|
Tiểu thuyết bắt buộc phải “mua vui thì cũng được vài trống canh”?
It is essential that a novel be enjoyed?
[Graham] Greene: Tôi không chắc. Những quả có cái
gọi là thú đau thương ở nơi người đọc.
I am not sure. There may be a certain masochism in the reader.
Nhân vật đàn bà nào ông khoái nhất trong những cuốn tiểu thuyết của ông?
Chắc là độc giả không đồng ý với tôi, nhưng có
thể nhân vật trong Kết Thúc Một Chuyện Tình, The End of the Affair.
Tôi nhận được 1 lời khen từ Theodora Benson, một nữ văn sĩ, cùng
thời với tôi. Bà viết, không phải tôi viết, mà
là 1 người đàn bà giúp tôi viết.
[Tuyệt]
Which character out of your novels have you liked the best and which has frightened you most?
GG: I don't think I have been frightened by any of my characters, having
created them myself I feel safe - but I suppose otherwise I would say perhaps
Pinkie in Brighton Rock was the most frightening.
Nhân vật nào, trong những cuốn tiểu thuyết của ông, ông thích nhất, và, sợ nhất?
Tôi không nghĩ có nhân vật nào của tôi
làm tôi sợ, nhưng giả như có, thì là Pinkie,
trong Brighton Rock.
How did you come to be known as a Catholic writer?
Nobody knew that I was a Catholic writer for a good many years. I became
a Catholic in 1927; my first book was published in 1929. Nobody discovered
I was a Catholic until 1938, when Brighton Rock was published, and
then I became dubbed a Catholic writer. I resent the phrase. I say that I
am a writer who happens to be a Catholic, because I do not consider myself
altogether an orthodox Catholic and I do not wish to be constricted in my
characters or in their motives as I am afraid Mauriac was a bit constricted
by his Church.
How do you define your political position?
I would say that from the start of my writing, in a book called It's a Battlefield,
my political opinions became obvious. They were obviously to the left. If
it hadn't become a dirty word, I would call myself a social democrat, but
certainly I am on the left. I don't like to be called anti-American. I have
been very critical in The Quiet American and elsewhere of American
foreign policy. American foreign policy is not American individuals, and
I have been critical of the consumer society - the exaggeration of the consumer
society. Again, that does not mean that one is anti-Americans...
The Intruder
Borges viết về " The Intruder":
ON 'THE
INTRUDER'
It was a
brutal story, I'm sorry to say, but it was meant to be brutal. It shows
the
contempt men have for women in my country and in South America
generally. It's
a story about machismo, which I thoroughly dislike. It's a very simple
story, but
I didn't know how to end it. 1 was dictating it to my mother (I was
already
blind) and 1 came to the point where the elder brother has to tell the
younger
that he has killed the girl. And then 1 said to my mother, 'The fate of
the
story depends on the words he says. Try and help me.' She was taking
down the story,
she didn't like it, and she said, 'Let me think.' And then she said in
a quite
different voice, 'I know what he said.' It was as if he had actually
said it,
but of course it was merely fiction. And then 1 said, 'Well, write it
down.'
And then she wrote down, 'A trabajar, hermano. Esta manana la mate. To
work, brother,
this morning I killed her.' She found the right words, but she didn't
like the
story; however, at that moment she believed in the story. And then she
made me
promise never to write about people like that again; she found them
utterly uninteresting
and repugnant. 'Don't keep on writing about knives and knife duels,'
she said;
'I'm sick and tired of it all.'
She had
found her way inside the story and I hadn't really. She knew far better
about
the story than I did, since she found the right words and the right
intonation
and the right cadence to the words.
*****
Người hiểu
Kafka nhất, và viết đúng nhất, hay nhất về ông,
là
Borges.
Và có thể nói, Borges là truyền nhân của ông, cái mối
liên lạc giữa hai ông, liên quan tới cuộc đời
này và cuộc
đời kia.
Cả hai ông chê Borges, là Naipaul và Yann Martel, đều không
nhận ra điều
này, 1 phần là do họ đếch thèm để ý đến cuộc đời kia, theo Gấu.
Một trong những
viết bảnh nhất của Borges, về Kafka, là bài "Những Tiền Thân của
Kafka".
Tụi Tẩy
mũi lõ, Malraux, thí dụ, quá mê bài này, là vì lý do này:
Chỉ 1 khi mi có tí xấu, tí
bẩn, thì mi đến
được cõi đời kia.
Sạch quá là
biến thành… kít!
Hà, hà!
Đúng như thế!
Lũ tinh anh
Miền Nam sợ chết quá, sợ bửn vì 1 cõi Ngụy quá, mê VC, cũng là do lý do
này. Chúng muốn
sạch, nên biến thành kít hết.
Đám tinh
anh, cực kỳ thông minh, số 1 Bắc Kít, cũng y chang!
Kafka và những
người đi trước ông
Jorge Luis
Borges
Tôi
đã có lần tính làm một nghiên cứu những tiền
thân của Kafka. Thoạt đầu, tôi coi ông một mình trong cõi ngôn từ như
loài phượng
hoàng, nhưng lật vài trang, tôi lại có ý nghĩ, có thể nhận ra giọng nói
của
ông, hay những cung cách, ngón nghề của ông, ở những bản viết từ những
dòng văn
chương, thế này thế khác, thời này thời nọ. Tôi ghi lại một chút ở đây,
theo kiểu
biên niên.
Đầu
tiên là nghịch lý Zenon, chống lại sự chuyển
động. Một vật chuyển động ở A (Aristotle tuyên bố) không thể tới B, bởi
vì trước
hết, nó phải vượt nửa khoảng cách giữa hai điểm, và trước đó, nửa của
một nửa,
và trước đó, nửa của "nửa của một nửa"; cứ như thế cho tới vô cùng;
bài toán này y hệt như trong "Lâu Đài"; và vật chuyển động, mũi tên
và Achilles là những nhân vật Kafka đầu tiên trong văn chương.
Trong bản viết thứ nhì may mắn sao nằm trước
tôi, sự tương tự không phải ở dạng, mà là giọng kể. Một ẩn dụ của Han
Yu, người
viết thơ xuôi thế kỷ thứ 9, được in lại trong cuốn sách đáng yêu của
Margouliès, Tuyển tập văn chương Trung-hoa với phần dẫn giải (1948).
Huyền hoặc,
trầm lắng, là đoạn tôi đánh dấu: "Ai cũng thừa nhận kỳ lân là một linh
vật
mang đến điềm lành, điều này đã được nói rõ trong mọi cuốn thơ ca, biên
niên,
tiểu sử có minh họa, và nhiều bản viết khác mà uy tín của chúng không
cần bàn
cãi. Ngay cả trẻ con và đàn bà nhà quê cũng biết kỳ lân tạo điềm tốt.
Nhưng con
vật này lại không hề hiện diện giữa đám thú vật nuôi quanh nhà, thật
khó thấy,
nó không để vướng mình vào bảng phân loại. Nó không như con ngựa, con
bò, con
chó sói, hay con nai. Trong những điều kiện như thế, chúng ta có thể
đối mặt với
kỳ lân, và không biết một cách chắc chắn, con gì đây. Chúng ta biết,
con vật
như thế đó có tên là con ngựa, con vật có những cái sừng như vậy là con
bò.
Nhưng chúng ta không biết kỳ lân như thế nào."(1)
Bản văn thứ ba từ một nguồn dễ dự đoán hơn
nhiều:
những bài viết của Kierkegaard. Tinh anh đồng điệu giữa cả hai người
viết là một
điều ai cũng nhận ra. Điều chưa được nói tới, như tôi cho tới lúc này
hiểu được,
đó là sự kiện, Kierkegaard, như Kafka, viết nhiều ngụ ngôn tôn giáo, về
những đề
tài trưởng giả, đương đại. Lowrie, trong cuốn Kierkegaard của ông,
(Oxford
University, 1938), đã chuyển ngữ hai trong số đó. Một là câu chuyện một
người
làm bạc giả, dưới sự kiểm soát gắt gao, đếm giấy bạc trong Ngân hàng
Anh; cùng
một đường hướng như vậy, Thượng Đế sẽ không tin tưởng Kierkegaard, và
đã giao
cho ông một nhiệm vụ để hoàn thành, chính bởi vì, Người biết ông ta vốn
thân
quen với cái xấu.
