|
Yevgeny
Kupchenko
Cư dân lâu đời
nhất của Trại Tù Norilsk, Yevgeny Kupchenko bị bắt năm 1936 và bị buộc
tội làm
do thám cho Nhật. Vào lúc đó, ông là một nông dân mù chữ. Ông là 1
trong những
nhóm đầu tiên ngược dòng Yenisei River tới Norilsk. Vào giữa thập niên
1930, Liên Xô vẫn còn huênh hoang bá láp về triết lý cách mạng cải tạo,
phục
hồi nhân phẩm, thông qua lao động và niềm vui được là những“công nhân”
thực thụ.
Học Tập Cải
tạo? Ai? Tù nhân. Học bằng dùi cui, không phải bằng chữ. Tại sao nói
với tù nhân,
nói để làm gì cơ chứ, và nói cái gì? Bạn nghĩ chúng sẽ nói: “Chúng ông
sẽ dạy
cho chúng mày trở thành những người CS tốt?” Chẳng bao giờ chúng,
những tên quản giáo nói với chúng tôi. Chẳng có ma nào nói với chúng
tôi. Có một
ban “giáo dục văn hóa” ở trại tù, ở đó, họ trao cho chúng tôi những lá
thư của
chúng tôi. Tôi phải đưa tất cả thư từ cho “ban” này để chúng đọc, và
nếu chúng
thích, thì chúng sẽ cho phép gửi đi….
Russia:
Miền
Đông Hoang Dã
GRANTA
THE RIVER
POTUDAN
Andrei
Platonov
TRANSLATION
BY ROBERT AND ELIZABETH CHANDLER AND ANGELA LIVINGSTONE
The River
Potudan
Grass had
grown back on the trodden-down dirt tracks of the civil war, because
the war
had stopped. With peace the provinces had grown quiet again and there
were
fewer people: some had died in the fighting, many were being treated
for their
wounds and were resting with their families, forgetting the heavy work
of the
war in long sleep. Demobilized men in old greatcoats were still making
their
way home, carrying kitbags and wearing helmets or sheepskin
caps-walking over
the thick unfamiliar grass which there had not been time to see before,
or
maybe it had just been trampled down by the campaigns and had not been
growing
then. They walked with faint, astonished hearts, recognizing afresh the
fields
and villages that lay along their path. Their souls had been changed by
the
torment of war, by illness and the happiness of victory, and it was as
if they
were approaching life for the first time, dimly remembering themselves
as they
had been three or four years ago. They were older and had grown up,
they had
become wiser and more patient and had started to feel inside themselves
the
great universal hope which had become the idea of their lives-lives
that were
still young and which, before the civil war, had had no clear aim or
purpose.
In the late
summer of 1921 the last demobilized Red Army soldiers were dispersing.
They had
been kept back on the labor teams, working at unfamiliar trades,
feeling
homesick; only now had they been told to go home to their own lives and
to life
in general.
A former Red
Army soldier, Nikita Firsov, on his way home to an obscure provincial
town, had
been walking for more than a day now along a ridge that stretched
beside the
River Potudan. Nearly twenty-five years had passed since this man's
birth, and
he had a modest face that seemed permanently sorrowful-though this
expression
may have been caused not by sadness but by some restrained goodness of
character or, perhaps, simply the intensity of youth. From under his
cap his
fair hair, which had not been cut for a long time, hung down to his
ears, and
his large grey eyes gazed anxiously at the monotonous landscape, as if
the man
on foot were not from these parts.
At noon
Nikita Firsov lay down beside a small stream that flowed along the
bottom of a
gully and down into the Potudan. He dozed off on the earth, under the
sun, in
September grass that had....
Đọc truyện
này, Gấu cũng nhớ tới mấy truyện ngắn của “bạn của Gấu”, là TTH, và
truyện, ký, đúng hơn, "Nổi chìm một thị xã" của Nguyễn Quang Lập,
viết về Quảng Trị....
Truyện dưới đây, Gấu thấy ở Diễn Đàn
Forum, lâu rồi, nay post lại,
tính đi một đường lèm bèm, nhưng sợ hư mất truyện, chỉ lọc ra vài câu,
tuyệt
bút, với riêng Gấu.
Cỏ léc vẫn rập rờn xanh biếc
một màu, ngàn ngàn lớp sóng xô đuổi
nhau chạy qua, xôn xao, khấp khởi. Heo may thổi lồng lộng buốt lên tận
óc. Lại
mưa phùn hay đổ vào buổi chiều tối, giăng mắc lên làng mạc một màn
sương mờ dày
đặc....
Trong hơi may, trên những triền đồi hoang chỉ còn độc mỗi lũ trẻ chăn
trâu.
Chúng co ro trong áo tơi, da tái xám giữa lồng lộng gió. Trên muôn
triệu lá léc
xanh xuyên qua lớp lớp mưa phùn là trong trẻo, là réo rắt, là huyền
hoặc tiếng
sáo. Chưa bao giờ tiếng sáo nổi (1) niềm da diết đến thế. Không đứa nào
lên
tiếng. Chúng nắm chặt tay nhau nhìn về hướng ngôi nhà nhỏ bên kia đồi.
Phía đó,
một làn khói bếp mỏng bay lên, vẽ một đường cong mềm mại, rồi tỏa tỏa
vào trong
chiều muộn.
(1) Nguyên là "nỗi", Gấu sửa
lại là "nổi", sử dụng như một
động từ, giống như "trổi", không biết có đúng ý của người xưa hay
không?
NQT
Heo may thổi lồng lộng buốt
lên tận óc làm Gấu nhớ đến câu thơ của Gấu,
làm khi vừa đến đất lạnh ải Bắc, đầu địa cầu:
Đi trong
gió,
Nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay
Russia The Wild East
Puntin's Pique
In other words, Putin risks
alienating himself not only from the
West and Ukraine, to say nothing of the global economy he dearly wants
to join,
but from Russia itself. His dreams of staying in office until 2024, of
being
the most formidable state-builder in Russian history since Peter the
Great, may
yet founder on the peninsula of Crimea. ♦
Nói 1 cách
khác, Putin tự rủi ro chính mình, trở thành 1 kẻ vong thân, ra khỏi Tây
Phuơng,
chưa nói tới kinh tế toàn cầu mà ông muốn gia nhập, mà còn ra khỏi nước
Nga, chính nó. Giấc mơ của
ông, ngồi lỳ ở ghế Tông Tông tới năm 2024, Ông Trùm của một nhà nước
vững vàng như chưa từng
vững vàng, khủng khiếp nhất, trong lịch sử Nga, kể từ Peter Đại Đế, có
lẽ may mắn lắm, nhưng cũng chưa chắc, nhà tạo lập nhà nước có tên là
bán đảo Crimea. [Bán đảo nhe, không phải quần đảo!]
Cái tít bài
viết, là từ truyện ngắn Con Đầm Pique
của Puskhin. GCC mê truyện này
nhất,
trong những truyện của ông. Phát Súng
cũng quá mê, chưa kể Con Gái Viên
Đại Uý.
Tình Trại
"Tình
Trại" là một trong những cuộc phỏng vấn những kẻ sống sót từ trại tù
Norilsk.
Angus
Macqueen, tác giả-người phỏng vấn, là một nhà làm phim tài liệu (phần
lớn cho
đài BBC), chuyên về Liên-bang Xô-viết và Đông-Âu. Bài viết lấy từ tạp
chí
Granta 64, Winter 98, đặc biệt về Nga-xô: Miền Đông Hoang Dã.
Một xứ sở rộng
lớn nhất: một phần sáu đất đai địa cầu. Nơi máu đổ nhiều nhất: Trước
tiên, là
cách mạng 1905, bị đè bẹp bằng máu. Tới cách mạng 1917, thành công,
cũng bằng
máu. Rồi thời đại Stalinism, với hàng triệu mạng người bị giết, bằng
tống xuất,
diệt chủng, trại tù; địch thủ của nó: cuộc xâm lăng của Nazi, đã lấy đi
chừng
20 triệu công dân Xô-viết. Như Anatol Lieven, tác giả cuốn sách vừa
xuất bản,
viết về cuộc chiến Chechnya: Bia mộ của Quyền lực Nga: Đối với hầu hết
cư dân của
nó, Liên-bang Xô-viết (là một điều gì) còn hơn cả một nền văn minh. Còn
hơn cả
một ấn bản méo mó, hư ruỗng của điều gọi là hiện đại tính. Đây thực sự
là một
thế giới. Thế giới độc nhất mà cư dân của nó hiểu, và có được. Và theo
như tiền
nhân của họ: Đây là đỉnh cao lịch sử, sự hiểu biết, và thành tựu của
nhân loại.
St.
Petersburg của miền bắc: Norilsk. Angus Macqueen đã từng mơ tưởng, thăm
viếng
nó: một thành phố ở giữa chốn không đâu (this town in the middle of
nowhere).
Nhưng theo ông, dưới chế độ Xô-viết, nó là một thành phố kín, "gia
tài" của nó, ngoài tù nhân ra, còn là mỏ kim loại, hai vốn quí trong
toan
tính kỹ nghệ hóa xứ sở. Trại tù chết theo Stalin vào năm 1953 nhưng
Norilsk vẫn
tiếp tục tăng trưởng: Tù nhân, không còn một nơi chốn để đi, hoặc quê
hương để
về, đành chọn nó: chốn lưu đầy biến thành quê nhà.
Như một người
con gái của một tù nhân, nói: "Chúng tôi không có một nơi nào để đi, và
chẳng
có gì để mang theo. Chúng tôi lại ở trại."
Jadwiga
Malewicz
Tôi lấy người
cai tù. Một người cai tù có gốc. Tôi thực không biết chuyện đó xẩy ra
như thế
nào. Anh ta luôn nhìn tôi. Đăm đăm nhìn. Trong lúc đưa chúng tôi đi lao
động,
anh ta nói: "Đội Trưởng, tôi sẽ lấy cô". Tôi trả lời: "Vô lý, quản
giáo. Anh không thể làm điều đó". "Để rồi coi". Bạn tưởng tượng
nổi không? Anh ta cai tôi hai năm trời. Và tôi không hề đáp lại. Tôi
thực không
thích bạn. Anh ta đợi tôi thêm ba năm. Tôi vẫn quay lưng. Rồi cái ngày
ấy tới.
Lao động về, tôi nhìn thấy giấy ra trại trên chiếc gối. Đau đớn làm
sao. Tôi
nghĩ: Đi đâu bây giờ? Họ đưa bạn tờ giấy, dẫn bạn ra ngoài, và bạn
chẳng có một
căn phòng, chẳng có gì hết. Muốn đi đâu thì đi, nếu có thể. Chuyện như
vậy đó,
bạn biết không. Nếu tôi có một nơi để mà đi... nhưng làm sao tôi rời
đi. Tôi ngồi
trên giường, gỡ băng "Đội Trưởng" đưa cho người khác. Tôi bảo cô ta
đừng
nói cho anh cai tù mê tôi, tôi được thả. Nhưng tới cổng, anh đợi tôi ở
đó. Tôi
ôm cái bị nhỏ, món quà mừng ngày được tha. Gia tài chút xíu. Anh trờ
tới:
"Đội Trưởng, để tôi mang giùm." "Tôi đâu còn là đội trưởng nữa",
nhưng tôi đưa anh cái bị, và bạn biết đấy, ngu đần như con cừu, tôi đi
theo
anh. Anh đã xoay xở được một căn phòng. Khi tới, úi trời, tôi thấy
người quản
giáo. Ông mướn phòng chung sống với người đàn bà quản trại tôi. Bà ta
nói:
"Lúc nào cũng nghe anh khoe, anh chài được cô gái xinh đẹp, bây giờ cô
ta
đây này!" Họ bắt đầu uống. Những ngày đó, ngoài uống ra đâu còn gì. Họ
uống.
Tôi không làm sao uống nổi: họ đưa tôi nhấp thử một hụm và tôi gần
nghẹt thở. Họ
cười nhạo tôi. Người đàn ông "của tôi" kiếm chỗ nằm, và người đàn bà
nói: Còn cô này nữa, ngồi đây làm gì? "Bà nói chi?"
Tôi ngồi bàn
suốt đêm. Nhưng, là anh ta. Biết làm sao khác? Tôi cũng quen dần. Tôi
chịu đựng
cắn rứt, dằn vặt ròng rã ba mươi năm. Cuối cùng ly dị. Anh tìm về làng
cũ ở
vùng Trung Nga, và chết ở đó. Anh uống tới chết. Còn trơ tôi ở đây.
Jennifer
Tran
Grigory
Morozov
Grigory Morozov was a
young conscript
sent to Norilsk to guard the prisoners. He ended up marrying Julia, one
of the
'fascists' (his word) he was sent to deal with.
