Văn Quang –
Viết từ Sài Gòn
Nhà thơ Tô
Kiều Ngân
từ đời lính
đến Tao Đàn
Lâu lắm rồi,
tôi không gặp anh Tô Kiều Ngân, mặc dù chúng tôi cùng ở chung một thành
phố Sài
Gòn. Được tin anh từ trần vào ngày 20-10 vừa qua khiến tôi ngỡ ngàng.
Sau khi
xác nhận, tôi gọi điện thoại cho Huy Sơn ở Mỹ trước tiên vì Huy Sơn và
Tô Kiều
Ngân cùng tôi từng có thời gian dài cùng làm việc trong tòa soạn 3 tờ
báo của
Quân Đội là Bán nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa, Nguyệt san Phụng Sự và
tuần báo
Thông Tin Chiến Sĩ.
Sau này Huy
Sơn được chuyển sang Bộ Tư Lệnh Không Quân làm tờ báo Lý Tưởng với
Hoàng Song
Liêm. Huy Sơn, sau khi ở tù cải tạo ra, đi Mỹ theo diện HO.
Tô Kiều Ngân
và tôi không đi theo diện HO, mỗi người có một lý do riêng. Tô Kiều
Ngân ở lại,
có gia đình vợ con, có nhà cửa đàng hoàng. Còn tôi lông bông ở trọ, ở
chui hết
trong chợ Bàn Cờ đến Trương Minh Giảng rồi đến chợ An Đông, cuối cùng
về cái
chung cư Nguyễn Thiện Thuật và là “dân ABC đi ở thuê” với bốn năm cái
“không”.
Vợ con đi tuốt hết nên trở thành độc thân thứ thiệt, không đồng xu dính
túi,
không bạn bè, không nghề ngỗng gì mặc dù qua 12 năm, 2 tháng 26 ngày ở
“trại cải
tạo”, tôi trồng rau muống rất giỏi. Khối đội phải nhờ tôi đến gieo hạt
rau muống
cho khu ruộng mới. Tôi gieo hạt đều lắm và… có tay nên ruộng nào cũng
tốt. Thế
mà về Sài Gòn thất nghiệp nặng. Tôi cứ nhìn mấy cài hè phố mới được đào
xới lên
để lát gạch mới, và ước ao rằng chỗ đó cho tôi trồng rau muống thì
thành phố
không thiếu rau. Cái ước mơ thật ngu xuẩn, vậy mà khi còn ở trong cái
gọi là
“trại cải tạo”, đôi khi tôi lại cho điều đó có thể thành sự thật! Bởi
12 năm,
người ta dạy chúng tôi được có thế thôi và thành phố vào những năm đó
toàn dép
lốp, nón cối làm chuẩn thì việc trồng rau ở hè phố gọi là “tăng gia sản
xuất”
cũng có thể được lắm chứ. Hè phố là một sự “lãng phí của bọn tư sản”. Ý
nghĩ
chưa hẳn là hoàn toàn ngu xuẩn.
Tôi không rõ
anh Tô Kiều Ngân được tha về năm nào và cũng không biết anh ở đâu. Cái
ngõ Phan
Văn Trị, nơi anh ở trước kia, tôi có đến một hai lần, nhưng không chắc
anh còn ở
đó không. Sau này tôi mới biết tin anh ở mạn Bình Thạnh và rất ít khi
lên trung
tâm thành phố gặp bạn bè. Anh có những
nơi vui chơi riêng ở miền “ngoại ô”. Cho đến khi vợ chồng anh Trần
Thiện Hiệp tổ
chức kỷ niệm lễ thành hôn vàng bạc 40 hay 50 năm gì đó, khoảng năm
2007-2008 tôi
mới gặp lại Tô Kiều Ngân. Anh có vẻ khỏe mạnh hơn lần cuối chúng tôi
gặp nhau
trong “trại cải tạo” ở Sơn La, vào khoảng năm 1977-78.