Đề tài câu chuyện ngụ ngôn kia là về những
chuyến thám hiểm Bắc Cực. Qua giới tăng lữ, những vị trưởng lão Đan
Mạch tuyên
bố, việc tham dự vào những chuyến thám hiểm như thế có lợi cho hạnh
phúc đời đời
của linh hồn. Tuy nhiên họ thừa nhận, thật khó, và có lẽ thật vô
phương, tới được
điểm Cực, và không phải tất cả mọi người, ai cũng có thể đảm nhận cuộc
phiêu
lưu. Sau cùng, họ đi đến thông báo, bất cứ một chuyến đi nào - từ Đan
Mạch tới
London, chúng ta cứ nói vậy - trên chuyến tầu chạy theo giờ giấc thường
lệ - đều
được coi là một chuyến thám hiểm Bắc Cực.
Diễn dịch thứ tư ở đây, tôi tìm thấy trong bài
thơ của Browning, "Lo sợ và Ngại ngùng", được xuất bản năm 1876. Một
người đàn ông có, hoặc anh ta tin tưởng có, một người bạn nổi tiếng.
Chẳng bao
giờ anh ta gặp bạn, sự thể là, cho tới nay, người bạn chưa từng giúp đỡ
anh ta,
tuy bao câu chuyện đã được kể, về những nét quý phái, phong nhã số một
của người
bạn, bao thư từ thực sự của người bạn chạy lòng vòng đâu đó. Rồi có
người tỏ ra
nghi ngờ về những điều này, và những chuyên viên khảo tự tuyên bố,
những lá thư
là bịa đặt. Người đàn ông, trong dòng thơ chót, hỏi: "Và phải chăng,
người
bạn này là... Thượng Đế?"
Những ghi nhận của tôi còn hai câu chuyện. Một
là từ Chuyện không vui (Histoires Déobligeantes), của Léon Bloy, về một
vài người
sở hữu đủ thứ trái địa cầu, bản đồ thế giới, chỉ dẫn đường xe lửa và
những tuyến
đường lớn, nhưng chết mà chưa từng toan tính một lần rời xa tỉnh nhà.
Câu chuyện
kia nhan đề "Carcassonne" và là tác phẩm của Lord Dunsany. Một quân đội
bách chiến bách thắng, gồm những chiến sĩ, rời tòa lâu đài vô định,
chinh phục
những vương quốc, nhìn thấy những quái vật, vét kiệt những sa mạc,
những núi
non, nhưng họ chẳng bao giờ tới được Carcassonne, mặc dù có lần họ đã
thoáng
nhìn thấy, từ xa. (Câu chuyện này, như người ta dễ dàng nhận ra, là đảo
ngược
triệt để của câu chuyện trên; trong câu chuyện thứ nhất, là thành phố
không thể
bị bứng khỏi, còn trong chuyện thứ nhì, chẳng bao giờ tới được.)
Nếu tôi không lầm, những mẩu đa dạng tôi vừa kể,
giống Kafka; nếu tôi không lầm, tất cả chúng, chẳng cái nào giống cái
nào. Sự
kiện thứ nhì này có ý nghĩa hơn. Trong từng bản văn, chúng ta nhận
thấy, hoặc
nhiều hoặc ít, phong cách riêng của Kafka, nhưng nếu Kafka chưa từng
viết một
dòng, chúng ta sẽ không nhận ra tính chất này; nói một cách khác, chúng
chưa hề
hiện hữu. Bài thơ "Fears and Scruples" của Browning tiên liệu tác phẩm
của Kafka, nhưng cái đọc Kafka của chúng ta rõ ràng làm sắc bén, và làm
sai lệch
cái đọc bài thơ. Browning đã không đọc nó như bây giờ chúng ta đọc.
Trong tự vựng
của những nhà phê bình, từ "tiền thân" (precursor) không thể thiếu
được,
nhưng nên tháo gỡ mọi trò luận chiến hoặc ganh đua. Sự thể là, mỗi
người viết
sáng tạo ra những tiền thân của riêng người đó. Tác phẩm của anh ta sửa
đổi
quan niệm của chúng ta về quá khứ, như là nó sẽ sửa đổi tương lai.(2)
Trong
tương quan này, điều không quan trọng, đó là đặc nét, hay đa nét, của
những người
trong cuộc. Tính tiền thân của những huyền thoại tối tăm và những định
chế tàn
bạo, ở Kafka thời đầu, trong Betrachtung, ít chất Kafka hơn, nếu so với
Browning và Lord Dunsany.
(Dịch từ bản Anh ngữ của James E. Irby, trong
tập Mê cung, Labyrinths, nhà xb A New Directions Book).
Chú thích của tác giả:
(1). Sự không thừa nhận những linh vật và cái
chết có tính lăng nhục, hoặc như là tai nạn, của chúng ở nơi tay con
người, là
những đề tài truyền thống của văn chương Trung Hoa. Xin coi chương chót
cuốn
sách của Jung, Tâm lý học và Thuật luyện kim, Psychologie und Alchemie
(Zurich,
1944), trong có hai minh họa ngồ ngộ.
(2). Xin coi T. S. Eliot: Quan điểm, Points of
View (1941), pp. 25-26.
NQT chuyển ngữ
ON WHAT
MAKES A CLASSIC
I think the
reader should enrich what he's reading. He should misunderstand the
text; he
should change it into something else. I suppose that when Shakespeare
wrote Macbeth or Hamlet or King Lear those books were far
simpler, but now, after
Coleridge, after Bradley, after Goethe also, those books have been
enriched by
the generations of readers. I think that a classic is not a book
written in a
certain way, as Eliot thought, but rather a book read in a certain way.
When
you read a classic you think that everything has been thought out, that
no chance
words are to be found. When you read the Bible, especially, you think
that the
Holy Spirit has taken care of the whole thing.
Every country has its own
classics, and that means that every country reads certain writers in a
certain
way, in a very respectful way, always trying to elicit a meaning out of
every sentence,
although those sentences, for all we know, may be chance sentences. So
I think
that a classic depends on the reader rather than on the text. In our
country, I
think Sarmiento's Facundo should have been made into a classic, but it
hasn't.
A classic has been made of Martin Fierro. That, I think, has done us no
good;
but still, what is there I can do about it? Nothing.
It is very strange that
every country should have a celebrated classic quite unlike itself. The
English
go in for understatement, but I wouldn't say Shakespeare went in for
understatement.
He went in for metaphors, interjections, and so on. We think of the
Germans as
being fanatic, and yet their hero is Goethe, who was unlike most other
Germans.
Napoleon invaded his country, and he went to visit Napoleon. Goethe had
no use
for nationalism; he was untypical. The same with Cervantes. To think
that
Cervantes was a contemporary of the Inquisition! People were strong
Catholics
and had a bias against the Protestants. But Cervantes was a tolerant
man, a smiling
man, and I suppose in his time it didn't do at all to smile in Spain.
He did,
and he has been chosen. Every classic is a kind of antidote against the
faults
of its people. That's why Shakespeare has been chosen - because he is
so
un-English. Goethe is so un-German; Cervantes is so un-Spanish. That's
why they
have been chosen, and the world has accepted them. They were all men of
genius,
of course.
ON THE
READER'S CONTRIBUTION TO A BOOK
The reader
is very important, because a book is a dead thing until it is opened
and read.
A book is a thing among things. When you open it and read it, if you
are the
right reader and its author is the right writer, then the whole thing
springs
into life, the book arrives, the aesthetic fact happens.
A book comes to life
when it's opened and read, so that the reader contributes to the book.
I think
that the role of the reader is very important; he collaborates with the
writer
and enriches him, since he finds many things that were not intended by
the
writer. As does the translator, also. The translator is a very close
reader;
there is not much difference between translating and
reading. When you translate, you have to find the meaning of every
sentence, to
find the right words and the right cadence, so that I think the reader
is quite
as important as the translator,
who is a kind of reader.
Whenever I
read myself I suppose I am also changing what I wrote, since I read it
with
different experiences. When I came back from Egypt, I read books on
Egypt -
Edward William Lane, for
example - in a different way.
