Gấu có tí kỷ niệm với Nhật Tuấn,
ở quán cà phê Bà Lê Chân, của Huy
Tưởng, chắc HT còn nhớ.
Một buổi chiều, Gấu đang ngồi uống cà phê thì anh ghé.
Không biết làm sao anh biết Bà Lê Chân, và
biết, Gấu hay ngồi ở đó.
Đi cái xế mobylette, hình như vậy.
Hóa ra là anh nhờ Gấu đi 1 đường thổi "Đi về nơi hoang dã".
Lạ, là anh không mang theo sách. Không có màn ký tặng con mẹ gì hết.
Thời gian đó, Gấu nổi lại như cồn, sau cái màn điểm
cuốn “Thám Tử Buồn”, trên Tuổi Trẻ, rồi tới “Ngôi Nhà
Của Những Hồn Ma”, cũng trên Tuổi Trẻ, rồi tới “Trăm Năm Cô Đơn”,
trên Thanh Niên, rồi tới 1 cuốn của Hoàng Lại Giang. Chắc
là Nhật Tuấn chịu lắm, bèn mất công lặn lội tìm
Gấu.
Những
đứa con của trí tưởng
Children of the mind
Khoảng năm 1988, do sinh kế, gia đình tôi mở ngay
một sạp báo trước ngõ. Chủ nhân đích thực, ông cán bộ nhà kế bên. Như
một cách giữ chỗ, trước khi về hưu, và cũng muốn giúp đỡ gia đình nguỵ.
Cư xá tôi ở vốn thuộc nhà nước cũ, đa số là công chức có nghề chuyên
môn được nhà nước "cách mạng" cho lưu dụng, sau ba ngày cải tạo tại chỗ.
Đó là những chuyện ngay
sau ngày 30/4/75.
Thời điểm 1988-89 đã có
chủ trương "cởi trói" cho những văn sĩ. Có thể nhờ vậy, văn chương, văn
nghệ sĩ nguỵ được "ăn theo". Một số sách trước 1975, nay thấy tái bản,
dưới một tên khác. Do biết ngoại ngữ, tôi được một người quen làm nghề
xuất mướn dịch một số tác phẩm, như của nhà văn y sĩ người Anh, Cronin.
Rồi một người quen, trước 75 cũng có viết lách, nay làm nghề sửa mo-rát
cho nhà xuất bản nhà nước, cho biết, ông chủ của anh muốn tái bản, tác
phẩm Hemingway, Mặt Trời Vẫn Mọc do tôi dịch. Tới gặp, ông cho biết cần
phải sửa. Thứ nhất, bản dịch của tôi sử dụng quá nhiều tiếng địa
phương, thí dụ như "bồ tèo", "xập xệ"... Thứ hai, có nhiều chỗ dịch
sai. Tôi về nhà coi lại, quả đúng như thế thật.
Trước 1975, sách dịch chạy
theo nhu cầu thương mại. Cứ thấy một tác giả ngoại quốc ăn khách, vừa
được Nobel... là đua nhau dịch. Hồi đó, tôi làm cho nhà xuất bản Vàng
Son của ông Nhàn, số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà in của linh mục Cao Văn
Luận. Một chi nhánh của nhà xuất bản Sống Mới. Trước đó, tôi đã dịch
một cuốn về cuộc đổ bộ Normandie, nhưng do cuốn phim Ngày Dài Nhất đang
ăn khách, ông Nhàn cho đổi tên cuốn sách, không ngờ lại trùng với bản
dịch Ngày Dài Nhất của một nhà xuất bản khác. Thế là mạnh ai dịch. Dịch
hối hả, dịch chối chết, mong sao ra trước kẻ địch!
Cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc cũng
gặp tình trạng tương tự. Hemingway đang ăn khách. Huỳnh Phan Anh, ông
bạn tôi "chớp" Chuông Gọi Hồn Ai. Tôi vớ "thế hệ bỏ đi", tuy rằng Mặt
Trời Vẫn Mọc!