Mừng cho người chết trong
nhà tù “cải
tạo”
Anh Tô Kiều
Ngân không ở cùng trại tù với tôi, anh đi “lao động” bị ngã gãy tay,
phải đưa về
trạm xá gần trại giam tôi ở từ năm 1976 khi được đưa ra Sơn La “học
tập”. Dịp
đó, nhạc sĩ Thục Vũ, tên thật là Vũ Văn Sâm, ở cùng đội trồng rau với
tôi, anh
bị đau gan đến vàng mắt. Ban đầu còn được ở lại trại, không phải đi lao
động.
Tôi có nhiệm vụ “thó” một ít rau sống, cung cấp cho anh hàng ngày.
Nhưng khi bệnh
tình quá nặng, Thục Vũ được đưa sang bệnh xá. Nói là bệnh xá, chứ ở đây
cũng chẳng
có thuốc men gì chữa chạy cho bệnh nhân. Thậm chí mỗi lần lên khám bệnh
xong,
anh y tá bôi cho tí dầu cù là vào tay rồi bảo về uống đi hoặc nằm ngửa
cổ ra để
“cán bộ y tế” nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Thế là xong. Bệnh
nhân nặng
chỉ còn việc nằm chờ chết. Thục Vũ cũng ở trong trường hợp ấy.
Một buổi
sáng sớm, tôi đang lúi húi trồng luống xu hào, bỗng thấy bên mình có
cái gì kêu
phần phật. Từ từ ngước lên, tôi thấy một mảnh quần trây-di rách bị gió
thổi bay
lắc lư làm nên tiếng động nghe cũng… vui tai. Tôi nhận ra ông Phan Lạc
Phúc,
khoác chiếc áo trây di cũng tả tơi “đồng bộ” với cái quần rách. Nước
mắt ông
Phúc chảy rất chậm trên mặt, ông nghẹn ngào cất tiếng:
- Thằng Sâm
chết ở bệnh xá đêm qua rồi.
Tôi lặng người,
bởi mới hôm qua, tôi lẻn sang bệnh xá thăm, Thục Vũ đưa cho tôi hai gói
thuốc
lào nhỏ, anh nói: “Tôi mệt không hút thuốc được nữa”. Ngồi nói chuyện
vài phút,
anh Tô Kiều Ngân ở trạm xá này cũng đến ngồi chơi. Tôi thấy Thục Vũ vẫn
còn khỏe,
vậy mà đêm qua đã ra đi.
Sau đó, anh
Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi đúng nhất, ngắn nhất và cũng bi thảm
nhất:
“Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được
nó nữa”.
Đám tang Thục Vũ, hình ảnh
bi thảm nhất
trong cuộc đời chúng tôi
Nhưng vào buổi
chiều năm 1977, khi đồi núi Sơn La bắt đầu chạng vạng, chúng tôi đang
làm những
công việc cuối cùng ở vườn rau thì bất chợt nhìn sang lối ra từ bệnh xá
một
khung cảnh hết sức đau lòng. Trên con đường đá cũ nhỏ, vòng theo sườn
núi cao
vút chập chùng, cách vườn rau là cái ao, đám tang bắt đầu di chuyển
chậm chạp.
Hai anh cai tù vác súng AK đi đầu, theo sau là một anh tù cầm vài nén
nhang, đến
4 anh tù khiêng cỗ quan tài mộc, sau cùng lại là 2 anh cai tù vác súng
AK. Suốt
con đường dài âm u đó, chỉ có đám người ấy lặng lẽ chuyển động như
những bóng
ma.
Ở vùng đồi
núi bóng tối đổ xuống rất nhanh, mang theo sương mù mỏng dăng ngang
triền dốc dựng
đứng như những bức tường đá của nhà giam thiên nhiên, chẳng cách nào
thoát ra
được. Chúng tôi biết chắc đó là đám ma Vũ Văn Sâm tức nhạc sĩ Thục Vũ.