Borges on Borges
Về cổ điển
Tôi nghĩ độc
giả nên làm cho mình trở nên giàu sang, phong nhã, qua cái việc đọc –
nên làm giàu
cái mà anh ta đọc. Anh ta có thể hiểu lộn bản văn. Anh ta có thể chuyển
dịch nó,
thay đổi nó, thành một điều gì khác. Tôi giả dụ, khi Thạch Sĩ Bia viết
vừa Hâm
lại vừa Liệt, hay Mạc Bẹt, hay Vua Nia, những cuốn này, lúc đó, mới
giản dị làm
sao, bi giờ, sau Coleridge, sau Bradley, sau Goethe, chúng trở nên giầu
có, bởi
ngàn ngàn thế hệ độc giả. Tôi nghĩ, một tác phẩm cổ điển không phải là
1 cuốn sách
được viết, bằng 1 cách nào đó, như Eliot nghĩ, mà là 1 cuốn sách được
đọc, bằng
một cách nào đó. Khi bạn đọc 1 cuốn cổ điển, bạn nghĩ, thế là khỏi đọc
1 cuốn nào
khác nữa, mọi chuyện đã được nói, mọi từ đã được sử dụng, vô phương
kiếm ra từ
mới. Đặc biệt là, một khi bạn đọc Thánh Kinh, bạn nghĩ Chúa đã tính
toán chi li,
trọn mọi điều.
Về sự đóng góp
của độc giả vô 1 cuốn sách
Độc giả rất
quan trọng, bởi là vì cuốn sách là 1 vật chết, cho đến khi nó được mở
ra đọc.
Cuốn sách là 1 vật trong số những vật. Khi bạn mở ra đọc, nếu bạn, đúng
là độc
giả, và tác giả, đúng là tác giả, thì trọn thứ nhẩy bổ vô đời sống,
cuốn sách tới,
sự kiện mĩ miều, cái gì gì, "trung thư hữu nữ nhan như ngọc", trong
sách có… BHD
xẩy ra!
Bếp Lửa
Ottawa
Trong bài viết
về Borges, Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên The New Yorker,
sau in
trong “Steiner at The New Yorker”, Steiner có nhắc tới 1 truyện ngắn
của
Borges, mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder. Truyện này hoành
dương,
illustrate, tư tưởng hiện tại của Borges.
Tò mò, Gấu
kiếm trong “thư khố” của Gấu, về ông, không có. Lên net, có, nhưng chỉ
cho đọc,
không làm sao chôm: “The Intruder”, câu chuyện hai anh em chia nhau,
một phụ nữ
trẻ. Một trong họ, giết cô gái để cho tình anh em lại được trọn vẹn. Vì
chỉ có
cách đó mà hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn phận quên
nàng”.
Borges coi
nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí - cho những những
câu chuyện
đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện
nhỏ, nhẹ,
nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách lạ thường. Lần đầu đọc, trên
net, Gấu
mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra,
của cả Miền
Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê, và
1 thằng
đã "làm thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:
Như thể, sau
khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề
Gòn, và thấy
Những Ngày Ở Sài Gòn, nằm trên bàn!
"The
Intruder," a very short story recently translated into English,
illustrates Borges's present ideal. Two brothers share a young woman.
One of
them kills her so that their fraternity may again be whole. They now
share a
new bond: "the obligation to forget her."
Borges
himself compares this vignette to Kipling's first tales. "The
Intruder" is a slight thing, but flawless and strangely moving. It is
as
if Borges, after his rare voyage through languages, cultures,
mythologies, had
come home and found the Aleph in the next patio.
Steiner cho
rằng cái sự nổi tiếng của Borges làm khổ dúm độc giả ít ỏi, như là 1 sự
mất mát riêng tư.
Và theo ông,
nó bắt đầu, cùng với sự kiện, cả hai đấng rất ư được người đời ít biết
đến, và đọc
được họ, là Beckett và Borges, khi hai đấng này chia nhau giải thưởng
Formentor
Prize, vào năm 1961.
Năm sau, Mê Cung
và Giả Tưởng
của Borges có
bản tiếng Anh.
Vinh danh rớt xuống, như mưa: Honors
rained.
Vào cái tuổi
già chín rục, Borges tếu táo, tôi bắt đầu nghi, rằng thì là bi giờ cả
thế giới
biết tới mình!
Quả là 1 ngạc nhiên, bởi là vì vào năm 1932, cỡ đó, tôi có cho
xb 1 cuốn sách, và cuối năm, tôi khám phá
ra, chỉ bán được có 37 cuốn!
Beckett thì
cũng rứa! Gấu nhớ là 1 tay xb từ chối ông, sau quá ân hận.
TTT cũng thế.
May sau đó,
nhờ Nguyễn Đình Vượng, đổ mớ sách ra hè đường Xề Gòn, nhờ thế cuốn sách
tái
sinh, từ tro than, từ bụi đường!
Khủng nhất,
là, ông già NDV như tiên đoán ra được số phận của cả 1 nền văn chương
của cả 1 Miền
Nam, sau đó, sau 1975!
Gấu là thằng
may nhất, nếu không có cú bán xon của NDV, Gấu không làm sao được đọc
Bếp Lửa! (2)
The Intruder
Borges viết về " The Intruder":
ON 'THE
INTRUDER'
It was a
brutal story, I'm sorry to say, but it was meant to be brutal. It shows
the
contempt men have for women in my country and in South America
generally. It's
a story about machismo, which I thoroughly dislike. It's a very simple
story, but
I didn't know how to end it. 1 was dictating it to my mother (I was
already
blind) and 1 came to the point where the elder brother has to tell the
younger
that he has killed the girl. And then 1 said to my mother, 'The fate of
the
story depends on the words he says. Try and help me.' She was taking
down the story,
she didn't like it, and she said, 'Let me think.' And then she said in
a quite
different voice, 'I know what he said.' It was as if he had actually
said it,
but of course it was merely fiction. And then 1 said, 'Well, write it
down.'
And then she wrote down, 'A trabajar, hermano. Esta manana la mate. To
work, brother,
this morning I killed her.' She found the right words, but she didn't
like the
story; however, at that moment she believed in the story. And then she
made me
promise never to write about people like that again; she found them
utterly uninteresting
and repugnant. 'Don't keep on writing about knives and knife duels,'
she said;
'I'm sick and tired of it all.'
She had
found her way inside the story and I hadn't really. She knew far better
about
the story than I did, since she found the right wor
BORGES AND
THE RAVENS
Borges
và những con quạ
Tôi ở Geneva
và kiếm nghĩa địa Borges nằm nghỉ. Đó là một buổi sáng mùa thu, trời
lạnh, mặc
dù phía đông thấy có tí mặt trời, và một vài tia nắng làm cư dân
Geneva, một
giống dân ương ngạnh có truyền thống dân chủ, sướng điên
lên.
Plainpalais,
nghĩa địa
Borges nằm nghỉ dài hạn, thực đúng là một công viên tuyệt hảo, thứ công
viên mà
Gấu Cà Chớn cực mê, vì nó làm nhớ tới công viên Tao Đàn ở Xề Gòn (1),
nơi, cứ xế trưa
là người ta bèn tới đó, kiếm 1 chỗ để đọc sách, thí dụ, từ ngôi mộ của
một đấng,
khi còn sống làm bộ trưởng nhà nước [Ngụy, tất nhiên].
Quả đúng là 1 công viên hơn là một nghĩa địa,
một công viên được tỉa tiếc tới chỉ, một mẩu đất cũng được chăm sóc.
Khi tôi
hỏi người coi coi giữ về ngôi mộ của Borges, người đó bèn ngó xuống
đất,
gật gật cái
đầu và chỉ dẫn, không một lời thừa. Chẳng thể nào lạc. Từ những điều
ông ta nói,
thì rõ là nghĩa địa có nhiều khách thăm viếng. Nhưng buổi sáng hôm đó,
quái làm
sao, trần mình tôi. Và khi tôi tới mộ Borges, tất nhiên là chẳng có ai
lảng vảng
quanh đó. Tôi bèn nghĩ về Calderón, nghĩ về những người Romantics Hồng
Mao và Đức.
Tôi bèn nghĩ rằng là đời thì lạ làm sao, hay, đúng hơn: Tôi đếch nghĩ
cái mẹ gì
hết!