We would
enter a barrack, two guards and all those women ... What women! Mainly
young
... My God! They were twenty-two or twenty-three years old. You know.
So young
... I wouldn't say that they were overly thin, you know-fat, some of
them. Some
were pretty, it was something. I would say 'Girls! What shall I search
for in
here?' And one of them would say: 'Come and search me, love.' She'd
just take
off her top. Deliberately, probably they were dressed like that ...
Well, she'd
just strip off. 'What do you want to search for in here?' she'd say,
'We'd be
better off .. .' I didn't know then that it was possible for women to
rape a
man to death. One time this girl said to me: 'Come on .. .' But I was
still
shy, and, as they say, I still had a conscience. I turned away and left.
All those
women ... our commanders told us not to mess with them. Once a group of
women
were to be transported elsewhere and replaced by men. And when the
special
transport detachment started to march the women off, I saw some guards
running
after them. Several men running after the women prisoners. Without
their guns
or anything. I shouted: 'What's going on? Why are you running after
them?' They
said: 'They're our girls.' The officers were shouting: 'What are you
doing?'
and all that. You know. 'Come on ... Get back! Stop it!' And the
soldiers were
crying. You see, they had made friends there. They had got acquainted,
everything. They were man and wife already. What a comedy.
Khan
Giám đốc cảng
ở Norilsk, cha mẹ Hàn của Khan nằm trong số bị tống xuất tập thể từ
vùng Viễn Đông
vào thập niên 1930.
Là 1 tên con
nít, con của kẻ thù của nhân dân - của Ngụy, cứ nói mẹ ra đây - thì "nà
thế lào"?
Khó nói lắm.
Khi tớ là 1
đứa con nít được Đảng và Nhân Dân VC Niên Xô qui thành phần, con Ngụy,
thực sự mà nói,
tớ đếch cảm thấy cái gì hết. Khi Xì chết. vào năm 1953 thì tớ đã thuộc
cái lớp
người được đào tạo ba đời, dưới mái trường XHCN, và nhà trường, vào
những năm đó,
hầu như 90 % nhân dân là “kẻ thù của nhân dân”!
Thành ra khó
mà phân biệt giữa Ngụy và Cách Mạng. Khi chúng tớ trưởng thành, học
xong trung
học, vô đại học, thì tình hình đã thay đổi, tớ chẳng nhớ gì hết. Rồi tớ
trở thành
1 tên CS trẻ, rồi là 1 Đảng viên.
Đâu có 1
kết
thúc nào khác?
Russia:
Miền
Đông Hoang Dã
THE
LOST
BOYS
Anna
Pyasetska ya and Heidi
Bradner
The war in
Chechnya was the bloodiest event to come out of the break-up of the
Soviet
Union. At least 50,000 people died-about a fifth of them Russian
soldiers, mostly young conscripts. Anna Pyasetskaya is a member of the
Committee of Soldiers' Mothers of Russia. The following account is of
her struggle to
find her son. The pictures, by Heidi Bradner, show the Russian army
before
it withdrew in defeat in the winter of 1996.
Ngày 30
Tháng Tư, 1975, nhìn mấy đứa trẻ trong sân chung cư 29/8D NBK, Gấu mừng
thầm, tụi
mi sẽ chẳng bao giờ phải chết vì cuộc chiến nữa. Hòa bình rồi.
Nhưng sau đó,
chúng đi còn lẹ hơn thời Ngụy vì cuộc chiến Cambodia. Cuộc chiến này
không làm chết Mít nhiều, nhưng để lại 1 gánh nặng kinh tế khủng khiếp,
do mìn muỗi.
Khan
The port
manager in Norilsk, Khan's Korean parents were among the mass
deportations from
the Far East in the 1930s.
What was it
like to be the son of an 'enemy of the people'? It's hard to say.
When I was a
child I didn't feel it. I mean, I was already a third-former when
Stalin died
in 1953. And the way my school years were, I mean, practically of all
the
inhabitants, ninety per cent were enemies of the people. To tell one
from
another was almost impossible. When we grew up, when I finished school
and went
to university, by then times had changed. We did not remember it. I
became a
young communist and then a member of the Party.
There
was no
other way.
Andrei
Cheburkin
A soldier
who marched in Red Square parades, Andrei Cheburkin had a number of
jobs in the NKVD, the ministry of internal affairs. He started as a
guard on
the transport trains of prisoners, then worked in the camps before
moving to
Norilsk as a bureaucrat.
Life in
Norilsk was better than anywhere else in the Soviet Union. In the first
place,
all the bosses had maids, prisoner maids. Then the food was amazing.
There was all sorts of fish. You could go and catch it in the lakes.
And if in
the rest of the Union there were ration cards, here we lived virtually
without
cards. Meat. Butter. If you wanted champagne, you had to take a crab as
well, there were so many. Caviar. .. barrels of the stuff lay around.
I'm talking
about the bosses, of course. I am not talking about the workers. But
then the
workers were all prisoners. What was the
pay like? The pay was good. In the mines ... well, obviously if you
were
a civilian you wouldn't be doing the manual work, that would be for the
prisoners. So say you were a brigadier, you'd get 6,000-8,000 roubles.
In
central Russia you would get no more than 1,200. I came to Norilsk as a
work supervisor in a special directorate of the NKVD, which was looking
for uranium. I was given a supervisor's salary-2,100 roubles I received
from
the first and then each six months I got a ten per cent rise, about
five
times more than they got in normal civilian life. You ask about the
prisoners. Well, the prisoners were everywhere. They were brought to work
under
guard. And they worked. They did not bother anyone-they just worked
and worked. They were slaves.
Tình
Trại
"Tình
Trại" là một trong những cuộc phỏng vấn những kẻ sống sót từ trại tù
Norilsk.
Angus
Macqueen, tác giả-người phỏng vấn, là một nhà làm phim tài liệu (phần
lớn cho
đài BBC), chuyên về Liên-bang Xô-viết và Đông-Âu. Bài viết lấy từ tạp
chí
Granta 64, Winter 98, đặc biệt về Nga-xô: Miền Đông Hoang Dã.
Một xứ sở rộng
lớn nhất: một phần sáu đất đai địa cầu. Nơi máu đổ nhiều nhất: Trước
tiên, là
cách mạng 1905, bị đè bẹp bằng máu. Tới cách mạng 1917, thành công,
cũng bằng
máu. Rồi thời đại Stalinism, với hàng triệu mạng người bị giết, bằng
tống xuất,
diệt chủng, trại tù; địch thủ của nó: cuộc xâm lăng của Nazi, đã lấy đi
chừng
20 triệu công dân Xô-viết. Như Anatol Lieven, tác giả cuốn sách vừa
xuất bản,
viết về cuộc chiến Chechnya: Bia mộ của Quyền lực Nga: Đối với hầu hết
cư dân của
nó, Liên-bang Xô-viết (là một điều gì) còn hơn cả một nền văn minh. Còn
hơn cả
một ấn bản méo mó, hư ruỗng của điều gọi là hiện đại tính. Đây thực sự
là một
thế giới. Thế giới độc nhất mà cư dân của nó hiểu, và có được. Và theo
như tiền
nhân của họ: Đây là đỉnh cao lịch sử, sự hiểu biết, và thành tựu của
nhân loại.
St.
Petersburg của miền bắc: Norilsk. Angus Macqueen đã từng mơ tưởng, thăm
viếng
nó: một thành phố ở giữa chốn không đâu (this town in the middle of
nowhere).
Nhưng theo ông, dưới chế độ Xô-viết, nó là một thành phố kín, "gia
tài" của nó, ngoài tù nhân ra, còn là mỏ kim loại, hai vốn quí trong
toan
tính kỹ nghệ hóa xứ sở. Trại tù chết theo Stalin vào năm 1953 nhưng
Norilsk vẫn
tiếp tục tăng trưởng: Tù nhân, không còn một nơi chốn để đi, hoặc quê
hương để
về, đành chọn nó: chốn lưu đầy biến thành quê nhà.
Như một người
con gái của một tù nhân, nói: "Chúng tôi không có một nơi nào để đi, và
chẳng
có gì để mang theo. Chúng tôi lại ở trại."
THE LOST
BOYS
Anna
Pyasetska ya and Heidi
Bradner
The war in
Chechnya was the bloodiest event to come out of the break-up of the
Soviet
Union. At least 50,000 people died-about a fifth of them Russian
soldiers, mostly young conscripts. Anna Pyasetskaya is a member of the
Committee of Soldiers' Mothers of Russia. The following account is of
her struggle to
find her son. The pictures, by Heidi Bradner, show the Russian army
before
it withdrew in defeat in the winter of 1996.
Russia:
Miền
Đông Hoang Dã
Andrei
Cheburkin
A soldier
who marched in Red Square parades, Andrei Cheburkin had a number of
jobs in the NKVD, the ministry of internal affairs. He started as a
guard on
the transport trains of prisoners, then worked in the camps before
moving to
Norilsk as a bureaucrat.
Life in
Norilsk was better than anywhere else in the Soviet Union. In the first
place,
all the bosses had maids, prisoner maids. Then the food was amazing.
There was all sorts of fish. You could go and catch it in the lakes.
And if in
the rest of the Union there were ration cards, here we lived virtually
without
cards. Meat. Butter. If you wanted champagne, you had to take a crab as
well, there were so many. Caviar. .. barrels of the stuff lay around.
I'm talking
about the bosses, of course. I am not talking about the workers. But
then the
workers were all prisoners. What was the
pay like? The pay was good. In the mines ... well, obviously if you
were
a civilian you wouldn't be doing the manual work, that would be for the
prisoners. So say you were a brigadier, you'd get 6,000-8,000 roubles.
In
central Russia you would get no more than 1,200. I came to Norilsk as a
work supervisor in a special directorate of the NKVD, which was looking
for uranium. I was given a supervisor's salary-2,100 roubles I received
from
the first and then each six months I got a ten per cent rise, about
five
times more than they got in normal civilian life. You ask about the
prisoners. Well, the prisoners were everywhere. They were brought to
work under
guard. And they worked. They did not bother anyone-they just worked
and worked. They were slaves.
Khan
The port
manager in Norilsk, Khan's Korean parents were among the mass
deportations from
the Far East in the 1930s.
What was it
like to be the son of an 'enemy of the people'? It's hard to say.
When I was a
child I didn't feel it. I mean, I was already a third-former when
Stalin died
in 1953. And the way my school years were, I mean, practically of all
the
inhabitants, ninety per cent were enemies of the people. To tell one
from
another was almost impossible. When we grew up, when I finished school
and went
to university, by then times had changed. We did not remember it. I
became a
young communist and then a member of the Party.
There was no
other way.
Yevgeny
Kupchenko
Cư dân lâu đời nhất của Trại Tù
Norilsk, Yevgeny
Kupchenko bị bắt năm 1936 và bị buộc tội làm do thám cho Nhật. Vào lúc
đó, ông
là một nông dân mù chữ. Ông là 1 trong những nhóm đầu tiên ngược dòng
Yenisei River
tới Norilsk. Vào giữa thập niên 1930, Liên Xô vẫn còn huênh hoang bá
láp về
triết lý cách mạng cải tạo, phục hồi nhân phẩm, thông qua lao động và
niềm vui
được là những“công nhân” thực thụ.
Học Tập Cải tạo? Ai? Tù nhân.
Học bằng dùi cui, không phải bằng
chữ. Tại sao nói với tù nhân, nói để làm gì cơ chứ, và nói cái gì? Bạn
nghĩ
chúng sẽ nói: “Chúng ông sẽ dạy cho chúng mày trở thành những người CS
tốt?”
Chẳng bao giờ chúng, những tên quản giáo nói với chúng tôi. Chẳng có ma
nào nói
với chúng tôi. Có một ban “giáo dục văn hóa” ở trại tù, ở đó, họ trao
cho chúng
tôi những lá thư của chúng tôi. Tôi phải đưa tất cả thư từ cho “ban”
này để
chúng đọc, và nếu chúng thích, thì chúng sẽ cho phép gửi đi. Nhưng ý nghĩ, chúng cố cải tạo chúng tôi –
làm điều gì
cho chúng tôi vui lên, khuyến khích chúng tôi với những lời giải thích,
xứ sở của
chúng ta mới thực tình cần đến kim loại làm sao, và như thế, như thế -
làm gì có
chuyện đó. Chúng tôi là những kẻ nô lệ. Thú vật. Trâu bò. Nông dân
Ukraine đã từng
làm trâu bò như vậy để cầy ruộng. Và làm trâu bò thì trở thành trâu bò,
những
con người trong tình trạng như vậy trở thành câm nín, và cúi đầu. Chúng
tôi không
hề thốt ra lời, ra tiếng. Chúa gìn giữ chúng tôi khỏi bất cứ một cuộc
trò chuyện
nào về nhà cầm quyển, hay là về chính trị. Nơi nào cũng có chỉ điểm,
ăng ten,
ngay cả trong trại tù. và bạn sẽ bị còng đầu lôi tới an ninh, công an,
và chẳng
ai nhìn thấy bạn trở lại lán tù nữa. Không chỉ trong những năm tù, mà
ngay cả
khi đã được ra khỏi trại tù, trở về làng, tôi không nói một lời. Về
những gì đã
xẩy ra. Không một lời. Ngay cả với vợ. Bây giờ thì có vẻ có nhiều
chuyện để nói
ra – Brezhnev là một người xấu, và
đại loại,
nhưng vào thời gian đó, không. Nếu một tờ báo có hình Stalin được thấy
dục bỏ đâu
đó, hay nằm phất phơ, lớ ngớ ở dưới mặt đất, thì một người nào đó sẽ
được tìm
ra, để trừng phạt. Trước khi ra tòa án nhân dân, thì bạn đã bị đánh đập
tàn nhẫn,
và sau đó là 10 năm tù.