Tất cả
hơn ba chục tù nhân trong đội rau đứng ngẩn ra, dán mắt nhìn theo cái
đám ma
thê thảm ấy. Ông Phan Lạc Phúc, đến bên tôi, không nói lời nào, quay
mặt đi giấu
nước mắt. Nhìn sang phía bên trạm xá, Tô Kiều Ngân và mấy anh bác sĩ
trẻ cũng
là tù, đứng sau hàng rào kẽm gai cũng ngơ ngẩn. Ngân vẫy tay cho tôi và
anh
Phan Lạc Phúc chẳng biết để làm gì. Là một sự cảm thông tận cùng hay
nói lời từ
biệt.
Mấy tay coi
tù cũng đứng lặng, nhìn chúng tôi và họ hiểu rằng lúc đó dù bắt chúng
tôi thu dụng
cụ về trại cũng chẳng ai chịu về, dù có bị bắn tại chỗ. Tất cả đứng như
tượng gỗ
dõi theo đám tang đi trong buổi hoàng hôn lạnh ngắt, dần khuất vào cuối
con đường
cong phía chân núi. Sương mù bắt đầu tỏa xuống. Ai đó bỗng cất lên
tiếng hát
“Sơn La âm u núi khuất trong sương mù. Đoàn thù tha hương cất bước lê
trên đường…”.
Một bài hát xưa cũ của những nhà cách mạng thương tiếc những chiến sĩ
bị giặc bắt
cầm tù ở Sơn La. Sao lúc này nó hợp với chúng tôi thế.
Hình ảnh cái
đám ma Thục Vũ còn in đậm trong tâm khảm chúng tôi cho đến bây giờ. Tôi
chắc
anh Tô Kiều Ngân, đến cuối đời cũng chưa quên được hình ảnh này. Nó trở
thành
những kỷ niệm rất riêng nhưng cũng lại rất chung của những ai đã từng
sống dở
chết dở qua những cái được gọi là “trại cải tạo”.
Tô Kiều Ngân và cuộc đời
binh nghiệp
Có lẽ nhiều
thính giả và độc giả biết đến anh Tô Kiều Ngân qua “Tiếng sáo Tao đàn”
hơn là
biết đến “đời lính” của anh. Tôi thì khác, tôi biết anh từ khi cùng làm
chung
trong mấy tờ báo của quân đội.
Trở lại chuyện
xưa, khi tôi mới được lệnh về Nha Chiến Tranh Tâm Lý lúc đó còn trực
thuộc Bộ
Quốc Phòng, (sau này mới đổi tên thành Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị
trực thuộc
Bộ Tổng Tham Mưu), từ năm 1957, khi tôi bắt đầu về làm Trưởng Ban Báo
Chí (hồi
đó chưa được gọi là Phòng), tôi phụ trách điều hành chung. Hồi đó anh
Tô Kiều
Ngân phụ trách tờ báo có tên là “Quân Đội”, sau này cụ Ngô Đình Nhu yêu
cầu đổi
tên, nên chúng tôi đề nghị và được chấp thuận đổi tên thành báo “Chiến
Sĩ Cộng
Hòa”, ra nửa tháng một kỳ. Báo dành chung cho mọi quân nhân. Tờ nguyệt
san Phụng
Sự, dành cho sĩ quan do anh Huy Sơn phụ trách. Tòa soạn vỏn vẹn chỉ có
chừng 10
người, bởi việc in ấn đã do nhà thầu đảm nhiệm hàng năm. Chúng tôi chịu
trách
nhiệm biên tập phần nội dung. Ngoài 3 người chúng tôi còn các anh Viêm
Hồng, Lý
Quảng, Phy Phy… Sau này, khi Cục Tâm Lý Chiến về đường Hồng Thập Tự mới
có thêm
Huy Vân, Tường Linh, Vũ Công Uẩn. Rồi còn có cả anh Đỗ Tốn, tác giả
“Hoa Vông
Vang” trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, cũng về làm việc tại Ban Báo Chí.