Tôi nhìn ngôi mộ, tôi nhìn cái bia đá có tên Jorge Luis Borges, ngày
ông
sinh ra, ngày ông mất, và 1 dòng thơ tiếng Anh Cổ. Thế rồi tôi ngồi cái
băng ghế
đối diện ngôi mộ và, một con quạ bèn nói một điều gì đó, bằng thứ ngôn
ngữ quoạc
quoạc của nó, cách tôi vài bước chân. Một con quạ!
Cứ như thể, thay vì
ở
Geneva, thì tôi ở trong một bài thơ của Poe.
Chỉ tới lúc đó tôi nhận
ra, nghĩa địa đầy quạ, những con quạ đen khổng lồ, lò cò
giữa những ngôi mộ đá, trên cành cổ thụ, hay chạy trên những thảm cỏ.
Và tôi cảm
thấy mình như đang lang thang tản bộ, nhìn thêm nhiều ngôi mộ, và, nếu
may mắn,
tôi có thể thấy ngôi mộ của Calvin, và đúng là điều tôi đang làm, mỗi
lúc một thêm
bừng bực, vì đàn quạ lẵng nhẵng theo sau, luôn giữ giới hạn, như trong
nghĩa địa,
và, như tôi giả dụ, thi thoảng, có vài đấng, bỏ cuộc vui, bèn làm 1
chuyến bay tới
đậu ở bờ sông Rhone, hay những bờ hồ, để ngắm thiên nga, vịt, với cái
vẻ dè bỉu,
khinh khi, tất nhiên!
(1)
Khi về, cô tha thẩn giữa những
hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa
Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở
thành người lớn.
Lần Cuối Sàigòn
BORGES AND
THE RAVENS
I'm in
Geneva and I'm looking for the cemetery where Borges is buried. It's a
cold
autumn morning, although to the east there's a glimpse of sun, a few
rays that
cheer the citizens of Geneva, a stubborn people of great democratic
tradition.
The Plainpalais, the cemetery where Borges is buried, is the perfect
cemetery:
the kind of place to come every afternoon read a book, sitting across
from the
grave of some government minister. It's really more like a park than a
cemetery, all extremely manicured park, every inch well-tended. When I
the
keeper about Borges's grave, he looks down at the ground, nods, and
tells me
how to find it, not a word wasted. There’s no way to get lost. From
what he
says it's clear that visitors always coming and going. But this morning
the cemetery
is literally empty. And when I finally reach Borges's grave there’s no
one
nearby. I think about Calderon, I think about the English and German
Romantics,
I think how strange life is or, rather: I don't think anything at all.
I just
look at the grave the stone inscribed with the name Jorge Luis Borges,
the date
of his birth, the date of his death, and a line of Old English verse.
And then
I sit on a bench facing the grave and a raven says something in a
croak, a few
steps from me. A raven! As if instead of being in Geneva I were in a
poem by
Poe. Only then do I realize that the cemetery is full of ravens,
enormous black
ravens that hop up on the gravestones or the branches of the old trees
or run
through the clipped grass of the Plainpalais. And then I feel like
walking, looking
at more graves, maybe if I'm lucky I'll find Calvin's, and that's what
I do,
growing more and more uneasy, with the ravens following me, always
keeping
within the bounds of the cemetery, although I suppose that one
occasionally
flies off and goes to stand on the banks of the Rhone or the shores of
the lake
to watch the swans and ducks, somewhat disdainfully, of course.
Roberto
Bolano: Between parentheses
Note:
Tay
Bolano
này, đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu thế, nhưng một PCT thực,
trong
khi PCT Mít thì lại là đồ dởm!
Có vẻ như nhà
văn Mít, nói chung, thì đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng Ngọc Hiến,
cái nước mình nó thế!
GCC hình như
cũng mới mê Bolano đây thôi, có thể là từ lần đọc bài thơ của ông viết
về… BHD,
hà hà!
Borges
và những con quạ
Tôi ở Geneva
và kiếm nghĩa địa Borges nằm nghỉ. Đó là một buổi sáng mùa thu, trời
lạnh, mặc
dù phía đông thấy có tí mặt trời, và một vài tia nắng làm cư dân
Geneva, một
giống dân ương ngạnh có truyền thống dân chủ, sướng điên
lên.
Plainpalais,
nghĩa địa
Borges nằm nghỉ dài hạn, thực đúng là một công viên tuyệt hảo, thứ công
viên mà
Gấu Cà Chớn cực mê, vì nó làm nhớ tới công viên Tao Đàn ở Xề Gòn (1),
nơi, cứ xế trưa
là người ta bèn tới đó, kiếm 1 chỗ để đọc sách, thí dụ, từ ngôi mộ của
một đấng,
khi còn sống làm bộ trưởng nhà nước [Ngụy, tất nhiên].
Quả đúng là 1 công viên hơn là một nghĩa địa,
một công viên được tỉa tiếc tới chỉ, một mẩu đất cũng được chăm sóc.
Khi tôi
hỏi người coi coi giữ về ngôi mộ của Borges, người đó bèn ngó xuống
đất,
gật gật cái
đầu và chỉ dẫn, không một lời thừa. Chẳng thể nào lạc. Từ những điều
ông ta nói,
thì rõ là nghĩa địa có nhiều khách thăm viếng. Nhưng buổi sáng hôm đó,
quái làm
sao, trần mình tôi. Và khi tôi tới mộ Borges, tất nhiên là chẳng có ai
lảng vảng
quanh đó. Tôi bèn nghĩ về Calderón, nghĩ về những người Romantics Hồng
Mao và Đức.
Tôi bèn nghĩ rằng là đời thì lạ làm sao, hay, đúng hơn: Tôi đếch nghĩ
cái mẹ gì
hết!
Tôi nhìn ngôi mộ, tôi nhìn cái bia đá có tên Jorge Luis Borges, ngày
ông
sinh ra, ngày ông mất, và 1 dòng thơ tiếng Anh Cổ. Thế rồi tôi ngồi cái
băng ghế
đối diện ngôi mộ và, một con quạ bèn nói một điều gì đó, bằng thứ ngôn
ngữ quoạc
quoạc của nó, cách tôi vài bước chân. Một con quạ!
Cứ như thể, thay vì
ở
Geneva, thì tôi ở trong một bài thơ của Poe.
Chỉ tới lúc đó tôi nhận
ra, nghĩa địa đầy quạ, những con quạ đen khổng lồ, lò cò
giữa những ngôi mộ đá, trên cành cổ thụ, hay chạy trên những thảm cỏ.
Và tôi cảm
thấy mình như đang lang thang tản bộ, nhìn thêm nhiều ngôi mộ, và, nếu
may mắn,
tôi có thể thấy ngôi mộ của Calvin, và đúng là điều tôi đang làm, mỗi
lúc một thêm
bừng bực, vì đàn quạ lẵng nhẵng theo sau, luôn giữ giới hạn, như trong
nghĩa địa,
và, như tôi giả dụ, thi thoảng, có vài đấng, bỏ cuộc vui, bèn làm 1
chuyến bay tới
đậu ở bờ sông Rhone, hay những bờ hồ, để ngắm thiên nga, vịt, với cái
vẻ dè bỉu,
khinh khi, tất nhiên!
(1)
Khi về, cô tha thẩn giữa những
hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa
Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở
thành người lớn.
Lần Cuối Sàigòn
Borges
by Cioran
Cái ý tưởng
Borges đúng ra “không nên ca ngợi, người của bóng tối”, thực ra, nhiều
người đã
nói tới, trong số đó, có Borges, như lần ông phàn nàn Callois, người
giới thiệu
ông với nước Pháp, hay lần ông cho biết, sách của ông in ra, chỉ bán
được lèo tèo
có mấy cuốn, thế rồi đùng 1 phát, nổi tiếng khắp thế giới!
Hay như Steiner, khi
cho rằng cái giải thưởng cho Borges và Beckett khiến cả hai ông này đều
được biết
đến, làm khổ cả hai ông, và làm khổ chính độc giả của ông, một dúm
người thực tình
đọc được ông, coi ông là gia tài của riêng họ….
Theo Gấu,
Borges ghê gớm ở chỗ, ông rất “xoàng”, đối với người không đọc được
ông. Thí dụ,
Naipaul, hay Yann Martel, tác giả “Life of Pi”.
Mà đúng thế thực! Thơ của ông, “hay
vì xoàng”, theo Gấu. Chính Borges cũng nhận ra, và thú nhận, tớ làm thơ
xoàng,
nhưng vẫn mê làm thơ!