Ngồi ngay tại nhà in, dịch tới đâu thợ sắp chữ lấy tới
đó.
Đọc lại, ngượng chín
người. Thí dụ như câu: cuối năm thứ nhì (của cuộc hôn nhân): at the end
of the second year, tôi đọc ra sao thành: cuối cuộc đệ nhị chiến, at
the end of the second war!
Sau đó, tôi làm việc với
nhà xb, sửa lại bản dịch, dưới sự "kiểm tra" của Nhật Tuấn, ông em Nhật
Tiến. Thời gian này, tôi quen thêm Đỗ Trung Quân, nhân viên chạy việc
cho nhà xuất bản nọ. Rồi qua anh, qua việc bán sách báo, qua việc dịch
thuật... tôi quen thêm một số anh em trẻ lúc đó viết cho tờ Tuổi Trẻ,
như Nguyễn Đông Thức, Đoàn Thạch Biền. Họ đều biết tôi, từ trước 75.
Đoàn Thạch Biền trước 75 đã viết cho Văn qua tên Nguyễn Thanh Trịnh.
Tôi không còn nhớ rõ, ai
trong số họ, đề nghị tôi viết mục đọc sách cho Tuổi Trẻ. Bài đầu tiên,
là về cuốn Thám Tử Buồn, một truyện dịch của một tác giả Nga. Thảm cảnh
của nước Nga sau đổi mới. Băng hoại tinh thần và đạo đức đưa đến tội
ác. Trong đó có những cảnh như là con cháu đưa bố mẹ tới mộ, chưa kịp
hạ huyệt, xác bố mẹ còn bỏ trơ đó, đã vội vàng về nhà tranh đoạt "gia
tài của mẹ". Bố mẹ trẻ bỏ nhà đi du hí, đứa con bị chết đói, khi khám
phá thấy miệng đứa bé còn cả một con dán chưa kịp nuốt thay cho sữa!
Cuốn tiếp theo, là Ngôi Nhà Của Những Hồn Ma, của Isabel Allende.
Bài điểm cuốn này cho tôi
những kỷ niệm thật thú vị.
Đó là lần đầu tiên tôi đọc
Isabel Allende, nhưng "sư phụ" của bà, tôi quá rành. Có thể nói, cả hai
chúng tôi đều học chung một thầy, là William Faulkner. Do đó, được điểm
cuốn Ngôi Nhà là một hạnh phúc đối với tôi.
Nó là từ "Asalom, Asalom!"
của Faulkner mà ra. Có tất cả mấy tầng địa ngục của Faulkner ở trong
đó, cộng thêm địa ngục "giai cấp đấu tranh": ông con trai, con hoang,
vô sản, "mần thịt" đứa chị/em gái dòng chính thống, con địa chủ. Địa
chủ, ông bố cô gái, chính là ông bố của tên cách mạng vô sản!
Có những câu điểm sách mà
tôi còn nhớ đến tận bi giờ: Những trang sách nóng bỏng trên tay, run
lên bần bật, vì tình yêu và hận thù!
Sau khi
bài điểm sách được đăng, tôi được một anh bạn làm chủ một sạp báo cho
biết, mấy người khách quen của anh đổ xô đi tìm tờ báo có đăng bài của
Nguyễn Quốc Trụ! Lúc này, nhờ "cởi trói" nên được xài lại cái tên phản
động đồi trụy này rồi!
Chưa hết. Sáng bữa đó, tới
văn phòng phía Nam của nhà xb Văn Học, trình diện ông nhà văn cách mạng
Nhật Tuấn. Ông chủ của ông chủ, tức Hoàng Lại
Giang, chủ nhà xb, vừa thấy mặt, bèn kêu cô kế toán lên trình diện,
ra lệnh, phát cho tên ngụy này liền một tí tiền, coi
như tiền nhuận bút bài viết cho cuốn sách Ngôi Nhà Của Hồn Ma.