Nhưng ông
“công tử con quan” đó chỉ đến cho có mặt rồi lại phóng xe đi. Anh lớn
tuổi và
cũng là nhà văn thuộc hệ đàn anh, vả lại anh về đó chẳng còn bao lâu
đến ngày
giải ngũ. Sau nữa có thêm Thanh Nam tái ngũ về làm báo CSCH cùng chúng
tôi.
Khi mới bước
chân vào “nghề làm báo” tôi chỉ là anh viết lách, chưa hề quen với nghề
nghiệp
này. Công việc mới tuy có thích hợp với khả năng và mong đợi của tôi,
nhưng thật
ra nghề làm báo chẳng giống nghề viết lách tí nào. Nghề đọc văn người
khác, chọn
bài và sửa bài không dễ dàng.
Bạn có biết
bài học đầu tiên trong nghề làm báo của tôi là gì không? Đó là nghề sửa
morrasse, tức là làm “thầy cò”. Những năm ấy, tất cả báo chí VN còn in
typo, sắp
chữ bằng tay rồi làm bản kẽm, hình ảnh làm clicher cho vào khuôn. Báo
Quân Đội
không phải kiểm duyệt nên không bị “đục bỏ”. Tuy nhiên làm thầy cò cũng
không dễ.
Phải biết các ký hiệu thay thế chữ nghĩa. Ngoài ra còn phải biết “dàn
trang”,
biết trình bày từng bài dài ngắn sao cho đúng khuôn khổ tờ báo... Đó là
chút
xíu về “kỹ thuật” mà tôi phải học qua các anh Tô Kiều Ngân và Huy Sơn.
Tôi và
hai anh ấy cùng sửa morrasse, nhưng đến dernière morrasse cho nhà in
chạy máy
thì tôi phải ký.
Tô Kiều Ngân rời khỏi báo
Quân Đội
Cuộc đời
binh nghiệp của Tô Kiều Ngân khởi thủy từ khi làm tờ báo Tiếng Kèn của
Địa
Phương Quân ngoài Huế. Năm 1953, anh được đồng hóa vào quân đội và đưa
gia đình
từ Huế vào Saigon.
Chúng tôi
cùng làm chung trong Ban Báo Chí từ năm 1957, lúc đó anh mang cấp chuẩn
úy. Cho
đến khi dọn về Hồng Thập Tự, gần cầu Thị Nghè. Một năm sau, tôi được
lệnh đi
Quân Khu 3 thành lập Đại Đội Văn Nghệ cho quân khu này dưới quyền tướng
Đỗ Cao
Trí. Đại đội này có cả sự đóng góp rất quan trọng của nhạc sĩ Anh Bằng.
Khi Đại đội
thành lập xong, đi trình diễn được ở các tỉnh thuộc quân khu, tôi trở
lại Nha
CTTL. Lúc đó Phòng Tài Liệu do anh Vũ Quang Ninh làm trưởng phòng đang
thu thập
tài liệu để làm cuốn “Trăm hoa đua nở” về vụ án “Nhân văn giai phẩm tại
miền Bắc”.
Tôi lại được lệnh về đây phụ giúp anh Ninh thu thập và phân tích những
tài liệu
này.
Bỗng một buổi
sáng, vào khoảng năm 1960, tôi được lệnh trở lại Ban Báo Chí ngay. Khi
trở lại
tòa soạn tôi mới biết anh Tô Kiều Ngân vừa được thuyên chuyển đi đơn vị
khác,
cũng trong ngành Chiến tranh chính trị (CTCT). Quả thật tôi không hề
biết vì lý
do nào. Có thể vì nhu cầu công vụ và cũng có thể vì những lý do khác.
Tôi cũng
không thể tìm hiểu rõ hơn.
Anh đến tuổi
được giải ngũ năm 1974 khi mang cấp Thiếu Tá phục vụ tại Phòng CTCT
Trường Võ Bị
Đà Lạt.