Tưởng
niệm Borges
Tôi muốn kể về cái lần tôi gặp
Borges. Tôi được bà bạn Victoria
Ocampo mời dùng bữa trưa có Borges cùng
dự, và được phái đi đón ông, tại Thư Viện Quốc Gia, để đưa ông tới căn
phòng của
bà, bởi vì ông mắt ông mù không còn nhìn thấy đường. Ngay khi cánh
cửa thư
viện đóng lại phía sau, là chúng tôi bắt đầu nói chuyện văn chương.
Borges nói
tới ảnh hưởng của G. K. Chesterton, và của Robert Louis Stevension ở
hậu thời ở
nơi ông. Thơ xuôi của Stevenson ảnh hưởng lớn lên tôi, ông cho biết.
Nhân
tiện, tôi châm vô 1 cú. Robert Louis Stevenson ít nhất là đã từng làm
thơ, và ít
nhất, tôi còn nhớ một bài của ông ta. Một bài thật là bảnh. Viết về tổ
tiên. Ðã từng xây những ngọn hải đăng lớn nơi bờ biển Scotland, và tổ
tiên là một
đề tài ruột của Borges.
Bài thơ bắt đầu:
Ðừng nói với tôi chuyện,
tôi chẳng khoái sinh con đẻ cái,
để nối giái tông đường, và,
thay vì vậy,
thì đánh bài chuồn ra biển
Những cái tháp mà chúng ta xây, và những ngọn đèn mà chúng ta thắp
Ðể chơi ở nhà với tờ giấy như một đứa bé.
Con phố Buenos Aires đông
người, quá ồn. Borges dừng lại ở hè
đường, đọc trọn bài thơ cho tôi nghe, không hỏng một từ. Sau bữa ăn dễ
chịu,
ông ngồi tại sô pha và lèm bèm tới chỉ về văn chương Anglo-Saxon, tung
ra những
tảng lớn, như những khúc cây. Tôi chịu, không thể theo kịp. Nhưng nhìn
vào mắt
ông khi đọc những tảng lớn thơ văn đó, tôi hết sức ngạc nhiên về cái sự
biểu
hiện của chúng. Chúng chẳng có chi là mù lòa. Nhìn, có cảm tưởng, như
thể,
chúng nhìn vào chính chúng, một cách thật là kỳ cục, và chúng thật là
bảnh,
thật thanh lịch, cao nhã.
Borges, tất nhiên cũng có cùng một cảm nghĩ như vậy về tổ tiên, về
những “gauchos” trong quá khứ. Những truyện ngắn hậu thời của ông, thì
đầy những
câu chuyện về những “gauchos”, một trong đó, ông viết, “Thì cũng như
những con
người của một vài xứ sở thờ phụng và cảm thấy tiếng gọi của biển, người
Á Căn Ðình
chúng tôi hú vọng về những cánh đồng bạt ngàn sôi reo dưới móng ngựa."
Ông là một người đàn ông can đảm cùng mình. Thời kỳ đệ nhị Peron, một
lần, khi ông
sống cùng dưới mái nhà với bà mẹ già, thì có 1 cú phôn bí ẩn. Một
giọng đàn ông,
“Chúng ông tới làm thịt mi, và bà mẹ của mi ngay bi giờ.” Bà cụ Borges
trả lời,
“ta chín chục bó, tới lẹ lên không không kịp, còn thằng con ta, nó thì
mù, chuyện
dễ ợt”. Giai thoại này theo tôi đưa ra 1 bức tranh toàn cảnh về gia
đình ông.
Lần
nào cũng như lần ấy, và thật nhiều lần, mỗi lần giở 1 cuốn sách của
ông, tôi đều
tìm thấy những câu, mà một thằng nhà văn như tôi, cũng từng có kinh
nghiệm viết
lách, thì thấy, cũng chẳng khác gì kinh nghiệm của tôi! Ông gọi, viết là một “giấc mơ
được dẫn dắt”, và
trong một dịp, ông viết:
“Ta đếch viết cho một thiểu số
được chọn lọc, chúng là cái chó gì
mà viết cho chúng, ta cũng đếch viết cho một thực thể lý tưởng ưa nịnh
hót, được
biết dưới cái tên “Quần Chúng”. Cả hai lũ khốn, trừu tượng, đó, ta đều
không
tin, tuy chúng thật là đáng quí đối với những tên mị dân. Ta viết cho
chính ta,
và cho bạn bè của ta, và ta viết để làm dịu thời gian trôi qua."
Phán như thế,
thành ra, bất cứ
1 nhà văn, thứ thiệt, thì đều cảm
thấy ông thật gần gụi với họ.
.... Hỏi, chúng ta học được gì từ Mỹ Châu La Tinh, thì chẳng khác gì,
chúng ta học được gì từ "King Lear", những thảm kịch của Shakespeare.
Tôi nghĩ đến hoàn cảnh bi đát, the tragic situation, của Mỹ Châu La
Tinh. Thật khó mà biết chúng ta học đưọc gì từ đó, nhưng chúng ta phải
học được một điều gì đó, và nó tác động lên trí tưởng tượng của chúng
ta.
Một điều như cú làm thịt Archbishop Romero,
thí dụ.
Cám ơn Trời chúng ta không vướng vào hoàn cảnh như vầy, nhưng tôi tin
rằng một cách nào chúng ta học được 1 điều gì
đó, nó tác động lên vô thức của chúng ta.
Graham Greene
Note:
Đây chính là câu trả lời, “cũng” cho xứ xở chúng ta, mà Thầy Kuốc than
là, sao
bất hạnh quá!
Không lẽ
suốt “một thuở mang gươm đi dựng nước, ngàn năm thương nhớ Đất
Thăng
Long”, và làm thành 1 cái dải đất hình chữ S, sau khi làm cỏ không biết
bao nhiều
giống dân, sau cùng làm thịt luôn thằng em ruột thịt, và chỉ trong 40
chục năm làm cỏ cả 1 nền văn minh bốn ngàn năm, là chuyện... bất
hạnh?
Chúng
ta phải học được một điều gì đó, một điều gì tác động, không phải lên
vô
thức, mà lên
lương tâm, của 1 tên Mít, nhất là 1 tên Bắc Kít, tên “thắng trận”?
Những tác giả nào ảnh hưởng
mạnh nhất lên ông, khiến ông thành nhà văn?
Vào những ngày ngu ngơ, thì
những tác giả ảnh hưởng mạnh lên tôi, tôi phải nói,
bây giờ đếch ai còn đọc họ: Henry, Captain Brereton, Percy Westerman,
Marjorie
Bowen. Họ làm tôi thèm viết những câu chuyện,
hơn là kinh
nghiệm tiểu thuyết.
Sau đó, khi tôi bắt đầu viết, tôi bị ảnh hưởng tồi tệ của Conrad. Tồi
tệ, ấy là
tôi muốn nói, tôi bị ảnh hưởng bởi 1 cuốn tiểu thuyết dở của ông, The Arrow of Gold. Và cuốn này, thì
chính Conrad lại chịu ảnh hưởng nặng nề của Henry James. Ông này cũng
ảnh hưởng lên
tôi, về mặt kỹ thuật. Từ Henry James, tôi học được điều gọi là sự quan
trọng
của quan điểm, point of view. Nhưng Stevenson một bà con về phía mẹ tôi ảnh
hưởng lên tôi như là 1 người kể chuyện
Note: Nhà văn Mít có ai chịu
ảnh hưởng của… mũi lõ, cũng như… mũi tẹt nào chăng?
Đéo có!
Đéo đọc ai làm sao mà ảnh hưởng!
Tao ị ra cho người khác đọc, chứ sao lại phải đọc 1 kẻ nào khác!
Hà, hà!
V/v can đảm
cùng mình
On cowardice:
Tôi nghĩ tôi
hèn nhát, về mặt thể chất nhưng không, về mặt đạo hạnh
I think I’m
a physical coward but not an ethical coward
Về đạo hạnh
Tôi cố làm một
người đạo hạnh
I try to be
an ethical man
[Borges on
Borges]
Note: Tay
Bolano
này, đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu thế, nhưng một PCT thực,
trong
khi PCT Mít thì lại là đồ dởm!
Có vẻ như nhà
văn Mít, nói chung, thì đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng Ngọc Hiến,
cái nước mình nó thế!
