mourir à 87 ans. Mais un Quichotte façonné par le chaos du
XXème siècle.
Il était l’enfant de la guerre. Elle l’a fait de pied en cap. Il n’en
est
jamais sorti. Tant et si bien qu’il semblait toujours en guerre contre
quelqu’un ou quel chose. Trois guerres si intériorisées qu’elles en
étaient
devenues personnelles : la guerre civile espagnole, l’univers
concentrationnaire à Buchenwald, l’activisme communiste
dans la clandestinité jusqu’à ce qu’en 1964,
Santiago Carillo ne fasse exclure « Federico Sanchez » (son pseudonyme)
du PCE pour
divergences sur l'attitude à adopter vis à vis du pouvoir franquiste.
Quelques
mois avant, il avait publié Le Grand voyage, le premier de ses grands
livres,
analyse sensible et lucide des totalitarismes. Mais c’est dans
l’écriture de
scénarii, de dialogues et d’adaptation pour Resnais (La guerre est
finie) et
Costa-Gavras (Z, L’aveu, Etat de siège) qui s’est véritablement purgé
non de
ses illusions, mais de ses certitudes. Il y aura d’autres livres,
Netchaïev est
de retour, Adieu, vive clarté, Quel beau dimanche !, La deuxième mort
de Ramon Mercader
et surtout L’écriture ou la vie. S’il n’y en avait qu’un à emporter, ou
si l’on
n’a jamais lu Semprun, c’est par ce dernier qu’il faut commencer car il
y est
entièrement, jusque dans ses contradictions. Il suffit de citer les
deux
réflexions qu’il y avait placées en épigraphe tant elles éclairent son
projet
d’exorcisation de la mort par l’écriture quand bien même écrire
renverrait à la
mort.
La première
est de Maurice Blanchot : « Qui veut se
souvenir doit se confier à l’oubli, à ce risque qu’est l’oubli absolu
et à ce
beau hasard que devient alors le souvenir ».
La seconde
est d’André Malraux : « … je cherche la région cruciale de l’âme où le
Mal
absolu s’oppose à la fraternité ».
La vie même
de ce séduisant séducteur, devenu l’archétype de l’intellectuel
européen marqué
par l’esprit de combat, fut romanesque. Revenu en Espagne à l’appel du
chef du
gouvernement Felipe Gonzalez, le ministre de la Culture laissa un
souvenir pour
le moins contrasté. Trop individualiste, trop brutal dans son
franc-parler,
trop anticommuniste, trop critique. Il recouvra vraiment sa liberté en
rendant
ses habits de ministre au bout de trois ans. (c’est l’un des aspects
abordés
par les multiples hommages qui lui sont rendus ce matin dans El Pais).
Il était
une « grande conscience » qui se distinguait aussi par sa manière
d’incarner
l’esprit de résistance. Non dans l’indignation sous le coup de
l’émotion, mais
dans la réflexion et l’analyse. Comme si le Français et l’Allemand en
lui
réfrénaient les ardeurs de l’Espagnol, la mémoire demeurant le fil de
ses
identités multiples (voir le passionnant entretien accordé à
nonfiction.fr). La
patrie de ce cosmopolite (beau mot dès lors qu’on n’en fait pas une
insulte et
que de tels hommes l’incarnent), ce n’était pas sa langue mais son
langage, où
il logeait toute communication quelqu'en soit le support. Le français
était
celle de l’écriture, l’allemand celle de la réflexion, l’espagnol celle
de la
sensibilité, et tout cela fait un excellent européen qui n’écrivait
jamais sans
interroger le langage à l’œuvre derrière la langue. Sans la
littérature,
Jorge/"Georges" Semprun n’eut été qu’un grand témoin de l’Histoire.
Elle lui a permis de transcender les évènements pour les faire accéder
à une
toute autre dimension. Ainsi fut-il de la poignée d'hommes rares qui
nous ont
ouvert les yeux. Fervent défenseur des Bienveillantes de Jonathan
Littell, le
juré Goncourt appelait de ses vœux une appropriation de l’univers
concentrationnaire par une jeune génération de romanciers qui oseraient
enfin
ce que leurs prédécesseurs s’étaient défendus : « Car seule la
littérature peut
dire la vérité de ce que nous y avons vécu ».
On lui
souhaite de creuser sa tombe au creux des nuages. Nul doute qu’il y
transporte
le chêne de Goethe enraciné à Weimar, tout près de Buchenwald. Quand on
y a été
à 20 ans, on a choisi son camp pour la vie et au-delà. Jorge Semprun a
fini par
déposer les armes. Pour lui, la guerre est vraiment finie.
("Jorge
Semprun, 1923-2011", photo Daniel Mordzinski)
PA
|