Lúc đó, để đáp
ứng quân số tăng, quân đội có hơn một triệu quân nhân, tờ báo Chiến Sĩ
Cộng Hòa
phát hành 200.000 số một kỳ, tính ra mỗi tiểu đội được 1 tờ.
Sau đó vì
nhu cầu tin tức chiến trường ngày một cao, chúng tôi phải làm thêm tờ
Thông Tin
Chiến Sĩ, ra khổ lớn hơn, tuần 1 kỳ gồm 8 trang.
Đến “cuộc chơi” ở Ban Tao
Đàn
Khoảng thời
gian tôi và anh Tô Kiều Ngân làm việc với nhau chừng hơn 3 năm và cũng
có khá
nhiều kỷ niệm của thời trai trẻ.
Tô Kiều Ngân
rất tài hoa và cũng đào hoa, nhưng anh rất it khi đi ăn chơi cùng chúng
tôi.
Anh hơn tôi đến 6 tuổi và đã có gia đình nên chơi khác với cánh còn “xê
li bạt”
… Tôi nhớ hồi đó Huy Sơn, Nguyễn Ái Lữ và tôi, còn rách như cái mền,
nhưng thứ
bảy chủ nhật lại ngứa chân muốn đi nhảy. Ông Nguyễn Ái Lữ hiền như bụt,
vài lần
rủ Tô Kiều Ngân, anh cũng không chịu đi. Anh dành thì giờ cho ban Tao
Đàn.
Đó là khoảng
thời gian từ 1957- 1960, anh Tô Kiều Ngân là một trong những nhân vật
chủ chốt
của Ban Tao Đàn ở Đài Phát Thanh Sài Gòn. Với hơn 20 năm trong cuộc đời
quân
ngũ (1953-1974) thì Tao Đàn đối với anh chỉ là một cuộc chơi. Nhưng
cuộc chơi ấy
lại để lại dấu ấn đậm nét nhất, đáng giá nhất trong cuộc đời anh và thi
ca VN.
Theo anh
Phan Lạc Phúc thì sự khai sinh và công việc của Ban Tao Đàn rất đa
dạng. Xin
trích lược bài nhận định của anh Phan Lạc Phúc tức ký giả Lô Răng:
Những nhân vật then chốt
của Ban Tao
Đàn
“Người khai
sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả nước đều biết, là thi
sĩ Đinh
Hùng. Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan
trọng nhất
là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài
năm sau có
Huy Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ 2 là ban
ca ngâm gồm
những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người “đa
năng” nhất
trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm, vừa
biên tập, vừa
trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô Kiều Ngân réo rắt thường được coi là
“indicatif” của
Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano
trầm ấm
trước của Ngọc Bích, sau của Phạm Đình Chương. Về giọng ngâm nam ngoài
họ Tô,
còn có Hoàng Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên
đài. Tô
Kiều Ngân tuy giọng không khỏe nhưng anh là người ngâm “khéo” nhất,
ngâm giọng
Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ
được đời
nhớ mãi trong Bài ca Ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng
thổ pha
kim, xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không
có mặt
lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ như Quách Đàm trong những
bài lục
bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác.
Về giọng
ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương nhưng
các tay
sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc của bà Đàm
Mộng
Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ bà
Hành. Giọng
ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong
những bài
thơ nức nở TTKH. Về sau có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc
những vần
ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh”.
(ngưng
trích).
Tiếng sáo của những cảm xúc
Thật ra Tô
Kiều Ngân hoạt động trong nhiều lãnh vực, làm báo, viết văn (tác phẩm
đầu tay của
anh là tập truyện ngắn “Người đi qua lô cốt”), làm thơ, ngâm thơ, bài
sáo anh
thổi ở Tao Đàn do chính anh sáng tác và đã xuất bản. Nhưng nổi tiếng
nhất vẫn
là tiếng sáo Tao Đàn. Bây giờ người ta nhớ đến tài năng tuyệt vời của
anh vì tiếng
sáo đó và giọng ngâm thơ mang âm điệu Huế hơn tất cả những thứ khác.