GCC hình như
cũng mới mê Bolano đây thôi, có thể là từ lần đọc bài thơ của ông viết
về… BHD,
hà hà!
BORGES AND
THE RAVENS
I'm in
Geneva and I'm looking for the cemetery where Borges is buried. It's a
cold
autumn morning, although to the east there's a glimpse of sun, a few
rays that
cheer the citizens of Geneva, a stubborn people of great democratic
tradition.
The Plainpalais, the cemetery where Borges is buried, is the perfect
cemetery:
the kind of place to come every afternoon read a book, sitting across
from the
grave of some government minister. It's really more like a park than a
cemetery, all extremely manicured park, every inch well-tended. When I
the
keeper about Borges's grave, he looks down at the ground, nods, and
tells me
how to find it, not a word wasted. There’s no way to get lost. From
what he
says it's clear that visitors always coming and going. But this morning
the cemetery
is literally empty. And when I finally reach Borges's grave there’s no
one
nearby. I think about Calderon, I think about the English and German
Romantics,
I think how strange life is or, rather: I don't think anything at all.
I just
look at the grave the stone inscribed with the name Jorge Luis Borges,
the date
of his birth, the date of his death, and a line of Old English verse.
And then
I sit on a bench facing the grave and a raven says something in a
croak, a few
steps from me. A raven! As if instead of being in Geneva I were in a
poem by
Poe. Only then do I realize that the cemetery is full of ravens,
enormous black
ravens that hop up on the gravestones or the branches of the old trees
or run
through the clipped grass of the Plainpalais. And then I feel like
walking, looking
at more graves, maybe if I'm lucky I'll find Calvin's, and that's what
I do,
growing more and more uneasy, with the ravens following me, always
keeping
within the bounds of the cemetery, although I suppose that one
occasionally
flies off and goes to stand on the banks of the Rhone or the shores of
the lake
to watch the swans and ducks, somewhat disdainfully, of course.
Roberto
Bolano: Between parentheses
Borges
và những con quạ
Tôi ở Geneva
và kiếm nghĩa địa Borges nằm nghỉ. Đó là một buổi sáng mùa thu, trời
lạnh, mặc
dù phía đông thấy có tí mặt trời, và một vài tia nắng làm cư dân
Geneva, một
giống dân ương ngạnh có truyền thống dân chủ, sướng điên
lên.
Plainpalais,
nghĩa địa
Borges nằm nghỉ dài hạn, thực đúng là một công viên tuyệt hảo, thứ công
viên mà
Gấu Cà Chớn cực mê, vì nó làm nhớ tới công viên Tao Đàn ở Xề Gòn (1),
nơi, cứ xế trưa
là người ta bèn tới đó, kiếm 1 chỗ để đọc sách, thí dụ, từ ngôi mộ của
một đấng,
khi còn sống làm bộ trưởng nhà nước [Ngụy, tất nhiên].
Quả đúng là 1 công viên hơn là một nghĩa địa,
một công viên được tỉa tiếc tới chỉ, một mẫu đất cũng được chăm sóc.
Khi tôi
hỏi người coi coi giữ về ngôi mộ của Borges, người đó bèn ngó xuống
đất,
gật gật cái
đầu và chỉ dẫn, không một lời thừa. Chẳng thể nào lạc. Từ những điều
ông ta nói,
thì rõ là nghĩa địa có nhiều khách thăm viếng. Nhưng buổi sáng hôm đó,
quái làm
sao, trần mình tôi. Và khi tôi tới mộ Borges, tất nhiên là chẳng có ai
lảng vảng
quanh đó. Tôi bèn nghĩ về Calderón, nghĩ về những người Romantics Hồng
Mao và Đức.
Tôi bèn nghĩ rằng là đời thì lạ làm sao, hay, đúng hơn: Tôi đếch nghĩ
cái mẹ gì
hết!
Tôi nhìn ngôi mộ, tôi nhìn cái bia đá có tên Jorge Luis Borges, ngày
ông
sinh ra, ngày ông mất, và 1 dòng thơ tiếng Anh Cổ. Thế rồi tôi ngồi cái
băng ghế
đối diện ngôi mộ và, một con quạ bèn nói một điều gì đó, bằng thứ ngôn
ngữ quoạc
quoạc của nó, cách tôi vài bước chân. Một con quạ!
Cứ như thể, thay vì
ở
Geneva, thì tôi ở trong một bài thơ của Poe.
Chỉ tới lúc đó tôi nhận
ra, nghĩa địa đầy quạ, những con quạ đen khổng lồ, lò cò
giữa những ngôi mộ đá, trên cành cổ thụ, hay chạy trên những thảm cỏ.
Và tôi cảm
thấy mình như đang lang thang tản bộ, nhìn thêm nhiều ngôi mộ, và, nếu
may mắn,
tôi có thể thấy ngôi mộ của Calvin, và đúng là điều tôi đang làm, mỗi
lúc một thêm
bừng bực, vì đàn quạ lẵng nhẵng theo sau, luôn giữ giới hạn, như trong
nghĩa địa,
và, như tôi giả dụ, thi thoảng, có vài đấng, bỏ cuộc vui, bèn làm 1
chuyến bay tới
đậu ở bờ sông Rhone, hay những bờ hồ, để ngắm thiên nga, vịt, với cái
vẻ dè bỉu,
khinh khi, tất nhiên!
(1)
Khi về, cô tha thẩn giữa những
hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa
Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở
thành người lớn.
Lần Cuối Sàigòn
THE
WOMEN
READERS OF WINTER
During the
winter they seem to be the only ones brave enough to venture out into
the icy
cold. I see them at the bars in Blanes or at the station or sitting
along the
Paseo Maritimo by the water, alone or with their children or a silent
friend and
always carrying some book. What do these women read? wondered Enrique
Vila-Matas a few years ago. Whatever they can. Not always great
literature
(though what is great literature?). Sometimes it's magazines, sometimes
the
worst best sellers. When I see them walking along, bundled up, buffeted
by the
wind, I think about the Russian women who fought the revolution and who
endured
Stalinism, which was worse than winter, and fascism, which was worse
than hell,
and they always had books with them, when suicide would have been the
logical
choice. In fact, many of those winter readers ended up killing
themselves. But
not all of them. A few days ago I read that Nadezhda Yakovlevna
Khazina,
exceptional reader, author of two memoirs, one of them called Hope Against Hope, and wife of the
assassinated poet Osip Mandelstam, took part, according to a recent
biography,
in a threesome with her husband, news that inspired astonishment and
disappointment in the ranks of her admirers, who took her for a saint.
I,
however, was happy to hear it. It told me that in the middle of winter
Nadezhda
and Osip didn't freeze and it confirmed for me that at least they tried
to read all the books. The saintly readers of
winter are women of flesh and blood, and they couldn't be braver, Some,
it's
true, committed suicide. Others endured the horrors and returned to
their
books, the mysterious books that women read when it's cold and it seems
as if
winter will never end.
Roberto Bolano
Note: Bài này thú quá.
Đúng giọng cà chớn của Gấu Cà Chớn. Sẽ đi 1 đường dịch liền, để tặng nữ
độc giả của Tin Văn, nhân dịp SN GCC!
Nữ độc giả của
mùa đông
Vào mùa đông,
có vẻ như chỉ có họ, là những người, đủ can đảm, để “ai đi ngoài băng
giá”: Tôi
nhìn thấy họ, ở những ba ở Blanes, hay ở nhà ga, hay ngồi dọc Paseo
Maritimo, kế
bên dòng nước, một mình, hay với nhóc của họ, hay với 1 người bạn, và
luôn luôn,
với cuốn sách nào đó.
Đờn bà đọc,
OK, nhưng họ đọc cái giống chi, “nhẩy”?