Jadwiga
Malewicz
Khi còn là một đứa nhỏ mười mấy
tuổi, Jadwiga
Malewicsz chứng kiến quân đội Xô-viết xâm lăng Ba-lan; rồi tới Đức
Quốc-xã. Qua
lớp cỏ dầy, cô cũng đã nhìn cảnh tàn sát tập thể người Do-thái địa
phương. Khi
Hồng quân trở lại vào năm 1945, cô bị bắt vì "phản bội đất mẹ". Mười
năm tại Norilsk.
Tôi lấy người cai tù. Một người
cai tù có gốc. Tôi thực không biết
chuyện đó xẩy ra như thế nào. Anh ta luôn nhìn tôi. Đăm đăm nhìn. Trong
lúc đưa
chúng tôi đi lao động, anh ta nói: "Đội Trưởng, tôi sẽ lấy cô". Tôi
trả lời: "Vô lý, quản giáo. Anh không thể làm điều đó". "Để rồi
coi". Bạn tưởng tượng nổi không? Anh ta cai tôi hai năm trời. Và tôi
không
hề đáp lại. Tôi thực không thích bạn. Anh ta đợi tôi thêm ba năm. Tôi
vẫn quay
lưng. Rồi cái ngày ấy tới. Lao động về, tôi nhìn thấy giấy ra trại trên
chiếc
gối. Đau đớn làm sao. Tôi nghĩ: Đi đâu bây giờ? Họ đưa bạn tờ giấy, dẫn
bạn ra
ngoài, và bạn chẳng có một căn phòng, chẳng có gì hết. Muốn đi đâu thì
đi, nếu
có thể. Chuyện như vậy đó, bạn biết không. Nếu tôi có một nơi để mà
đi... nhưng
làm sao tôi rời đi. Tôi ngồi trên giường, gỡ băng "Đội Trưởng" đưa
cho người khác. Tôi bảo cô ta đừng nói cho anh cai tù mê tôi, tôi được
thả.
Nhưng tới cổng, anh đợi tôi ở đó. Tôi ôm cái bị nhỏ, món quà mừng ngày
được
tha. Gia tài chút xíu. Anh trờ tới: "Đội Trưởng, để tôi mang giùm."
"Tôi đâu còn là đội trưởng nữa", nhưng tôi đưa anh cái bị, và bạn
biết đấy, ngu đần như con cừu, tôi đi theo anh. Anh đã xoay xở được một
căn
phòng. Khi tới, úi trời, tôi thấy người quản giáo. Ông mướn phòng chung
sống
với người đàn bà quản trại tôi. Bà ta nói: "Lúc nào cũng nghe anh khoe,
anh chài được cô gái xinh đẹp, bây giờ cô ta đây này!" Họ bắt đầu uống.
Những ngày đó, ngoài uống ra đâu còn gì. Họ uống. Tôi không làm sao
uống nổi:
họ đưa tôi nhấp thử một hụm và tôi gần nghẹt thở. Họ cười nhạo tôi.
Người đàn
ông "của tôi" kiếm chỗ nằm, và người đàn bà nói: Còn cô này nữa, ngồi
đây làm gì? "Bà nói chi?"
Tôi ngồi bàn suốt đêm. Nhưng, là anh ta. Biết làm sao khác? Tôi
cũng quen dần. Tôi chịu đựng cắn rứt, dằn vặt ròng rã ba mươi năm. Cuối
cùng ly
dị. Anh tìm về làng cũ ở vùng Trung Nga, và chết ở đó. Anh uống tới
chết. Còn
trơ tôi ở đây.
Hai lầm lỗi
lớn nhất trong thế kỷ 20 là Holocaust và Gulag. Danh từ Gulag đồng âm
với
Archipelago (Arkhipelag Gulag) đến từ chủ trại tù Solovki, Gulag đầu
tiên trên
đảo Kolovetsky, tên Degtyarev, ông này chuyên bắn và giết tù nhân được
tặng biệt
danh “nhà giải phẫu trại tù”.
Nhà văn Solzhenitsyn nghe danh từ Gulag từ
tù nhân
khoa học gia Dimitry Likhachev ở nhà tù Silovki.
Việt Nguyên: [Chôm] Từ bàn viết Houston
Mấy chi tiết
trên, là từ bài viết của Michael Scammell, trên tờ NYRB, số mới nhất 28
Tháng
Tư, 2011. TV giới thiệu.
Gấu sợ rằng, cái tay Vịt Nguyên này, chôm từ TV, mà vờ
luôn, không phải Gấu, mà là Michael Scammell, người điểm cuốn Voices from the
Gulag, do Solz biên tập.
Chôm nhanh
thật!
Tay này, qua
tờ Người Vịt cho biết, là 1 bác sĩ, không hiểu có phải bác sĩ phẫu
thuật không?
Holocaust và
Gulag mà là hai “lỗi lầm” ư?
Chắc cũng giống
như “chôm" thôi mà!
Tay chủ báo,
biệt danh “Ông Số 2”, cũng nhanh chân lẹ tay lắm, không thua gì cộng
tác viên!
NQT
De
Profundis:
Each
indignity visited upon a human being, each torture, is irreducibly
singular and
inexpiable. Every time a human being is flogged, starved, deprived of
self-respect, a specific black hole opens in the fabric of life. It is
an
additional obscenity to depersonalize inhumanness, to blanket the
irreparable
fact of individual agony with anonymous categories of statistical
analysis,
historical theory, or sociological model-building. Consciously or not,
anyone
who offers a diagnostic explanation, however pious, or even
condemnatory,
erodes, smoothes toward oblivion, the irremediable concreteness of the
death by
torture of this man or that woman, of the death by hunger of this
child.
Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the minute particular. As
happens
with Dante and Tolstoy, proper names cascade from his pen. He knows
that if we
are to pray for the tortured dead, we must commit to memory and utter
their
names, by the million, in an incessant requiem of nomination.
Mỗi một sự sỉ
nhục, mỗi một sự tra tấn giáng lên một con người là một trường hợp
riêng lẻ
không thể giản đơn và không thể đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh
đập, bị
bỏ đói, bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm lại mở toạc ra
trên tấm
dệt đời. Đây
là một sự bẩn thỉu bồi thêm, làm
cho sự phi nhân không còn có tính cá biệt, và phủ lên sự vô phương sửa chữa, về cơn hấp hối
của từng cá nhân, bằng đủ thứ
phạm trù vô danh về nghiên cứu thống kê, về lý thuyết lịch sử, hay xây
dựng mẫu
mã xã hội. Cố ý hay không, bất cứ người nào tìm cách đưa ra một lời
giải thích
chẩn đoán, dù có đầy thiện ý cách nào, hoặc ngay cả chỉ trích đi nữa,
cũng làm
tiêu hao, bào nhẵn đến gần như quên béng đi tính cách cụ thể không thay
đổi được
về cái chết do sự tra tấn của ông này, bà kia, hoặc cái chết vì đói
khát của em
bé nọ …
Cụm từ khó
hiểu nhất, của đoạn trên, là “to
depersonalize
inhumanness”. Theo Gấu, nó liên quan đến cụm từ sự “tầm phào của cái
ác”, của
Arendt, và nó cũng giải thích sự khác biệt giữa hai chế độ VNCH và VC
Miền Bắc.
Những
phát giác sau đây, có tính cách riêng tư, và là kinh nghiệm cá nhân mà
G đã trải
nghiệm, thời gian làm cho “chế độ mới” sau 30 Tháng Tư, đâu được vài
tháng, trước
khi bị đá đít, từ văn phòng bên trong Bưu Ðiện, Sài Gòn, ra vỉa hè làm
1 tên viết
mướn.
Nó
cũng giải thích tại làm sao một ông thủ tướng 1 nước Tây Phương, thí
dụ, phải tự
mình làm đơn xin từ chức, khi để xẩy ra những vụ việc nghiêm trọng,
trong khi Tấn Dũng VC
nhà ta thì cứ mặt dầy, chẳng “tôi xin lỗi”, và “tôi xin tự biếm” - tự
biếm,
không phải tự thiến, như phê bình gia-tên hoạn quan!
Có thể, có
người vặn hỏi, những chi tiết trên,
về nguồn gốc của từ "quần đảo", có thể "tay VN này" cũng đọc tờ NYRB,
tại làm sao mà
dám quả quyết, là từ TV?
Gấu đã check lại. Người xì
cái nick
của ông "bác sĩ giải phẫu của trại tù", cho Solz, là 1 nhà khoa bảng
ngữ văn, the
distinguished St. Petersburg philologist, Academician Dmitry Likhachev.
Gấu dịch
là nhà khoa bảng ngữ văn nổi tiếng, Academician Dmitry Likhachev, một
cựu tù
Solovski. Tới ông Vịt, chôm, nhưng “chệch đi 1 tí”, để xóa nguồn TV,
là “tù
nhân khoa học gia” Dimitry Likhachev.
Trong bài viết
của tay này, có rất nhiều chi tiết chôm từ những tác giả khác, nhưng
không ghi
rõ nguồn, thí dụ, “… năm 2003 bà Anne Applebaum viết rõ: “Gulag là hệ
thống lao
động, nô lệ, trại lao động, trại trừng phạt, trại giam phụ nữ, trại tù
chính trị,
tội phạm. Gulag từ chữ G viết hoa, đổi thành danh từ gulag (chữ g viết
thường)
đồng nghĩa với hệ thống áp bức Sô Viết, một nhà tù nhỏ trong nhà tù vĩ
đại là
Sô Viết nhà tù không hàng rào kẽm gai. Tù nhân vào Gulag như vào máy
xay thịt
“bị bắt, phỏng vấn, tù nhân bị chở trong…” , ông ta không cho biết
trích từ cuốn
nào, và cách giải thích, “từ G qua g”, nhảm.
Cũng thế,
cái đọan Lara trở về Nga khóc, theo Gấu, có thể trích từ bài viết trên Điểm
Sách London, [Michael Wood điểm bản dịch mới nhất tiếng Anh, mới
ra lò],
nhưng ông ta cũng không ghi nguồn: “họ yêu nhau vì mọi sự chung quanh
muốn họ
yêu nhau: đất dưới chân, bầu trời ở trên cao, mây, cây cối, rừng và hầu
như mọi
sự chung quanh vui với tình yêu của họ hơn là chính họ”. (1)
Cái câu trứ
danh của Pasternak, “người ta sinh ra để sống, chứ không phải để sửa
soạn sống”,
chửi bố cái bánh vẽ “Ngày mai ca hát”, của CS, ông ta dịch thành quái
thai,
“con người sinh ra để sống, không sửa soạn trước cho cuộc đời”!
GNV không hề
biết tay Vịt Nguyên này, nhưng nhân tiện bài nhảm nhí của ông ta, bèn
làm 1 cái
“kháng thư”, tố cáo cái trò “viết”, thực ra là “chôm”, từ đủ thứ nguồn
của đám
nhà văn hải ngoại.
Viết về Coetzee, thí dụ,
bèn lên net, đọc loáng thoáng vài
bài điểm sách, giới thiệu, ở Nữu Uớc Thời Báo, Guardian… bài nào, đoạn
nào dễ dịch,
bèn chôm, thành của Mít, của chính ông ta! Viết phiếm, tạp, như ông Vịt
này,
hay ông Vịt khác, thường là theo kiểu đó, chôm đủ thứ information, hay
mẩu viết,
hay tin giật gân… dán thành 1 bài của Mít. Vậy mà có ông còn được ông
bạn thơ của
GNV, là Du Tử Mận [Lê không, Táo không thì Đào, hay Mận vậy!] xưng
tụng, đây là
võ công Ba Tư, chắc chẳng thua Càn Khôn Đại Nã Di của Minh Giáo!