Nếu so
sánh với tiếng sáo của Nguyễn Đình Nghĩa, theo nhận xét của tôi, mỗi
người có một
cái hay riêng. Tiếng sáo của Tô Kiều Ngân cất lên theo cảm xúc từ bài
thơ của
tác giả và phong cách của người ngâm thơ nên bay bổng và dễ làm rung
động lòng
người hơn. Tiếng sáo của Nguyễn Đình Nghĩa hay về bài bản. Nếu anh thổi
một bài
như Thiên Thai, rất điêu luyện. Nhưng nhiều thính giả vẫn nhớ họ Tô
hơn.
Từ biệt Tô Kiều Ngân,
người cuối cùng
của Tao Đàn ra đi
Nhận được
tin Tô Kiều Ngân mất, sau khi điện thoại cho Huy Sơn và Hoàng Song
Liêm, tôi gọi
cho Hàm Anh (còn có bút danh là Sài Gòn Cô Nương), bởi Hàm Anh là con
gái nhà
phê bình Thượng sĩ, trước đây ở cùng xóm Phan Văn Trị với gia đình anh
Tô Kiều
Ngân. Chúng tôi mang vòng hoa tới căn nhà khá đẹp của gia đình anh ở
trong một
xóm nhỏ thuộc quân Bình Thạnh.
Người đón tiếp
chúng tôi rất vồn vã chính là bà quả phụ Tô Kiều Ngân. Nhưng tôi đã đọc
cái cáo
phó của gia đình trên một tờ báo nước ngoài. Nếu chú ý, bạn sẽ thấy một
sự… hơi
lạ. Đó là có tới hai bà cùng ký tên chung là vợ. Một bà là Phạm Thị
Thìn, một
bà là Lê Thị Kim Hoa. Một sự “chính danh” ít thấy trên bản cáo phó nào.
Tôi phải
ghi lại sự kiện này cho đúng, xin chia buồn đến cả 2 gia đình.
Tôi phải lựa
lời khơi gợi lại chuyện cũ xem có đúng bà này là “đệ nhất phu nhân”
thời xưa
tôi đă gặp không. May quá, đệ nhất phu nhân Tô Kiều Ngân nhận ra tôi
ngay. Chị
ân cần nắm tay tôi thân thiết. Các con trai, con gái anh, cả dòng trước
dòng
sau, cũng thân mật như vậy. Con gái lớn của anh (là vợ của nhà thơ
Nguyễn Tôn
Nhan, mất cách đây 2 năm) cũng tới thăm hỏi. Tôi có cảm tưởng như gia
đình anh
và tôi chưa xa nhau bao giờ.
Tôi và cháu
Hàm Anh cùng vào trước linh cữu anh, từ biệt người bạn cũ. Anh ra đi là
người
cuối cùng cộng tác thường xuyên, là trụ cột của ban Tao Đàn. Nhà văn Tạ
Quang
Khôi tính nhẩm rằng:
- Thi sĩ
Đinh Hùng, trưởng ban Tao Đàn của đài phát thanh Saigon, mất năm 1969
vì ung
thư bao tử. Hoàng Thư, một giọng ngâm nam rất truyền cảm, mất cách đây
khoảng
20 năm ở Saigon. Hồ Điệp mất tích trên đường vượt biên. Thanh Nam qua
đời năm
1985 ở Seattle (tiểu bang Washington) vì ung thư cuống họng. Huy Quang
Vũ Đức
Vinh mất cuối năm 2005 vì bị tai biến mạch máu não trong khi bác sĩ
đang giải
phẫu để làm by pass (ở Seattle). Thái Thủy ra đi vì ung thư phổi ở Nam
Cali
cách đây gần 3 năm.
Từ biệt Tô
Kiều Ngân, từ biệt nhóm Tao Đàn nhưng tiếng sáo, giọng ngâm của Tao Đàn
còn lại
mãi trong đời sống thi ca Việt Nam và trong lòng người Việt yêu thơ
khắp nơi.
Văn Quang –
26-10-2012