Cách đây vài
năm, Enrique Vila-Matas đã lầu bầu 1 câu hỏi như thế. Thì bất cứ cái
gì họ có thể. Không phải luôn luôn, thứ văn chương nhớn (nhưng nè, văn
chương nhớn là
cái đéo gì vậy, hà, hà!] Khi
thì tạp chí, khi thì sách bán chạy nhất, thứ tệ nhất. Khi tôi nhìn họ
dảo bước,
co dúm người vì gió, tôi nghĩ tới những phụ nữ Nga chiến đấu cuộc cách
mạng và
chịu đựng chế độ Xì Ta Lin, tệ hại hơn mùa đông, chế độ Phát Xít, tệ
hại hơn địa
ngục và họ vưỡn có sách cùng với họ, khi mà tự tử là cách lựa chọn bảnh
nhất, hợp
lý nhất. Sự thực, rất nhiều độc giả của mùa đông đó chấm dứt, cả đọc
lẫn họ, bằng
tự tử. Nhưng không phải tất cả họ. Cách đây vài ngày, tôi đọc mẩu tin, Nadezhda
Yakovlevna Khazina, một nữ độc giả đặc
biệt, tác giả của hai hồi ký, một có cái tên là “Hy Vọng Chống Lại Hy
Vọng”, vợ
của nhà thơ Osip Mandelstam, bị Xì làm thịt, theo một cuốn tiểu sử mới
đây cho
biết, bà đã tham dự 1 trò chơi ba người, cùng với ông chồng. Một mẩu
tin như thế
gây ngỡ ngàng và bất bình, trong số những người ái mộ bà, vì họ vốn coi
bà là vì thánh. Tôi, khi đọc mẩu tin đó, thì lại cảm thấy rất ư là hạnh
phúc.
Bởi là
vì nếu như vậy, thì là kệ cha mùa đông, kệ mẹ giá lạnh, cả hai ông bà,
súng ống,
bãi đáp…. thì
đều OK cả, nó xác nhận với tôi, ít ra
cả hai đã cố đọc tất cả những cuốn sách.
Những độc giả thánh nữ của mùa đông là những phụ nữ bằng xương bằng
thịt, bằng
máu bằng huyết, và họ can đảm rất mực, không ai có thể can đảm hơn. Một
vài người
tự tử, đúng như thế. Những người khác chịu đựng những điều ghê rợn,
khủng khiếp, và trở lại với những
cuốn sách của họ, những cuốn sách bí ẩn mà phụ nữ đọc khi trời lạnh, và
có vẻ
như mùa đông sẽ chẳng bào giờ chấm dứt.
Tưởng
niệm Borges
Tôi muốn kể về cái lần tôi gặp
Borges. Tôi được bà bạn Victoria
Ocampo mời dùng bữa trưa có Borges cùng
dự, và được phái đi đón ông, tại Thư Viện Quốc Gia, để đưa ông tới căn
phòng của
bà, bởi vì ông mắt ông mù không còn nhìn thấy đường. Ngay khi cánh
cửa thư
viện đóng lại phía sau, là chúng tôi bắt đầu nói chuyện văn chương.
Borges nói
tới ảnh hưởng của G. K. Chesterton, và của Robert Louis Stevension ở
hậu thời ở
nơi ông. Thơ xuôi của Stevenson ảnh hưởng lớn lên tôi, ông cho biết.
Nhân
tiện, tôi châm vô 1 cú. Robert Louis Stevenson ít nhất là đã từng làm
thơ, và ít
nhất, tôi còn nhớ một bài của ông ta. Một bài thật là bảnh. Viết về tổ
tiên. Ðã từng xây những ngọn hải đăng lớn nơi bờ biển Scotland, và tổ
tiên là một
đề tài ruột của Borges.
Bài thơ bắt đầu:
Ðừng nói với tôi chuyện,
tôi chẳng khoái sinh con đẻ cái,
để nối giái tông đường, và,
thay vì vậy,
thì đánh bài chuồn ra biển
Những cái tháp mà chúng ta xây, và những ngọn đèn mà chúng ta thắp
Ðể chơi ở nhà với tờ giấy như một đứa bé.
Con phố Buenos Aires đông
người, quá ồn. Borges dừng lại ở hè
đường, đọc trọn bài thơ cho tôi nghe, không hỏng một từ. Sau bữa ăn dễ
chịu,
ông ngồi tại sô pha và lèm bèm tới chỉ về văn chương Anglo-Saxon, tung
ra những
tảng lớn, như những khúc cây. Tôi chịu, không thể theo kịp. Nhưng nhìn
vào mắt
ông khi đọc những tảng lớn thơ văn đó, tôi hết sức ngạc nhiên về cái sự
biểu
hiện của chúng. Chúng chẳng có chi là mù lòa. Nhìn, có cảm tưởng, như
thể,
chúng nhìn vào chính chúng, một cách thật là kỳ cục, và chúng thật là
bảnh,
thật thanh lịch, cao nhã.
Borges, tất nhiên cũng có cùng một cảm nghĩ như vậy về tổ tiên, về
những “gauchos” trong quá khứ. Những truyện ngắn hậu thời của ông, thì
đầy những
câu chuyện về những “gauchos”, một trong đó, ông viết, “Thì cũng như
những con
người của một vài xứ sở thờ phụng và cảm thấy tiếng gọi của biển, người
Á Căn Ðình
chúng tôi hú vọng về những cánh đồng bạt ngàn sôi reo dưới móng ngựa."
Ông là một người đàn ông can đảm cùng mình. Thời kỳ đệ nhị Peron, một
lần, khi ông
sống cùng dưới mái nhà với bà mẹ già, thì có 1 cú phôn bí ẩn. Một
giọng đàn ông,
“Chúng ông tới làm thịt mi, và bà mẹ của mi ngay bi giờ.” Bà cụ Borges
trả lời,
“ta chín chục bó, tới lẹ lên không không kịp, còn thằng con ta, nó thì
mù, chuyện
dễ ợt”. Giai thoại này theo tôi đưa ra 1 bức tranh toàn cảnh về gia
đình ông.
Lần
nào cũng như lần ấy, và thật nhiều lần, mỗi lần giở 1 cuốn sách của
ông, tôi đều
tìm thấy những câu, mà một thằng nhà văn như tôi, cũng từng có kinh
nghiệm viết
lách, thì thấy, cũng chẳng khác gì kinh nghiệm của tôi! Ông gọi, viết là một “giấc mơ
được dẫn dắt”, và
trong một dịp, ông viết:
“Ta đếch viết cho một thiểu số
được chọn lọc, chúng là cái chó gì
mà viết cho chúng, ta cũng đếch viết cho một thực thể lý tưởng ưa nịnh
hót, được
biết dưới cái tên “Quần Chúng”. Cả hai lũ khốn, trừu tượng, đó, ta đều
không
tin, tuy chúng thật là đáng quí đối với những tên mị dân. Ta viết cho
chính ta,
và cho bạn bè của ta, và ta viết để làm dịu thời gian trôi qua."
Phán như thế,
thành ra, bất cứ
1 nhà văn, thứ thiệt, thì đều cảm
thấy ông thật gần gụi với họ
Extract
from
a talk at the Anglo-Argentine Society, London, 1984. Extracted from In Memory of Borges, edited by Norman
Thomas di Giovanni
Jun 4, 2015
Cioran
về Borges
Người từng
viết hay
nhất về Borges, cuối cùng lại là Cioran. Rất ngắn, dưới dạng một bức
thư, dưới
đây. Rút từ tập sách Exercices
d’admiration. Essais et portraits, 1986.
Thư gửi
Fernando Savater
Paris, le 10
décembre
1976
Bạn thân mến,
Hồi tháng
Mười, khi
ghé Paris, anh đã đề nghị tôi cộng tác với một tập sách vinh danh
Borges. Phản
ứng đầu tiên của tôi là không muốn làm việc ấy; phản ứng thứ hai là…
cũng thế.
Ích gì mà ca tụng ông ấy, khi bản thân các Trường Đại Học đã làm thế
rồi? Nỗi
thiếu may mắn vì bị công nhận đã ụp
xuống đầu ông ấy. Ông ấy xứng đáng hơn thế nhiều. Ông ấy xứng đáng được
ở trong
bóng tối, trong nỗi bất khả thấu hiểu, được hưởng cái sự không làm sao
mà nắm
bắt nổi, chẳng mấy ai biết đến, như là sắc thái mơ hồ ấy. Đó mới là trú
sở của
ông ấy. Sự tôn sùng là đòn trừng phạt tệ hại nhất - nói chung là đối
với một
nhà văn, và đặc biệt là đối với một nhà văn thuộc kiểu ông ấy. Kể từ
thời điểm
tất cả mọi người trích dẫn ông ấy, ta không còn có thể trích dẫn ông ấy
được
nữa, hoặc giả, nếu có trích dẫn thì ta cũng có cảm giác mình chỉ xuất
hiện để
làm đông đảo thêm cái mớ “người ngưỡng mộ” ông ấy, nghĩa là đám kẻ thù
của ông
ấy. Những ai bằng mọi giá muốn trả công bằng cho ông ấy trên thực tế
chỉ làm
một việc là thúc đẩy thêm cho cú ngã chúi của ông ấy. Tôi xin ngừng
lời, vì nếu
cứ tiếp tục bằng cái giọng này, chắc hẳn đến cuối tôi sẽ đâm ra nỉ non
khóc
thương cho số phần của ông ấy. Thế nhưng, ta có đủ mọi lý do để nghĩ
chính ông
ấy cũng đã làm việc đó rồi.