Ông biểu thằng Ngụy, bài
hay thiệt. Chính vì vậy mà có bài điểm cuốn thứ ba. Cuốn này là Gấu
được ông chủ "order"!
Cuốn
này đụng!
Trong bài viết,
khi đọc lại trên báo, Gấu thấy có từ "nguỵ".
Thật
tình mà nói, không biết biết do tôi viết, hay đã bị sửa. Có thể do tôi.
Bởi vì, vào thời điểm lúc đó, "Nguỵ" là một từ đám chúng tôi rất ưa
dùng, có khi còn hãnh diện khi nhắc tới, nếu may mắn được ngồi chung
với dăm ba quan cách mạng. Nhưng một khi xuất hiện trong một bài viết,
nhất là về một tác giả như Hoàng Lại Giang, vấn đề
lại khác hẳn. Tôi nghỉ viết cho Tuổi Trẻ sau bài đó.
Một bữa
đang đứng bán báo, Đ. ghé vô. Anh là bạn Huỳnh Phan Anh, trước 75 làm
giáo sư. Sau cộng tác với tờ Tuổi Trẻ.
Nói chuyện vài câu, anh đưa tôi một mớ tiền. Hỏi,
tiền gì? Trả lời, tiền nhuận bút đưa trước. Hỏi viết báo nào? Anh mỉm
cười: viết báo hải ngoại!
Hóa ra
là, lúc đó có chủ trương làm báo hải ngoại, từ trong nước, do mấy quan
cách mạng cầm chịch. Bài viết, theo Đ., tha hồ "đập" nhà nước, y chang
báo hải ngoại, kẻ thù cách mạng, chắc vậy!
Đúng
vào thời gian này, một khách hàng quen của sạp báo, nhờ tôi kiếm dùm
bản dịch tiếng Pháp Tội ác và Trừng
Phạt của Dostoevsky. Có rồi, như để trả ơn, anh úp úp mở mở chìa
cho tôi xem một tờ báo Time, đã được ngụy trang bằng một cái vỏ bọc, là
trang bìa tờ Đại Đoàn Kết. Tôi hỏi mượn, anh gật đầu. Trong số báo đó,
có một bài essay nhan đề: Sách, những đứa con của trí tưởng (Books,
children of the mind).
Bài
trên Time, là nhân vụ cháy
một thư viện nổi tiếng ở Nga, hình như là thư viện St. Petersburg. Sự
thiệt hại, theo như tác giả bài báo, là không thể tưởng tượng, và
"không thể tha thứ" được. Ông tự hỏi tại sao lại xẩy ra một chuyện "quái
đản" như vậy? Rồi ông tự giải thích, cái nước Nga nó
vốn vậy, và chỉ ở đó mới có những chuyện quái đản như thế xẩy ra. Ông
dẫn chứng: Thời gian thành phố St. Petersburg bị quân đội Quốc Xã Đức
vây hãm 900 ngày, dài nhất trong lịch sử hiện đại; trong khi nhân dân
thành phố lả vì lạnh và vì đói, tiếng thơ Puskhin vẫn ngân lên qua đài
phát thanh thành phố, cho cả nước Nga cùng nghe. Nhưng theo ông, cũng
chính nước Nga là xứ sở đầu tiên đưa ra lệnh kiểm duyệt báo chí, và đưa
văn nghệ sĩ đi đầy ở Sibérie... Ông còn dẫn chứng nhiều nữa. Trong khi
đọc bài báo, lén lút, những khi vắng khách hàng, nhìn những cuốn sách
đang được bầy bán trên sạp tôi chợt nhận ra một sự thực: chúng đều mới
tái sinh, từ đống tro than là cuộc phần thư năm 1975. Cuốn Khách Lạ Ở
Thiên Đường, của Cronin, do Gấu tui mới dịch, đang nằm kia, vốn đã được
dịch. Nhiều cuốn khác nữa, chúng đang mỉm cười nhìn tôi: Hà, tưởng gì.
chúng mình lại gặp nhau!