Trên TV sở
dĩ Gấu phải đễ rõ nguồn, cũng là vậy. Cũng chôm, [bỏ tiền mua
báo, dịch tưới, đếch thèm xin phép, biệt kích văn hóa mà!] nhưng cho
biết nguồn
chôm, để
độc giả đọc nguyên văn, có gì chất chính v/v dịch sai, hiểu sai…
Một vị độc giả
ở trong nước, qua vụ Gió O, nhắc nhở Gấu, là "điều tiết" cái giọng mục
hạ vô nhân
đi 1 tí. Nghe thì vâng dạ, ghi nhận, nhưng ra đòn hung dữ như vậy, mà
có thay đổi
gì được đâu. Chôm vẫn chôm, phán liều phán ẩu vẫn phán.
Bỗng nhớ 1
ông chuyên nghề chôm, nhưng xào nấu lại, thành của ông ta, gửi cho 1 tờ
tuần
báo ở Mẽo mà ông ta giữ mục tạp ghi thường trực, cũng cái kiểu “viết từ
Houston”, 50 đô 1 bài. Lần đó, gấp quá, ông chơi luôn 1 bài gửi đi, và
tác giả, được bạn thân cho biết, bực quá, la lên: Tôi không muốn la
lên, nhưng
chỉ sợ ông ta nổi tiếng quá, vì là tác giả rất nhiều tác phẩm, thì
thiên hạ lại
nghĩ, tôi mới là tên ăn cắp.
Ông này viết
thư xin lỗi, và nói thẳng, cũng bảnh thật, tôi vốn chuyên gia xào nấu,
nhưng kỳ
này do vội quá, chôm nguyên con, xin bạn tha lỗi cho!
(1)
They loved
each other because everything around them wanted it so: the earth
beneath them,
the sky over their heads, the clouds and trees. Everything around them
was
perhaps more pleased by their love than they were themselves. Strangers
in the
street, the distances opening out during their walks, the rooms they
lived or
met in ... Never, never, even in moments of the most gratuitous,
self-forgetful
happiness, did that most lofty and thrilling thing abandon them:
delight in the
general mould of the world, the feeling of their relation to the whole
picture.
Trong văn chương
có hai loại chôm, một, của thiên tài, và một, của thằng ăn cắp.
Chưa nói đến thứ
chôm của biệt kích văn hóa như Gấu.
Cái kiểu chôm của đám Mít hải ngoại, như trên,
là của những tên ăn cắp.
Còn cái chôm của thiên tài, là như của Nguyễn Du, thí
dụ.
Bà Huệ khen NTHL còn hơn cả Nguyễn Du, vì thiên tài NTHL móc từ tim từ
ruột, từ
bao tử Mít mà viết ra, còn Nguyễn Du, chôm của Tầu.
Mít
chỉ có mỗi 1 thứ, đặc của Mít, không ai bắt chước được, là Cái Ác Bắc
Kít. So với
nó Cái Ác Nazi còn thua, vì Nazi làm thịt Do Thái, còn anh Bắc Kít nhè
thằng em
ruột Nam Bộ mà làm thịt!
Gấu
nghe bà chủ quán Gió O phán như thế cũng nhiều lần rồi. Đã tính bữa nào
đẹp trời
đi 1 đường lèm bèm, nhưng cũng sợ, bà này dữ lắm, đừng có đụng tới.
Nhưng, bữa
nay, nhân dịp 10 năm "Gió To", bèn viết ra, vì,
thiển nghĩ, đại lễ, chắc bà đại xá!
Trước hết, cần
phải "lập ngôn" như thế này:
Không thể có văn chương nếu không có chôm chĩa, đạo
văn, mà người có học nói 1 cách lịch sự, là, "ảnh hưởng".
Mới đây thôi,
Gấu đọc 1 bài viết của 1 tay rất nổi tiếng, nhưng sơ ý không ghi lại.
Tay này điểm
1 tác giả khác, bảnh hơn ông ta nhiều, nhưng do bảnh quá, thành ra
người trần mắt
thịt không đọc được, và cứ thế chìm vào quên lãng.
Cái tay nổi
tiếng, phán, ui chao, sao mà uổng quá, giá mà tôi được đọc ông này sớm
1 chút,
thì đã được tí ảnh hưởng, và viết, chắc là bảnh hơn nhiều, so với những
gì đã
viết ra.
Tuyệt!
Đây là 1
trong 3 búa mà TTT chỉ cho thằng em Gấu:
Muốn viết văn
là phải kiếm ra Thầy!
Không có thứ
văn chương không có Thầy, nếu đúng là văn chương!
Nhưng phải là
Borges, phán, mới bảnh, và là luận cứ
sau chót của chuỗi luận cứ trên:
Học trò khám phá ra Thầy,
không phải Thầy khám
phá ra học trò.
Tuyệt cú
mèo!
"Nhà
phê bình cần tri thức và bản lĩnh. Tôi thấy mình có cả hai." Phạm Xuân
Nguyên đã nói một câu rất ngạo như thế.
Nguồn Blog
NDB
Bảnh thật.
Phán như thế mới là phán, và chẳng cần “điều tiết” làm khỉ gì nữa.
Hai lầm lỗi
lớn nhất trong thế kỷ 20 là Holocaust và Gulag. Danh từ Gulag đồng âm
với
Archipelago (Arkhipelag Gulag) đến từ chủ trại tù Solovki, Gulag đầu
tiên trên
đảo Kolovetsky, tên Degtyarev, ông này chuyên bắn và giết tù nhân được
tặng biệt
danh “nhà giải phẫu trại tù”.
Nhà văn Solzhenitsyn nghe danh từ Gulag từ
tù nhân
khoa học gia Dimitry Likhachev ở nhà tù Silovki.
Việt Nguyên: [Chôm] Từ bàn viết Houston
Mấy chi tiết
trên, là từ bài viết của Michael Scammell, trên tờ NYRB, số mới nhất 28
Tháng
Tư, 2011. TV giới thiệu.
Gấu sợ rằng, cái tay Vịt Nguyên này, chôm từ TV, mà vờ
luôn, không phải Gấu, mà là Michael Scammell, người điểm cuốn Voices from the
Gulag, do Solz biên tập.
Chôm nhanh
thật!
Tay này, qua
tờ Người Vịt cho biết, là 1 bác sĩ, không hiểu có phải bác sĩ phẫu
thuật không?
Holocaust và
Gulag mà là hai “lỗi lầm” ư?
Chắc cũng giống
như “chôm" thôi mà!
Tay chủ báo,
biệt danh “Ông Số 2”, cũng nhanh chân lẹ tay lắm, không thua gì cộng
tác viên!
NQT
Circles of
Hell
Michael
Scammell
Voices from the Gulag
edited by
Aleksandr Solzhenitsyn
and
translated from the Russian by Kenneth Lantz.
Northwestern
University Press, 414 pp., $29.95 (paper)
Gulag Voices: An Anthology edited by
Anne
Applebaum.
Yale
University Press, 195 pp., $25.00
The Victims
Return: Survivors
of the Gulag After Stalin
by
Stephen
F. Cohen.
Publishing
Works, 216 pp., $22.95
Gulag Boss: A Soviet Memoir
by Fyodor
Vasilevich Mochulsky,
translated from the Russian and edited by Deborah Kaple.
Oxford University Press,
229 pp.,
$29.95
Cái từ "quần đảo",
trong cụm từ "Quần đảo Gulag", ở đâu mà ra?
Trước giờ, Gấu cứ nghĩ, từ
"quần đảo" này, là để chỉ những đảo nho nhỏ,
là những
trại tù, ở rải rác trên đại dương lớn lao, là nước Nga khổng lồ.
Thì đúng như
thế, nhưng chưa bao giờ Gấu này băn khoăn, ai là người đầu tiên nghĩ
ra, vì đinh
ninh, Sozhenityn chứ còn ai vào đây nữa.
Michael
Scammell, tác giả cuốn tiểu sử Koestler, cũng nghĩ như vậy.
Trong bài điểm một
số tác phẩm về Gulag, Những Tầng Địa Ngục, Circles
of Hell, trên NYRB, 28.4.2011, ông nghĩ, nó từ trí tưởng tượng của
Solz mà ra, để ăn
nhịp với từ Gulag.
Từ này cũng rất ư là quái đản, bởi vì không ai có thể ngờ được,
cái bóng khủng khiếp của nó phủ lên cả nửa trái đất, còn nửa kia, thuộc
về
Holocaust, và cả hai, bi giờ, đi vô từ điển, không viết hoa, trở thành
1 từ thông thường, để bao gồm tất cả những hình thức tương tự, những
“hậu duệ”
của chúng.
Trong bài viết, ông cho
biết, chủ nhân đích thực của từ “quần đảo”, trong cái nhịp đầy đủ
bằng tiếng Nga của nó, Arkhipelag Gulag, là từ một câu nói phét của 1
ông trùm
sa đích, a sadistic boss, tên là Degtyarev, Trùm Solovski, một trại tù
Gulag lớn
nằm trên quần đảo Solovetsky Islands, Bạch Hải, White Sea, không xa Bắc
Cực,
Arctic Circle.
Kiệt tác
của Degtyarev, là tuyển chọn những tù
nhân đích thân hành quyết, và xử bắn. Vì vậy mà
hắn có cái nick là “Bác sĩ Phẫu thuật của Trại”, ‘camp surgeon’. Hắn
còn
nhiều nick khác nữa, [chắc không thua Tướng Givral, bạn của GNV] thí
dụ:
Chỉ
huy trưởng
Lực Lượng Quần Đảo Solovetsky [Commander of the Forces
of the Solovetsky Archipelago].
Khi
Solz. nghe được nick này, từ một nhà
khoa bảng ngữ văn nổi tiếng, Academician Dmitry Likhachev, một cựu tù
Solovski,
ông tóm liền vì là một ẩn dụ tuyệt hảo cho đề tài, và đi vào cái tít
cuốn sách,
thật ăn nhịp với từ Gulag.
*
Qua Những
tầng địa ngục, Scammell cho biết,
Solz được gợi hứng viết The Gulag
Archipelago, một phần là vì số lượng thư khổng
lồ, và những hồi ký mà ông nhận được, sau sự xuất bản không trông mong,
chờ đợi,
the unexpected publication, vào năm 1962, ở Liên Xô, cuốn tiểu thuyết
viết về
trại tù lao động của ông, Một ngày
trong đời Ivan Denisovich.
Ông dựa vào trên
hai trăm accounts [tạm dịch: “hồ sơ”], để viết nó, và những cuộc phỏng
vấn, nhiều
như là ông có thể, những cựu tù, sau khi ‘chôm’được, từ nhà khoa bảng
Likhachev,
cái hình ảnh tuyệt vời “quần đảo”.
Cả bộ sách khổng lồ là sự
lập đi lập lại của
từ này, hình ảnh này, như D.M. Thomas, người viết tiểu sử Solz cho
thấy. (1)
Nhưng Solz
không thể nào nêu tên những cựu tù, khi viết và cho xb Gulag.
Và Voices
from the Gulag, là một bản đính kèm của Gulag.
Vào năm 2001, Solz đã cho xb chứng thực, testimony, của 7 trong số
những người đó,
trong 1 cuốn nhan đề Pozhivshi vs GULAGe
[tạm dịch qua tiếng Anh –Scammell viết – là “Survivors of the Gulag”,
Những kẻ
sống sót Gulag, và bây giờ, được dịch qua tiếng Anh, “Voices from the
Gulag”.
Tại
sao phải nêu tên?
Bởi
vì:
Những người đã chết đều có thực.
TTT.
Đâu
có phải ‘tự nhiên’ mà "ông số 2" chôm câu thơ của TTT.
Phải là thi sĩ như "ông số 2", mới nhìn ra "ông số 1"!
Đã
có thời,
Gấu thèm cái số đỏ của “ông số 2”: cùng học 1 trường, truờng Nguyễn
Trãi, Hà Nội,
cùng promotion, cùng vào làng… văn một thời, có đủ hết, chẳng thiếu 1
thứ.
Ui chao, hóa
ra ông cũng cần 1 thứ mà không làm sao có được, là chỉ độc nhất 1 câu
thơ, của
"Ông Số Một”, để làm cái tít cho một bài viết chửi VC, về cái sự Đại Ác
của
chúng!
Những người “đã
sống”, đều có thực!
Một câu thơ,
mà khủng đến như thế!
Cũng ý đó,
Steiner, vinh danh Solz, qua bài viết De
Profundis:
Each
indignity visited upon a human being, each torture, is irreducibly
singular and
inexpiable. Every time a human being is flogged, starved, deprived of
self-respect, a specific black hole opens in the fabric of life. It is
an
additional obscenity to depersonalize inhumanness, to blanket the
irreparable
fact of individual agony with anonymous categories of statistical
analysis,
historical theory, or sociological model-building. Consciously or not,
anyone
who offers a diagnostic explanation, however pious, or even
condemnatory,
erodes, smoothes toward oblivion, the irremediable concreteness of the
death by
torture of this man or that woman, of the death by hunger of this
child.
Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the minute particular. As
happens
with Dante and Tolstoy, proper names cascade from his pen. He knows
that if we
are to pray for the tortured dead, we must commit to memory and utter
their
names, by the million, in an incessant requiem of nomination.
Mỗi một sự sỉ
nhục, mỗi một sự tra tấn giáng lên một con người là một trường hợp
riêng lẻ
không thể giản đơn và không thể đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh
đập, bị
bỏ đói, bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm lại mở toạc ra
trên tấm
dệt đời. Đây
là một sự bẩn thỉu bồi thêm, làm
cho sự phi nhân không còn có tính cá biệt, và phủ lên sự vô phương sửa chữa, về cơn hấp hối
của từng cá nhân, bằng đủ thứ
phạm trù vô danh về nghiên cứu thống kê, về lý thuyết lịch sử, hay xây
dựng mẫu
mã xã hội. Cố ý hay không, bất cứ người nào tìm cách đưa ra một lời
giải thích
chẩn đoán, dù có đầy thiện ý cách nào, hoặc ngay cả chỉ trích đi nữa,
cũng làm
tiêu hao, bào nhẵn đến gần như quên béng đi tính cách cụ thể không thay
đổi được
về cái chết do sự tra tấn của ông này, bà kia, hoặc cái chết vì đói
khát của em
bé nọ …
Cụm từ khó
hiểu nhất, của đoạn trên, là “to
depersonalize
inhumanness”. Theo Gấu, nó liên quan đến cụm từ sự “tầm phào của cái
ác”, của
Arendt, và nó cũng giải thích sự khác biệt giữa hai chế độ VNCH và VC
Miền Bắc.
Những
phát giác sau đây, có tính cách riêng tư, và là kinh nghiệm cá nhân mà
G đã trải
nghiệm, thời gian làm cho “chế độ mới” sau 30 Tháng Tư, đâu được vài
tháng, trước
khi bị đá đít, từ văn phòng bên trong Bưu Ðiện, Sài Gòn, ra vỉa hè làm
1 tên viết
mướn.
Nó
cũng giải thích tại làm sao một ông thủ tướng 1 nước Tây Phương, thí
dụ, phải tự
mình làm đơn xin từ chức, khi để xẩy ra những vụ việc nghiêm trọng,
trong khi Tấn Dũng VC
nhà ta thì cứ mặt dầy, chẳng “tôi xin lỗi”, và “tôi xin tự biếm” - tự
biếm,
không phải tự thiến, như phê bình gia-tên hoạn quan!
Hà,
hà!
(1)
NQT
& Quyên @ Cali,
2003
Ẩn dụ
Lò Cải Tạo, cái sườn
của tất cả những gì được viết ra ở đây.
[Mô phòng: Ẩn dụ Quần Đảo,
cái sườn tác phẩm, trở đi trở lại, và là tít của nhiều chương: Những
Con Tầu
của Quần Đảo, Những Bến Tầu của Quần Đảo, Từ Đảo tới Đảo, Quần Đảo Mọc
Lên Từ
Biển.
D.M Thomas: Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong ta].
Hãy cẩn
thận, về điều này:
Anh chiến đấu vì cái gì - và có thể nhờ vậy, anh sẽ có được nó.
Châm ngôn Nga.
D.M Thomas trích dẫn, sđd
Tribute to Solz
Câu châm
ngôn Nga, 1 cách nào đó, là 1 ẩn dụ tuyệt vời về cuộc chiến Mít.
Anh chiến đấu vì cái gì:
Vì lý tưởng
nước Mít là Một [C'est un UN, như Bác H phán]
Anh sẽ có được:
Lò Cải Tạo.
Một nước
Mít băng hoại, của một lũ ác nhân
Hãy cẩn thận!
Cẩn thận cái
gì nữa!
Gấu đọc Dr
Zhivago, bản tiếng Việt của Mặt Trận
Bảo Vệ Văn Hóa gì gì đó quên mẹ nó mất rồi. Bản của NHH là dịch lại,
với cái
tên Vĩnh Biệt Tình Em, nhân dịp cuốn
phim chiếu ở Sài Gòn, hình như vậy.
Đúng là 1 cuốn sách gối đầu giường của Gấu.
Bà cụ thân sinh của nhà thơ TTT cũng quá mê cuốn này. Hai bà cháu có
khi gần
như thức suốt đêm để… khen Lara.
Nhờ đọc cuốn
sách, khi điểm cuốn Sau Cơn Mưa của
Lý Hoàng Phong, bài đọc sách đầu tiên trong đời, hẳn vậy, khi TTT kêu
Gấu viết
cho tờ Dân Chủ của Vũ Ngọc Các, Gấu
bèn coi cô Hà trong đó, cũng là 1 Lara mũi tẹt, và SCM chỉ là một phác
thảo của Dr Zhivago của Mít.
RUSSIA: THE WILD EAST
Russia:
Miền
Đông Hoang Dã
RUSSIA: THE WILD EAST
Yevgeny
Kupchenko
Cư dân lâu đời
nhất của Trại Tù Norilsk, Yevgeny Kupchenko bị bắt năm 1936 và bị buộc
tội làm
do thám cho Nhật. Vào lúc đó, ông là một nông dân mù chữ. Ông là 1
trong những
nhóm đầu tiên ngược dòng Yenisei River tới Norilsk. Vào giữa thập niên
1930, Liên Xô vẫn còn huênh hoang bá láp về triết lý cách mạng cải tạo,
phục
hồi nhân phẩm, thông qua lao động và niềm vui được là những“công nhân”
thực thụ.
Học Tập Cải
tạo? Ai? Tù nhân. Học bằng dùi cui, không phải bằng chữ. Tại sao nói
với tù nhân,
nói để làm gì cơ chứ, và nói cái gì? Bạn nghĩ chúng sẽ nói: “Chúng ông
sẽ dạy
cho chúng mày trở thành những người CS tốt?” Chẳng bao giờ chúng,
những tên quản giáo nói với chúng tôi. Chẳng có ma nào nói với chúng
tôi. Có một
ban “giáo dục văn hóa” ở trại tù, ở đó, họ trao cho chúng tôi những lá
thư của
chúng tôi. Tôi phải đưa tất cả thư từ cho “ban” này để chúng đọc, và
nếu chúng
thích, thì chúng sẽ cho phép gửi đi….
GRANTA
THE RIVER
POTUDAN
Andrei
Platonov
TRANSLATION
BY ROBERT AND ELIZABETH CHANDLER AND ANGELA LIVINGSTONE
The River
Potudan
Grass had
grown back on the trodden-down dirt tracks of the civil war, because
the war
had stopped. With peace the provinces had grown quiet again and there
were
fewer people: some had died in the fighting, many were being treated
for their
wounds and were resting with their families, forgetting the heavy work
of the
war in long sleep. Demobilized men in old greatcoats were still making
their
way home, carrying kitbags and wearing helmets or sheepskin
caps-walking over
the thick unfamiliar grass which there had not been time to see before,
or
maybe it had just been trampled down by the campaigns and had not been
growing
then. They walked with faint, astonished hearts, recognizing afresh the
fields
and villages that lay along their path. Their souls had been changed by
the
torment of war, by illness and the happiness of victory, and it was as
if they
were approaching life for the first time, dimly remembering themselves
as they
had been three or four years ago. They were older and had grown up,
they had
become wiser and more patient and had started to feel inside themselves
the
great universal hope which had become the idea of their lives-lives
that were
still young and which, before the civil war, had had no clear aim or
purpose.
In the late
summer of 1921 the last demobilized Red Army soldiers were dispersing.
They had
been kept back on the labor teams, working at unfamiliar trades,
feeling
homesick; only now had they been told to go home to their own lives and
to life
in general.
A former Red
Army soldier, Nikita Firsov, on his way home to an obscure provincial
town, had
been walking for more than a day now along a ridge that stretched
beside the
River Potudan. Nearly twenty-five years had passed since this man's
birth, and
he had a modest face that seemed permanently sorrowful-though this
expression
may have been caused not by sadness but by some restrained goodness of
character or, perhaps, simply the intensity of youth. From under his
cap his
fair hair, which had not been cut for a long time, hung down to his
ears, and
his large grey eyes gazed anxiously at the monotonous landscape, as if
the man
on foot were not from these parts.
At noon
Nikita Firsov lay down beside a small stream that flowed along the
bottom of a
gully and down into the Potudan. He dozed off on the earth, under the
sun, in
September grass that had....
Đọc truyện
này, Gấu cũng nhớ tới mấy truyện ngắn của “bạn của Gấu”, là TTH, và
truyện, ký, đúng hơn, "Nổi chìm một thị xã" của Nguyễn Quang Lập,
viết về Quảng Trị....
Truyện dưới đây, Gấu thấy ở Diễn Đàn
Forum, lâu rồi, nay post lại,
tính đi một đường lèm bèm, nhưng sợ hư mất truyện, chỉ lọc ra vài câu,
tuyệt
bút, với riêng Gấu.
Cỏ léc vẫn rập rờn xanh biếc
một màu, ngàn ngàn lớp sóng xô đuổi
nhau chạy qua, xôn xao, khấp khởi. Heo may thổi lồng lộng buốt lên tận
óc. Lại
mưa phùn hay đổ vào buổi chiều tối, giăng mắc lên làng mạc một màn
sương mờ dày
đặc....
Trong hơi may, trên những triền đồi hoang chỉ còn độc mỗi lũ trẻ chăn
trâu.
Chúng co ro trong áo tơi, da tái xám giữa lồng lộng gió. Trên muôn
triệu lá léc
xanh xuyên qua lớp lớp mưa phùn là trong trẻo, là réo rắt, là huyền
hoặc tiếng
sáo. Chưa bao giờ tiếng sáo nổi (1) niềm da diết đến thế. Không đứa nào
lên
tiếng. Chúng nắm chặt tay nhau nhìn về hướng ngôi nhà nhỏ bên kia đồi.
Phía đó,
một làn khói bếp mỏng bay lên, vẽ một đường cong mềm mại, rồi tỏa tỏa
vào trong
chiều muộn.
(1) Nguyên là "nỗi", Gấu sửa
lại là "nổi", sử dụng như một
động từ, giống như "trổi", không biết có đúng ý của người xưa hay
không?
NQT
Heo may thổi lồng lộng buốt
lên tận óc làm Gấu nhớ đến câu thơ của Gấu,
làm khi vừa đến đất lạnh ải Bắc, đầu địa cầu:
Đi trong
gió,
Nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay
Trong văn chương,
Nga có một truyền thống lớn lao, có lẽ vĩ đại nhất, của chủ nghĩa hiện
thực, và
có vẻ như nó đang giậm chân tại chỗ. Có lẽ là do thực tại tự thân nó
thì quá bát
nháo, và sự thực về nó thì không còn bị kìm nén nữa, những nhà văn mới
của Nga
xoay qua mê thứ biếm văn, và quái văn có tính ẩn dụ, những hình thức
văn học mà
một khi mất nội dung xã hội, chúng có thể đối mặt với khó khăn, khi
vượt qua
những xã hội khác, ngôn ngữ khác. Trong số Granta này có một trường hợp
cho thấy
sự vượt biên này thành công: Truyện ngắn của Victor Pelevin. Còn 1
truyện, tương
phản với truyện trên, mới được dịch, của Andrei Platonov, mất năm 1951,
hầu hết
tác phẩm bị biếm cho đến những năm cuối cùng của chế độ Xô Viết. Chỉ
tới thập
viên vừa qua thì mới được "tái nhận diện" – nhưng cũng không được rộng
rãi
cho lắm – như là một trong những nhà viết văn xuôi tuyệt hảo nhất của
thế kỷ này.
Truyện ngắn “Sông Potudan” quả là hớp hồn người đọc, ở cái sức mạnh
trầm lặng và
sự thành thực; được viết vào một kỳ mà có vẻ như tương lai đã chiến
thắng.
GNV đọc lời
giới thiệu, tò mò đọc truyện, và quả thực bị nó hớp hồn.
Thật kỳ cục,
nó còn Gấu nhớ đến 1 truyện ngắn của Bảo Ninh, (1) viết về những ngày
cận
kề, trước
và sau 30 Tháng Tư 1975 ở Sài Gòn. Đọc, Gấu cũng có cái cảm tưởng, hình
như
tương lai đã chiến thắng. Truyện của Bảo Ninh không tới bằng cái truyện
“Sông
Potudan”, vì truyện của tay Nga này, là một truyện tình
Một truyện tình tuyệt
vời. Lạ lắm, tuyệt lắm, khó nói lắm.
TV sẽ scan, và post, và sẽ cố dịch, như là kỷ niệm ngày
30 Tháng Tư năm nay, nếu sau này, Tháng Tư sang năm, thí dụ, có dịp
nhìn lại.
(1)
Rửa Tay Gác
Kiếm
Đọc truyện này, bạn cũng có cảm tưởng tương lai đã chiến thắng.
Note:
Đăng trên báo Nhân Dân, chắc cũng từ
hồi mới phỏng dái, dùng font chữ thời tiền sử, Gấu mới vớ được trong hồ
sơ cũ,
đánh vật với nó một tua, mới chuyển qua đuợc Unicode.
Gửi “bạn ta”, cùng những ngày ở Hà Nội. Nhớ, lần đó, đó, bạn ta gọi
“anh Gấu”,
xưng “em” thật chân tình. Cảm động thật!
Nhớ mua một cuốn Istanbul,
đọc song song với cái truyện này.
Thú thực, khi dịch nó, Gấu chỉ nhớ Sài Gòn, như Sài Gòn trong truyện
này.
Khi bạn ta nằm dưới cơn mưa Da Cam
thì cũng
lúc đó, Gấu đang gửi những bức hình ghi cảnh máy bay thả mưa Da Cam.
Đẹp vô cùng.
Như giấc mơ hậu chiến, ở trong truyện này.
Thân.
NQT
UNDER EASTERN EYES
Dưới mắt Đông
phương
RUSSIA: THE WILD EAST
Russia:
Miền
Đông Hoang Dã
INTRODUCTION
Russia is
the largest country in the world-a sixth of its land mass-with a record
of
upheaval, terror and bloodshed unparalleled in this century. First, the
revolution of 1905, bloodily suppressed; then the revolution of 1917,
bloodily
won; then Stalinism, with millions killed in its forced migrations,
exterminations and prison camps; and (concurrent with the last)
invasion by
Germany and a war in which upwards of twenty million Soviet citizens
died.
Finally, after decades of sacrifice which turn the Soviet Union into a
military
rival of the United States, acknowledgement that it has all been for
nothing,
that capitalism and liberal democracy have won; and with their victory
comes
the shredding of a state, an empire, a way of living and thinking-and
pre-revolutionary levels of social inequity. To be a Russian old enough
to have
lived through most of this is to know extremes of hardship and
disillusion that
other people, at least in other industrialized nations (even Germany),
can
barely imagine. As Anatol Lieven writes in his new book on the recent
Chechen
war, Chechnya: Tombstone of Russian Power: 'To most of its inhabitants
the
Soviet Union was more than just a civilization, or a warped version of
modernity. It was indeed a world, the only one they knew, and-according
to its
founders and mentors-the greatest of all worlds, the summit of human
history,
knowledge and achievement.'
'Reform' is
the word that the West has attached, optimistically, to Russia's new
condition,
in which taxes and wages go unpaid, gross domestic product and
life-expectancy
decline, the rouble crashes and inflation (in 1998) runs at 200 per
cent; where
fear of the state and its laws has been replaced by corruption, crime
and
ruthless self-interest-'bandit capitalism'. These are, as Lieven
writes, not so
much unfortunate by-products of 'reform' as the phenomena at the very
heart of
it. If the Russian people were not so soured, confused and exhausted by
their
experience of ideology, one might be tempted to say that, once again,
they
looked ripe for revolution.
In
literature, Russia has a great, perhaps the greatest, tradition of
realism,
which seems to have come to a temporary halt. Perhaps because reality
itself is
now so quicksilver and the truth about it no longer repressed, new
Russian
writers often favor satire and allegorical fantasy, forms which, when
they lose
their social context, can face a difficult crossing to other societies
and
languages. This issue of Granta
contains an example that has made the crossing successfully: the piece
by
Victor Pelevin. It also includes, by contrast, a newly translated story
by
Andrei Platonov, who died in 1951 and most of whose work was banned
until the
last years of Soviet rule. Only in the past decade has he come to be
recognized-but not widely enough-as one of the finest Russian writers
of prose
this century. His story, 'The River Potudan', is hypnotic in its quiet
strength
and sincerity; written of a time when it looked as though the future
had been
won.
Ian Jack
Có 1 cái gì
đó rất giống nhau, giữa Bắc Kít và Nga xô. Gấu tìm hiểu mãi, không ra,
cho đến
khi tới được Trại Tị Nạn Thái Lan, đọc 1 bài viết của Tolstaya, thì mới
ngộ ra
là Cái Ác Bắc Kít có gì tương tự với Cái Ác Nga. Tưởng như vậy là êm,
nhưng
không phải. Phải đến khi đọc bài viết Dưới Cái Nhìn Đông Phương của
Steiner,
thì mới vỡ ra thêm, là tại sao cũng Ác, mà một xứ đẻ ra những Joseph
Brodsky,
Anna Akhmatova, Osip Mandelstam… một xứ một mống như vậy cũng không.
Còn một cái
Ác giống nhau nữa, “liên can” đến cái gọi là quốc lủi.
TV giới thiệu
bài viết về món quốc lủi của Nga:
Burned to death with vodka.
Và tất cả những
bài phỏng vấn những người sống sót trại tù Norilsk, trên tờ Granta.
Chừng 10 mạng.
INTRODUCTION
Russia is
the largest country in the world-a sixth of its land mass-with a record
of
upheaval, terror and bloodshed unparalleled in this century. First, the
revolution of 1905, bloodily suppressed; then the revolution of 1917,
bloodily
won; then Stalinism, with millions killed in its forced migrations,
exterminations and prison camps; and (concurrent with the last)
invasion by
Germany and a war in which upwards of twenty million Soviet citizens
died.
Finally, after decades of sacrifice which turn the Soviet Union into a
military
rival of the United States, acknowledgement that it has all been for
nothing,
that capitalism and liberal democracy have won; and with their victory
comes
the shredding of a state, an empire, a way of living and thinking-and
pre-revolutionary levels of social inequity. To be a Russian old enough
to have
lived through most of this is to know extremes of hardship and
disillusion that
other people, at least in other industrialized nations (even Germany),
can
barely imagine. As Anatol Lieven writes in his new book on the recent
Chechen
war, Chechnya: Tombstone of Russian Power: 'To most of its inhabitants
the
Soviet Union was more than just a civilization, or a warped version of
modernity. It was indeed a world, the only one they knew, and-according
to its
founders and mentors-the greatest of all worlds, the summit of human
history,
knowledge and achievement.'
'Reform' is
the word that the West has attached, optimistically, to Russia's new
condition,
in which taxes and wages go unpaid, gross domestic product and
life-expectancy
decline, the rouble crashes and inflation (in 1998) runs at 200 per
cent; where
fear of the state and its laws has been replaced by corruption, crime
and
ruthless self-interest-'bandit capitalism'. These are, as Lieven
writes, not so
much unfortunate by-products of 'reform' as the phenomena at the very
heart of
it. If the Russian people were not so soured, confused and exhausted by
their
experience of ideology, one might be tempted to say that, once again,
they
looked ripe for revolution.
In
literature, Russia has a great, perhaps the greatest, tradition of
realism,
which seems to have come to a temporary halt. Perhaps because reality
itself is
now so quicksilver and the truth about it no longer repressed, new
Russian
writers often favor satire and allegorical fantasy, forms which, when
they lose
their social context, can face a difficult crossing to other societies
and
languages. This issue of Granta
contains an example that has made the crossing successfully: the piece
by
Victor Pelevin. It also includes, by contrast, a newly translated story
by
Andrei Platonov, who died in 1951 and most of whose work was banned
until the
last years of Soviet rule. Only in the past decade has he come to be
recognized-but not widely enough-as one of the finest Russian writers
of prose
this century. His story, 'The River Potudan', is hypnotic in its quiet
strength
and sincerity; written of a time when it looked as though the future
had been
won.
Ian Jack
GRANTA 64 WINTER
1998. RUSSIA: THE WILD EAST
SURVIVORS
Angus
Macqueen
INTERVIEWS
BY ANGUS MACQUEEN AND LIANA POMERANTSEVA
Angus
Macqueen
On my
child's small globe of the world there is only one town marked on the
north
coast of Siberia: Nordwik. It stands a gentle twirl across from Moscow,
and
half an inch from the white expanse of the polar ice-cap. Nordwik,
however, no
longer exists. When I went in search of it for a BBC film on the
Siberian
prison camps, I found nothing but a couple of rusting hulks and a main
street
of deserted and decrepit wooden huts. Nobody has lived there for almost
half a
century. Its presence on a modern children's globe is a tribute to the
American
map-makers who, I suspect unknowingly, have preserved for our children
the
outline of Stalin's Gulag.
The most
mysterious aspect of this is how the map-makers picked little Nordwik,
and not
its giant neighbor along the remote Arctic coast: Norilsk. Just half an
inch to
the west, and with large reserves of nickel, copper and platinum,
Norilsk
recently became one of the biggest prizes in the smash-and-grab that
was
Russia's privatization programme after the fall of Communism. Instead
of
feeding the Red Army's secret armaments industry, nickel is now being
traded on
the London metal exchange.
For years, I
had looked at better maps than my son's, and dreamed of visiting this
town in
the middle of nowhere, this so-called St Petersburg of the north. But
under the
Soviets it was a closed city; its metals were mined for the military
and its
rockets pointed over the North Pole at the great enemy in the west. The
only
foreigners who went there went unwillingly, as part of the huge
population of
prisoners transported for weeks across Siberia by railway and then,
during the
two months of summer thaw, by barge up the Yenisei River. Through
black, bitter
winters, and mosquito-plagued summers, they were set to work mining in
the
permafrost.
Today
Norilsk is just a commercial flight away from Moscow. It remains a
secretive
city, though. When I arrived, an Arctic snowstorm obscured its
Stalinist
splendors as effectively as any amount of old-style Soviet censorship.
Many of
these buildings are indeed reminiscent of St Petersburg (another city
built by
slaves). They are eloquent reminders that Stalin aimed not simply to
exploit
but also to colonize and develop Siberia. The GULAG (the acronym for
the
General Directorate of Camps), with its millions of prisoners, was at
the
forefront of his attempt to industrialize the country. The closure of
the camps
after Stalin's death in 1953 did not halt Norilsk's growth. Many
thousands of
the newly released prisoners, having nowhere (and no one) to return to,
stayed.
Thousands of other Soviets-non-prisoners-were attracted to the city by
high
wages and generous subsidies. Norilsk flourished on amnesia. Books and
films
commemorated the idealists who had braved the appalling conditions to
create
this miracle of Soviet industry. The nickel factory is still named
after the
first camp commandant, a man who shot prisoners in the back of the head
at
random.
With the end
of Communism, the subsidies have dried up. The owner of the nickel,
copper and
platinum deposits is a Moscow bank and it has little interest in
subsidizing
people and amenities that it does not need. The Red Army no longer
builds
tanks, and the price of nickel has dropped threefold since the end of
the Cold
War. The town needs to shrink. Three hundred and fifty thousand people
must,
the economists say, become fifty thousand. It is an easy enough
calculation, on
paper. But what to do with the people? There are neither trains nor
roads out
of Norilsk. Many cannot afford the air fare out, which is the
equivalent of six
months' pension. It has become a town of poverty and unemployment, and
in these
conditions freezing winters that last for ten months-poverty kills.
Perhaps
Norilsk, like Nordwik, is destined one day to be nothing more than a
name on an
out-of-date map. The interviews on the following pages record the
memories and
fears of the dispossessed. As one woman, the daughter of a prisoner,
said: 'We
have nowhere to go and nothing to go with. We are in a camp again.'
AM
GRANTA
THE LAST
EIGHTEEN DROPS
Vitali
Vitaliev
18 giọt cuốc
lủi cuối cùng
Gấu có hai kỷ
niệm về đói, khi còn là 1 thằng bé nhà quê Bắc Kít. Có nhiều, nhưng hai
kỷ niệm
này, không hiểu sao, ăn đời ở kiếp với Gấu, và tạo những thói quen,
hoặc nỗi ám
ảnh không làm sao rứt bỏ.
Một, là về
món cháo, Gấu kể vài lần rồi. Hồi đó, ở với ông Bác, ở Phú Thọ. Ông làm
hiệu
trưởng một trường làng, chắc thế. Hai ông bà chỉ có 1 cô con gái, Chị
Phúc. Bà
chị này tốt lắm, Gấu đi sao, nửa thế kỷ sau về gặp lại, thấy bà vẫn
vậy. Bà nói
1 câu về Gấu, mày vẫn như ngày nào, khác hẳn mấy đứa ở lại.
Gấu nhớ
lần
đó bị sốt, bà Bác bắt ăn cháo, hết sốt rồi, bà bảo chưa hết sốt, vẫn
phải ăn
cháo. Gấu đói đến lả người, và sau đó, sợ món cháo suốt đời, không biết
kiếp
sau, nếu có, có còn sợ món cháo không!