Tôi
mượn tác giả tên bài viết, viết về nỗi vui tái ngộ, về cuộc huỷ diệt
sách trước đó. Về những đứa con của trí tưởng, có khi cần được tẩy rửa,
bằng "lửa". Tuy đau xót, nhưng đôi khi thật cần thiết. Tiện đà, tôi
viết về những tác giả đang nổi tiếng, và tiên đoán một cuộc phần thư
thứ nhì sẽ xẩy ra, do chính họ, tự nguyện, nếu muốn lịch sử văn học
Việt Nam lại có một cuộc tái sinh!
Đ. nhận
bài, hí hửng mang về. Hai ba ngày sau, anh quay lại, trả bài viết, nói,
không được! Nhưng thôi, tiền tạm ứng biếu anh! Hỏi, anh cho biết: ông
chủ nhiệm của tờ báo hải ngoại, sau khi đọc bài viết, đi gặp thủ
trưởng, yêu cầu: nếu cho đăng những bài như thế này, cho dù là ở hải
ngoại, phải cấp cho ông một tờ giấy chứng nhận, "nhà nước" đã cho phép
ông làm, qua cương vị chủ bút. Nếu không sau này, cả ông lẫn người viết
đều đi tù!
Lệnh
"miệng' thì được, bố ai dám thò tay ký một văn bản "chết người" như vậy!
Đoàn Thạch Biền nghe kể
chuyện, chạy tới: để tôi, in trên tờ báo có mục anh phụ trách, hình như
tờ Công Luận, ở ngay phía đối
diện Bưu Điện, khu có quán cà-phê đám văn nghệ sĩ thường la cà. Nhưng
rồi cũng lại lắc đầu, không được! Người viết thử lại một lần nữa, đem
đến cho tờ Kiến Thức Ngày Nay. Tuần sau trở lại, gặp một anh thư ký trẻ
măng, kính cận dầy cộm. Anh nhìn, ngạc nhiên ra mặt: ông là ai sao tôi
chưa từng biết, chưa từng nghe qua? Anh cho biết, lệ thường, bài được
đánh máy hai bản, một để làm tài liệu, một đưa đi sắp chữ. Bài của ông,
chúng tôi phải đánh máy ba bản, một đưa qua mấy anh bên Hội Văn Nghệ
Thành Phố, để các anh duyệt, nếu cần, xin ý kiến thành uỷ! Các anh cho
biết, cho đăng, nhưng phải sửa rất nhiều đoạn!
Tôi xin
lại bài viết.
Bài
viết, sau đó, nằm trong tay một người viết thuộc ban chủ trương tờ Tuổi
Trẻ lúc đó. Anh nói: tôi giữ lại đây, hy vọng sau này có dịp đăng. Như
một cách giúp đỡ: vì anh có sạp báo, tôi đề nghị mỗi tuần anh điểm hết
mấy cuốn sách mới xuất bản, theo kiểu tóm tắt nội dung, không cần phê
bình, toà báo sẽ trả nhuận bút, theo giá biểu những cuốn sách. Nhưng
liền sau đó, tôi gặp lại một người bạn, và qua anh, gia đình chúng tôi
đã thực hiện chuyến đi dài, chạy trốn quê hương.
Viết
lại chuyện trên, tôi bỗng nhớ những ngày làm việc tại nhà xb nọ. Tôi đã
gặp ở đó, một số văn nghệ sĩ Miền Bắc. Ngoài Nhật Tuấn, Hoàng Lại
Giang, những người khác đều không biết tôi, và tôi cũng chẳng biết họ.
Nghĩa là hai bên chẳng có chuyện gì để nói. Tôi vẫn còn nhớ thái độ
thân thiện, cởi mở của những người tôi đã từng trò chuyện, tôi vẫn còn
nhớ những khuôn mặt trong sáng đầy tin tưởng của những người bạn trẻ
như Đoàn Thạch Biền, Đỗ Trung Quân, và nhất là dáng ân cần khi đưa ra
đề nghị cộng tác, của anh phụ trách tờ Tuổi Trẻ (hình như tên Thức,
không phải Nguyễn Đông Thức. Đó là thời gian còn Kim Hạnh)...