Còn cái kỷ
niệm kia, một cách nào đó, ảnh hưởng đến cách viết của Gấu, cứ nhỏ giọt
tí tí,
không thành bài, thành bản.
Kỳ tới kể tiếp.
Norilsk: as
the prisoners of the Gulag remember it
Survivors
Gunner
Krodders
Born in
Latvia, Gunner Krodders was exiled with his family to the Norilsk
region when
the Soviet Union invaded his country in 1940. He watched his mother die
of cold
and hunger within weeks. But after Stalin died he remained in Norilsk,
joined
the Party and became a leading local journalist.
I read
somewhere that people not only hated the Gulag but loved it too, loved
it like
you love your motherland. I think something like that happened to us
former
prisoners and exiles who have now become the strongest patriots of
Norilsk. You
see, after the camps closed, Norilsk developed into a unique world with
its own
intelligentsia and traditions, founded by the very people who were its
victims.
We were so proud of this city-the pearl of the Arctic. Now we are
watching it
die. OneximBank bought the mines and the factories, and Norilsk is a
factory
town. I can't blame the bank for the deterioration of life here,
because the
factory probably shouldn't have to support the social services and all
the
rest. But the state isn't doing it and the factory isn't doing it and
no one
knows what will happen: the houses are collapsing around us. And this
is the
Arctic. No one is doing anything. Because no one needs the town now:
neither
the state nor the factory. That's our tragedy. People think it strange
that we,
who were forcibly brought here, take such pride in it. But we built it.
The
prisoners were often educated people: engineers, managers, scientists
and so
on. They took pride in their work. And besides, the atmosphere was
extraordinary.
Nowadays people are stuck in their homes like mice in their holes, but
in the
Sixties and Seventies we would get together all the time. There was an
orchestra and at least eight choirs in the city; there were clubs of
every
type-all free. Now you have to pay for everything and there is no
money. So
nothing is left. Life then was completely different. With Gorbachev's
reforms
we threw the baby out with the bathwater. We should have retained
something.
But instead we said:
That's it!
We threw everything out. Do I think Norilsk will exist in ten years? I
doubt
it. I doubt it. But it has to last another six or seven years because
of the
people. But what is to be done with us? Load us on a barge and sink it
in the
River Yenisei?
Yevgeny
Kupchenko
The oldest
inhabitant of Norilsk, Yevgeny Kupchenko was arrested in 1936 and
charged with
spying for Japan. At the time he was an illiterate peasant farmer. He
was in
one of the first groups to be sent up the Yenisei River to Norilsk. In
the mid·
Thirties the Soviet Union still openly talked of its revolutionary
penal
philosophy, which involved re-educating prisoners by introducing them
to the
joys of being a real 'worker'.
Re-education?
Who would they be trying to re-educate? The prisoners? They taught with
the
cudgel, not with words. Why speak to prisoners? Do you think they said:
'We'll
show you how to turn into good communists'? They never spoke to us.
Nobody
spoke to us. There was an 'education and cultural section' in every
camp. But
they just handled our letters. I had to give any letters to the
'education
section' so they could read it and if they liked it, send it. But the
idea that
they would try to educate us-to do anything to cheer us up, to
encourage us
with explanations about how our country really needed metal and so on,
never a
single word. We were slaves. Animals. We were bullocks. It was like
when,
decades before, peasants in the Ukraine were used like oxen to plough
the
fields. And in these circumstances man becomes like an animal: silent
and
bowed. You never said a word. God preserve us from any conversations
about the
authorities or politics. Everywhere, even in the camps, there were
informers.
And you would be taken off to the security section and nobody would see
you in
your barrack again. Neither during my years in the camp, nor afterwards
in the
village, did I say a word. About anything that had happened. Not a
single word.
Even with my wife I never spoke about it. Now things are widely spoken
about-that Brezhnev was a bad man and so on, but at that time a word
about
Stalin and that was that. If a newspaper with Stalin's portrait was
found
discarded somewhere on the ground, somebody had to be found and
punished. And
before the trial you'd be beaten until you were barely alive. And then:
ten
years in the camps.
Jadwiga
Malewicz
As a
teenager, Jadwiga Malewicz witnessed the Soviet invasion of her native
Poland,
then the German invasion. She also saw, through the long grass, the
mass
shooting of local Jews. When the Red Army returned in 1945 she was
arrested for
'betraying the motherland'. Ten years in Norilsk.
I married my
guard. The senior guard. I don't know quite how it happened. He was
always
looking at me. Staring. As he took us to work he would say: 'Brigade
Leader,
I'll marry you.' I'd reply: 'Nonsense, governor. You can't do that.' He
said:
'We'll see.' Can you imagine? He guarded us for two years. And I never
responded. I was very unfriendly. Three more years he waited for me. I
kept
turning my back on him. And so the day came. I returned to my barrack
and saw
the release form on my pillow. How it hurt. I thought: 'Where do I go?'
They
gave you this document, escorted you out and you had neither a room nor
anything. Just go wherever you can. That's the way it was, you know. If
I had
had somewhere to go ... but I couldn't leave. I sat on my bed, took off
my
Brigade Leader's armband and gave it to someone. I asked her not to
tell my
admiring guard that I had been released. But when I got to the
gatehouse, there
he was, waiting. I was carrying a small suitcase, made for me in
celebration of
my release. I had packed the little I had. He came up: 'Brigade Leader,
let me
carry it.' I said 'I'm not a team leader any more.' But I gave him my
suitcase
and, you know, dumb like a lamb, I followed him. He had made
arrangements for a
room. And when we got there, dear me! I saw the senior camp warder. He
had
rented a room with the woman who had for years been my warder. She
said: 'You
boasted you'd get that nice girl all the time. And here she is.' They
started
drinking. Pure spirit. That was all there was in those days. They
drank. I
couldn't drink at all: they gave me a gulp and I nearly suffocated.
They were
laughing. My 'man' staggered off to bed, and the woman said: 'Off to
bed with
you.' I said: 'Where to? What do you mean?' I sat at the table all
night. But I
ended up with him. What else could I do? I got used to it. I suffered
torments
for thirty years. In the end we got divorced. He left for his home
village in
central Russia and died there. He drank himself to death. I remained
here
alone.
Khi còn là một
đứa nhỏ mười mấy tuổi, Jadwiga Malewicsz chứng kiến quân đội Xô-viết
xâm lăng
Ba-lan; rồi tới Đức Quốc-xã. Qua lớp cỏ dầy, cô cũng đã nhìn cảnh tàn
sát tập
thể người Do-thái địa phương. Khi Hồng quân trở lại vào năm 1945, cô bị
bắt vì
"phản bội đất mẹ". Mười năm tại Norilsk.
Tôi lấy người
cai tù. Một người cai tù có gốc. Tôi thực không biết chuyện đó xẩy ra
như thế
nào. Anh ta luôn nhìn tôi. Đăm đăm nhìn. Trong lúc đưa chúng tôi đi lao
động,
anh ta nói: "Đội Trưởng, tôi sẽ lấy cô". Tôi trả lời: "Vô lý, quản
giáo. Anh không thể làm điều đó". "Để rồi coi". Bạn tưởng tượng
nổi không? Anh ta cai tôi hai năm trời. Và tôi không hề đáp lại. Tôi
thực không
thích bạn. Anh ta đợi tôi thêm ba năm. Tôi vẫn quay lưng. Rồi cái ngày
ấy tới.
Lao động về, tôi nhìn thấy giấy ra trại trên chiếc gối. Đau đớn làm
sao. Tôi
nghĩ: Đi đâu bây giờ? Họ đưa bạn tờ giấy, dẫn bạn ra ngoài, và bạn
chẳng có một
căn phòng, chẳng có gì hết. Muốn đi đâu thì đi, nếu có thể. Chuyện như
vậy đó,
bạn biết không. Nếu tôi có một nơi để mà đi... nhưng làm sao tôi rời
đi. Tôi ngồi
trên giường, gỡ băng "Đội Trưởng" đưa cho người khác. Tôi bảo cô ta
đừng
nói cho anh cai tù mê tôi, tôi được thả. Nhưng tới cổng, anh đợi tôi ở
đó. Tôi
ôm cái bị nhỏ, món quà mừng ngày được tha. Gia tài chút xíu. Anh trờ
tới:
"Đội Trưởng, để tôi mang giùm." "Tôi đâu còn là đội trưởng nữa",
nhưng tôi đưa anh cái bị, và bạn biết đấy, ngu đần như con cừu, tôi đi
theo
anh. Anh đã xoay xở được một căn phòng. Khi tới, úi trời, tôi thấy
người quản
giáo. Ông mướn phòng chung sống với người đàn bà quản trại tôi. Bà ta
nói:
"Lúc nào cũng nghe anh khoe, anh chài được cô gái xinh đẹp, bây giờ cô
ta
đây này!" Họ bắt đầu uống. Những ngày đó, ngoài uống ra đâu còn gì. Họ
uống.
Tôi không làm sao uống nổi: họ đưa tôi nhấp thử một hụm và tôi gần
nghẹt thở. Họ
cười nhạo tôi. Người đàn ông "của tôi" kiếm chỗ nằm, và người đàn bà
nói: Còn cô này nữa, ngồi đây làm gì? "Bà nói chi?"
Tôi ngồi bàn
suốt đêm. Nhưng, là anh ta. Biết làm sao khác? Tôi cũng quen dần. Tôi
chịu đựng
cắn rứt, dằn vặt ròng rã ba mươi năm. Cuối cùng ly dị. Anh tìm về làng
cũ ở
vùng Trung Nga, và chết ở đó. Anh uống tới chết. Còn trơ tôi ở đây.
Jennifer
Tran
Wanda Sosnor
When her husband, after a
first
period in the camps, was sent into permanent exile, Wanda decided to
follow
him. A rising star of Soviet opera, she organized prison concerts for
the camp
authorities.
We who
worked there, both prisoners and exiles, even people like me who had
gone by
choice, were nothing but serfs. And I condemned myself to that. But I
loved my
husband. That is why I went. I wanted to help him. And who were my
colleagues
there? There was the conductor, the chief conductor of the Odessa
Opera. There
was a choreographer from the Kirov Ballet in Leningrad. There was
Sevochka
Topilin, Oistrakh's accompanist. Such people, such musicians! And I was
there.
Well, I was also, you know, a soloist in the theatre. They believed
that I had
real talent and a future. I could already have been working in the
Kirov
Theatre. I had been invited to audition for The Queen of Spades. I was
in
negotiations with the Bolshoi. Just as I was preparing to go to my
husband, an
invitation to sing there came through. But I had already decided.
After a
rehearsal or a concert in the camp club, I would often listen to the
radio
quietly-to the music coming from Moscow, from so far away: a symphony
or an
opera. And I would stand there with tears running down my cheeks. But I
always
returned home with dry eyes. I could not show Sashenka [her husband]
that it
was hard for me, because it was hard enough for him as it was. I had to
control
myself. I was stronger, I was stronger because at least I could do
something. I
could theoretically go away somewhere. And he could not, he could not.
His
exile was, as they said, 'eternal'. +
Grigory
Morozov
Grigory
Morozov was a young conscript sent to Norilsk to guard the prisoners.
He ended
up marrying Julia, one of the 'fascists' (his word) he was sent to deal
with.
We would
enter a barrack, two guards and all those women ... What women! Mainly
young
... My God! They were twenty-two or twenty-three years old. You know.
So young
... I wouldn't say that they were overly thin, you know-fat, some of
them. Some
were pretty, it was something. I would say 'Girls! What shall I search
for in
here?' And one of them would say: 'Come and search me, love.' She'd
just take
off her top. Deliberately, probably they were dressed like that ...
Well, she'd
just strip off. 'What do you want to search for in here?' she'd say,
'We'd be
better off .. .' I didn't know then that it was possible for women to
rape a
man to death. One time this girl said to me: 'Come on .. .' But I was
still
shy, and, as they say, I still had a conscience. I turned away and left.
All those
women ... our commanders told us not to mess with them. Once a group of
women
were to be transported elsewhere and replaced by men. And when the
special
transport detachment started to march the women off, I saw some guards
running
after them. Several men running after the women prisoners. Without
their guns
or anything. I shouted: 'What's going on? Why are you running after
them?' They
said: 'They're our girls.' The officers were shouting: 'What are you
doing?'
and all that. You know. 'Come on ... Get back! Stop it!' And the
soldiers were
crying. You see, they had made friends there. They had got acquainted,
everything. They were man and wife already. What a comedy.
Andrei
Cheburkin
A soldier
who marched in Red Square parades, Andrei Cheburkin had a number of
jobs in the
NKVD, the ministry of internal affairs. He started as a guard on the
transport
trains of prisoners, then worked in the camps before moving to Norilsk
as a
bureaucrat.
Life in
Norilsk was better than anywhere else in the Soviet Union. In the first
place,
all the bosses had maids, prisoner maids. Then the food was amazing.
There was
all sorts of fish. You could go and catch it in the lakes. And if in
the rest
of the Union there were ration cards, here we lived virtually without
cards.
Meat. Butter. If you wanted champagne, you had to take a crab as well,
there
were so many. Caviar ... barrels of the stuff lay around. I'm talking
about the
bosses, of course. I am not talking about the workers. But then the
workers
were all prisoners.
What was the
pay like? The pay was good. In the mines ... well, obviously if you
were a
civilian you wouldn't be doing the manual work, that would be for the
prisoners. So say you were a brigadier, you'd get 6,000-8,000 roubles.
In
central Russia you would get no more than 1,200. I came to Norilsk as a
work
supervisor in a special directorate of the NKVD, which was looking for
uranium.
I was given a supervisor's salary-2,100 roubles I received from the
first and
then each six months I got a ten per cent rise, about five times more
than they
got in normal civilian life. You ask about the prisoners. Well, the
prisoners
were everywhere. They were brought to work under guard. And they
worked. They
did not bother anyone-they just worked and worked. They were slaves.
Andrei
Lubchenko
As a fifteen-year-old boy
in the
Ukraine, Andrei Lubchenko escaped the occupying German forces and
crossed back
into Soviet territory. He was accused of spying, and sent to Norilsk
for
fifteen years.
There were
people from all over the world in Norilsk: English, French, Germans,
Chinese,
Japanese. People from all the Baltic states, from Hungary, Austria,
Bulgaria,
from all the European countries, even Norway. We even had a Chinese
welder. We
just called him Vanya. Once I asked him: 'Where were you arrested? In
China?'
'No,' he replied. 'We swam across the Amur River, between China and the
Soviet
Union-and they arrested us straight away.' I asked him why he'd done
that.
'Well,' he said, 'we could see how beautiful it was on the other side
of the
Amur ... the green and gold of the trees ... and the steppes looked so
beautiful! And everyone who crossed the river from our area never came
back. We
thought that this meant that life must be good over there, so we
decided to
cross. The minute we did we were arrested and charged under Article
58.6:
espionage. Ten years.'
Khan
The port
manager in Norilsk, Khan's Korean parents were among the mass
deportations from
the Far East in the 1930s.
What was it
like to be the son of an 'enemy of the people'? It's hard to say. When
I was a
child I didn't feel it. I mean, I was already a third-former when
Stalin died
in 1953. And the way my school years were, I mean, practically of all
the
inhabitants, ninety per cent were enemies of the people. To tell one
from
another was almost impossible. When we grew up, when I finished school
and went
to university, by then times had changed. We did not remember it. I
became a
young communist and then a member of the Party. There was no other way.
Alexei
Loginov
A graduate
of Leningrad's metallurgical university in the 1930s, Alexei Loginov
became a
senior manager in the huge metal industries of the Gulag. He was
appointed
director both of production and of the prison camps in Norilsk. In the
1950s he
oversaw the closing of the camps. His ninetieth birthday was the
occasion of a
major celebration in the Norilsk factory.
Our country
was preparing for war. .. but it is important to realize that this was
not
necessarily a war against the Germans. From the beginning we knew
perfectly
well that the outside world would never leave our Soviet revolution
alone. Not
only Stalin realized it-everyone, every ordinary communist, every
ordinary
person realized that we had not only to build, but to build in the full
knowledge that soon we would be at war. It was inevitable-the Soviet
Union
would never be left in peace. So in my area, the search for all sources
of raw
materials, copper, nickel, aluminium and iron and so on, was incredibly
intense. We had always known of the huge resources in Norilsk-but how
to
develop them up in the Arctic? So the whole venture was put in the
hands of the
NKVD, the Ministry of Internal Affairs. Who else could have done it?
You know
how many people had been arrested. And we needed tens of thousands up
there. If
we had sent civilians, we would first have had to build houses for them
to live
in. And how could civilians live there? With prisoners it is easy-all
you need
is a barrack, an oven with a chimney and they survive. And then maybe
later
somewhere to eat. In short, prisoners were, under the circumstances of
that
time, the only possible people you could use on such a large scale. If
we had
had time, we probably wouldn't have done it that way. We would have
just
gathered a few people and begun to build, first one house, then
another. But
then it was impossible. We were only beginning to build our country. So
they
had to bring, first of all, specialists who could build. And in the
second
place, people who could be used.
Maria
Ivanova
From a
peasant family near Leningrad, Maria Ivanova was left in
Germannoccupied
territory in the first months of the Second World War. She was shipped
off to
forced labour in Germany. Liberated by the Red Army, she was sentenced
to ten
years in the Gulag for 'betraying the motherland'. She was still only
nineteen.
The pick you
were given was usually too big for the hole, and for you. So you broke
off the
handle, and with this pick you had to break up the ten inches of
permafrost
that was the required work norm. We dug it all. All Norilsk was built
by us.
Now they drive piles into the permafrost but then the foundations for
buildings
had to be dug down by hand. And it was sometimes forty feet down. In
the
freezing cold and the polar night you could sometimes only see one star
from
the bottom of the hole-and how I used to look at that star. And I knew
my
mother was looking at this star. I had to see it at all costs. It
helped me.
When you work it is no longer so cold. The blood warms you, and the
hope. The
hope that you will survive, that was a double strength. The authorities
would
say you had, with 'your honest labour, to redeem your guilt before the
motherland'. I was building for myself in my motherland and naturally I
worked
unsparingly. I also had to earn a full ration. It was a kilo of bread
they
gave, I think, for a completed norm. Or half a kilo-God, I don't
remember now.
At the end of the twelve hours they would winch you out of the hole,
but only
if you had completed your work. If you hadn't, you were just left
there. When
you had finished you would get into the bucket for the earth, like in a
well,
and they would pull you out. More than once the rope broke. And that
was that.
The bodies were left at the bottom. Norilsk is built on bones.
Nikolai
Abakhumov
Former
deputy commander, Norilsk Garrison.
You know,
Norilsk was a very nice town when I lived there. The houses were new
and warm.
It was a nice place to live. There was electricity. There were buses
running
along the streets, good buses. There were theatres. There were cinemas.
There
were restaurants. There was even a brewery. There were nice stores and
a
wonderful gymnasium. We, my future wife and I, would go dancing: we'd
dance in
that hall. There'd always be a regimental band, and we'd have a
wonderful time,
even though it was so cold. I'd dance in normal leather boots. It was
minus forty,
but I'd wear these boots instead of the felt boots they issued us to
wear to
work. On guard duty we'd wear these special felt boots with our big fur
coats.
Because it was so very cold. Even when you turned up your collar and
turned
down the ear flaps on your fur cap, so that only your eyes were
visible, even
then your eyes would be so cold that you'd close one until the one you
were
looking with froze, and then swap over.
That's how
cold it was. Of course everyone suffered from it. And the wind. It was
the same
for us and the prisoners. And then in the summer everything turned into
marshland. That's why it was so difficult to escape from Norilsk. Some
people
got out of the camps, but no one managed to reach the mainland--eentral
Russia.
First, there were the distances. It was 2,000 kilometres to the nearest
big
town, Krasnoyarsk. Around Norilsk there were tracks which would last a
few
kilometres before disappearing into the marshes. Nobody knew how far
they
stretched. People drowned. And then there were the mosquitoes. They
would eat
you alive. We used to find corpses eaten up by mosquitoes. Only the
bones were
left.
Russia
Miền
Đông Hoang Dã
Survivors
Gunner
Krodders
Sinh tại
Latvia, Gunner Krodders lưu vong cùng gia đình tới vùng Norilsk khi
Liên Xô xâm
lăng xứ sở của ông vào năm 1940. Ông chứng kiến bà mẹ chết vì đói và
lạnh trong
vài tuần lễ. Nhưng sau khi Stalin chết, ông ở lại, gia nhập Đảng và trở
thành 1
ký giả hàng đầu ở địa phương.
Tôi đọc đâu đó,
người ta không chỉ thù ghét Gulag, nhưng cũng “êu” nó, như “êu” đất mẹ!
Tôi nghĩ một
điều tương tự như vậy đã xẩy ra với chúng tôi, những cựu tù và lưu vong
bây giờ
trở thành những kẻ cực kỳ yêu nước ở Norilsk
Ui chao, Gấu
bất giác lại nhớ đến cuốn tiểu thuyết trác tuyệt viết về trại tù VC,
của đồng
chí VC, Bùi Ngọc Tấn, Chuyện Kể Năm 2000.
Sau này, khi được thả, ông còn suýt soa, nếu không đi tù là không làm
sao viết
được tác phẩm vĩ đại đó, và nếu không có chính sách pha lê hóa xã hội Miền Bắc của Đảng,
tức là đưa hết những đám có tội với nhân dân như ông đi tù, thì
làm
sao lấy được Miền Nam?
Opéra Akhrnatova,
poétesse en
toge
Célébrée
dans toutes les Russies tel un immatériel trésor national, la poésie
d'Anna
Akhmatova conquiert un nouuveau tenitoire : l'opéra Bastille. Le jeune
dramaturge Chrisstophe Ghristi s'est emparé de sa vie et de son œuvre
pour
forger le livret d'Akhmatova, opéra
en trois actes dont la musique est due à Bruno Mantovani. «Je me
passionne pour
tout le cercle des poètes russes du début du xxe siècle, Maïakovski,
Mandelstam, Tsvetaeva et Akhmatova. Cependant, tandis que les deux
premiers ont
quelque chose de formaliste, on trouve, chez les deux femmes, une
immédiateté,
une liberté, un art foudroyant de la litote, explique Chrisstophe
Ghristi.
Akhmatova donne l'impression d'avoir une vision claire de tout. Aucun
souci
formel ne transparaît dans ses vers. »
Une
hagiographie, alors? Au contraire. Tout en louant la poésie
akhhmatovienne, le
livret restitue l'ambiguïté de son auteur, dont la biographie possède
sa
dramaturgie propre. Révérée des lecteurs, Akhhmatova était haïe du
régime. Son
fils, envoyé au goulag par Staline, lui reprocha tant d'avoir poétisé
sa
douleur de mère (dans Requiem) qu'il
rompra avec elle. Et comment décrire autrement qu'en termes théâtraux
ce moment
où elle envoie paître ses admirateurs britanniques et donne raison à
Staline
contre elle-même? «Akhmatova place la poésie au-dessus de tout parce
qu'elle
n'a pas le choix. Or la fonction ou l'essence de poète vous condamnent
à une
forme de retrait. J'imagine qu'Akhmatova a énormément souffert de cette
incapacité à aller au bout de l'existence.» La dernière scène du livret
évoque
cette forme d'égoïsme poétique. Cette dernière scène en décor extérieur
répond
à la première, en intérieur. Dans l'appartement d'Akhmatova, chaque
objet a une
signification biographique: l'icône traduit sa piété, les meubles «
bourgeois
dégradés» rapppellent qu'elle-même vient de la grande bourgeoisie
dégradée; la
valise toujours prête évoque une arrestation toujours imminente ...
«J'ai
imaginé cette chambre à travers d'autres que j'ai pu voir à
Saint-Pétersbourg.
C'est un monde entier, qui traduit le repli. »
Ce recours
au symbolisme paraît plus apte à traduire la vérité d'Akhmatova qu'un
parti
pris réaliste.« Dans l'un de ses écrits, Akhhmatova parle d'un livre
sur la
guerre et lui trouve le défaut d'avoir voulu la peindre de manière
réaliste. De
même, ici, le documenntaire est impossible: nous sommes face à une
poétesse qui
ne vit pas dans la réalité. » Dans une théâtralité, donc? « Elle avait
la
dimension d'une grande tragédienne qui, même dans les cirrconstances
les plus
prosaïques, gardait sa hauteur, sa conscience de soi. Je la vois
capable de
s'emparer du plus affreux tissu soviétique et de s'y draper comme dans
une
toge. »
Alexis
Brocas
Magazine
Littéraire, Février 2011
Nữ thần thi
ca Nga chiến thắng một mảnh đất khác: Kịch Opéra.
Đọc bài viết
trên, mới hiểu ra là, ông con nghỉ chơi với bà mẹ, vì, ‘Bà đã thi hoá
nỗi đau là
mẹ của bà’!
Còn ông con
Cù Hậu Duệ?
Có thể, ông
muốn bố hài lòng về mình chăng?
Người phạng
Huy Cận nặng nhất, chỉ bằng 1 bài thơ, là Xuân Sắc:
Huy Cận
Các vị
La hán
chùa Tây phương
Các vị gày
quá tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Không nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu!
|
|