Những
người viết Miền Nam trước 1975, ở lại, hình như đều viết trở lại. Tôi
có lẽ là người đầu tiên được nhà xuất bản Văn Học đề nghị tái bản bản
dịch Mặt Trời Vẫn Mọc.
Tôi nhớ
lại chuyện trên, nhân Sông Côn Mùa Lũ, của Nguyễn Mộng
Giác, một tác giả hải ngoại, được "tái bản" ở trong nước.
Trong
bài viết Perfect Pitch,
ký giả David Remnick kể lại lần ông gặp Joseph
Brodsky, vào năm 1987, hai tuần lễ sau khi nhà thơ được giải Nobel văn
chương. Cuộc gặp gỡ diễn ra tại căn nhà hầm (basement apartment), phố
Morton Street, trong khu Greenwich Village, New
York. Đó là thời điểm bắt đầu chính sách glasnost. Thơ của ông được
xuất bản ở trong nước, lần đầu tiên, sau hơn hai thập kỷ. "Ông không
thèm giấu diếm, dù chỉ một tí, niềm vui của mình, về chuyện này", nhà
báo Remnick viết. Và nhà báo giải thích về niềm vui của nhà thơ: Đối
với một chính quyền đã cho xuất bản tác phẩm của ông, và của những nhà
văn nhà thơ "bị biếm" khác, điều này có nghĩa: trả
lại của cải bị ăn trộm, cho chủ nhân. Và David Remnick cho rằng: đâu
cần phải biết ơn kẻ trộm!
Có người tự hỏi về ý nghĩa
một bộ sách như Sông
Côn Mùa Lũ, bầy bên cạnh Lênin
tuyển tập, Nhật Ký Trong Tù...., ở đây theo tôi, nếu có sự thất
thế, tủi nhục, thì phần lớn là thuộc về kẻ ăn trộm chứ không phải người
bị mất trộm!
Đâu cần
phải biết ơn kẻ trộm.
Note: Bài viết này, viết lâu rồi, nay nhân mấy sự kiện nóng hổi, bèn
lôi ra, để lèm bèm thêm, về cái sự thất thế, được, mất, tự nhiên... khi
được VC in sách, chấp nhận...
Cũng viết thêm, những sự
kiện trong bài viết, trên, đều thực cả, GCC chẳng bịa ra 1 chuyện gì
hết.
Nhân đây, cám ơn tất cả bạn bè ở trong nước được nhắc tới trong bài
viết.
Best wishes to all.
Take Care
Merry Christmas and Happy New Year
I Miss All of U &
SAIGON
NQT
Đọc ba cái ai điếu của đám nhà văn VC viết về Nhật Tuấn,
chúng đều vờ đi 1 sự kiện, anh là Tề, tức đám về/ở thành,
không phải thứ ở rừng về, những ngày 1954.
Anh viết ra điều này, và chẳng hề giấu, anh coi khinh cách
đối xử mất dậy của chúng, y chang cách đối xử sau này,
của Bắc Kít, đối với Ngụy.
Trên TV Gấu đã kể, về cách chúng trả lương đám
Tề, những ngày mới tiếp thu Hà Nội, y chang khi còn
Tây, nghĩa là gấp 10 lần, so với luơng của lũ ở rừng về.
Đám Tề nhột quá, năn nỉ lạy lục, xin được lãnh lương
như… Cách Mạng, chúng lắc đầu, tụi mi làm sao so với
chúng ông được mà đòi như… Cách Mạng!
Gấu đã nói rồi, Bắc Kít cực kỳ thâm độc. Chúng
không hề biết nhân từ là cái đéo gì!
Hà, hà!
Nhưng qua chúng, Gấu mới biết Nhật Tuấn có tới mấy bà vợ.
Giỏi thật!
Chắc là toàn... Bắc Kít?
Lại càng giỏi!