Tôi nghĩ mình
từng
nói với anh trước đây, rằng tôi quan tâm tới ông ấy đến vậy là bởi vì
ông ấy
đại diện cho một tiêu bản loài người đang trên đường biến mất, vì ông
ấy là
hiện thân cho nghịch lý của một kẻ thích ngồi yên một chỗ mà không có
tổ quốc
về mặt trí tuệ, của một kẻ phiêu lưu bất động, rất thoải mái trong
nhiều nền
văn minh và nhiều nền văn chương, một ông thần tuyệt đỉnh và bị kết án.
Để có
được một hình mẫu tương tự ở châu Âu, ta có thể nghĩ đến Rudolf
Kassner, một người
bạn của Rilke, hồi đầu thế kỷ ông ta đã cho xuất bản một tác phẩm thuộc
hạng cự
phách về thơ ca Anh (chính là sau khi đọc cuốn sách này trong quãng
thời gian
xảy ra cuộc chiến tranh gần đây nhất mà tôi đã khởi sự học tiếng Anh…)
và từng
nói, với một sự thấu suốt đáng ngưỡng mộ, về Sterne, Gogol,
Kierkegaard, rồi cả
về xứ Maghreb hay Ấn Độ. Chiều sâu và sự thông thái không đi cùng được
với
nhau; thế nhưng ông ta đã kết hợp được hai thứ này. Một tinh thần phổ
quát, ở
đó chỉ thiếu mỗi một thứ, là sự duyên dáng, là vẻ quyến rũ. Chính nơi
đây hiện
ra sự vượt trội của Borges, con người quyến rũ hơn tất thảy ai khác,
người đủ
sức khơi lên một cái gì mỏng mảnh rất phơi phới, rất bay bổng, rất đăng ten cho bất cứ thứ gì, ngay cả cho
một lập luận ác chiến nhất. Bởi vì ở ông, mọi thứ đều được đưa qua sự
chuyển
hóa của trò chơi, nhờ một vũ điệu của
những tìm tòi sôi sục và những ngụy biện tinh tế tuyệt diệu.
Tôi chưa từng
bao giờ
bị thu hút bởi các tinh thần bị khuôn gọn trong một hình thức văn hóa
duy nhất. Không được bắt rễ, không được thuộc về
một cộng đồng nào hết - đó từng là và vẫn là châm ngôn sống của
tôi. Ngoái
nhìn sang những chân trời khác, tôi vẫn luôn luôn tìm cách biết về
những gì
diễn ra ở nơi khác. Khi tôi ở tuổi hai mươi, vùng Balkan đã chẳng thể
mang lại
cho tôi thêm gì nữa. Sinh ra tại một không gian “văn hóa” nhỏ bé, tầm
phơ thì
phải chịu tấn kịch ấy, nhưng cũng là lợi thế ấy. Kẻ khác
trở thành vị thần của tôi. Từ đó mà nảy sinh niềm khao khát
được phiêu bạt qua những văn chương và triết lý, xồ vào để ăn thịt
chúng với
một sự dữ dội bệnh hoạn. Những gì diễn ra ở Đông Âu nhất thiết cũng
phải diễn
ra ở các nước Mỹ Latinh, và tôi đã nhận ra rằng những đại diện của nó
chất chứa
được lắm thông tin, “hiểu biết” hơn cực kỳ nhiều so với người phương
Tây, những
kẻ tỉnh lẻ hết thuốc chữa. Cả ở Pháp lẫn ở Anh tôi đều chẳng thấy có
một ai
mang một sự tò mò sánh được với sự tò mò ở Borges, một sự tò mò bị đẩy
đến nỗi
cuồng ám, đến mức tội lỗi, đúng là tôi nói tội
lỗi đấy, bởi vì, trong lĩnh vực nghệ thuật và suy tư, mọi thứ gì
không biến
thành sự phun trào hơi có chút tính chất biến thái đều là hời hợt tất,
hời hợt,
thế cho nên là không thực.
Khi còn là
sinh viên,
tôi từng có nhiệm vụ phụ trách các môn đệ của Schopenhauer. Trong số
đó, có một
người tên là Philipp Mainländer, mà tôi đặc biệt quan tâm. Là tác giả
của một
tác phẩm mang tên Triết học về giải thoát,
trong mắt tôi ông ta còn rực rỡ hơn nhiều nữa, do tác động từ việc ông
ta đã tự
sát. Triết gia này, đã hoàn toàn bị lãng quên, tôi rất khoái chí vì
mình là
người duy nhất còn để ý đến; mà trong việc ấy tôi cũng chẳng có gì để
tự hào,
vì công việc nghiên cứu đằng nào cũng sẽ dẫn tôi đến với ông ấy, không
thể nào
khác. Tôi kinh ngạc khủng khiếp khi, rất lâu về sau, tôi đọc phải một
tác phẩm
của Borges, nó lôi chính xác ông triết gia kia ra khỏi lãng quên! Tôi
kể cho
anh ví dụ này là vì, kể từ giây phút đó, tôi bắt đầu suy nghĩ một cách
nghiêm
túc hơn so với lúc trước, về hoàn cảnh của Borges, người được tiền
định, buộc
phải đi tới cái phổ quát, buộc phải hướng tâm trí đi theo tất cả mọi
phía, dẫu
cho chỉ là để thoát khỏi sự ngột ngạt do đất nước Argentina gây ra.
Chính khối
hư vô Nam Mỹ đã biến các nhà văn của cả một châu lục trở nên rộng mở
hơn, sống
động hơn và đa dạng hơn nếu so với người Tây Âu, vốn dĩ bị tê liệt vì
các
truyền thống của mình, chẳng đủ khả năng vọt ra ngoài khối lở loét đầy
chói lọi
của họ.
Vì anh muốn
biết tôi
yêu quý điều gì nhất ở Borges, tôi sẽ không ngần ngại mà trả lời rằng
đó là sự
thư thái của ông ấy trong mọi lĩnh vực đa dạng nhất, cái năng lực mà
ông ấy sử
dụng khi nói về Quy Hồi Vĩnh Cửu hay Tango, tinh tế y như nhau. Với ông
ấy mọi thứ đều đáng kể, miễn ông ấy là
trung tâm của mọi thứ. Trí tò mò theo hướng phổ quát chỉ là dấu hiệu
của sức
sống khi nào nó mang dấu ấn tuyệt đối của một cái tôi, một cái tôi từ
đó tỏa ra
mọi thứ và cũng là nơi mọi thứ dồn về: sự thống trị tối cao của cái võ
đoán,
khởi đầu và kết thúc mà người ta có thể diễn giải tùy theo những tiêu
chí bấp bênh nhất. Thực tế nằm ở đâu trong toàn bộ câu chuyện đó?
Cái Tôi
- lời đùa cợt tối cao… Trò chơi ở Borges nhắc ta nhớ đến sự mỉa mai của
chủ
nghĩa lãng mạn, cuộc khám phá siêu hình về ảo tưởng, món tung hứng với
Cái Vô
Hạn. Friedrich Schlegel sống vào thời bây giờ, dựa lưng vào Patagonie
[ý Cioran
muốn nói: Borges có thể so sánh với hình ảnh Schlegel, siêu cao thủ của
chủ
nghĩa lãng mạn, nhưng lại ở Nam Mỹ]…
Thêm một lần
nữa, ta
chỉ có thể than phiền, về việc một nụ cười bách khoa toàn thư và một
viễn kiến
tuyệt diệu đến thế lại khơi dậy một sự đồng lòng tán thưởng, với tất
tật những
gì mà điều này hàm ý… Nhưng, dẫu sao, Borges hẳn vẫn có thể trở thành
biểu
tượng cho một nhân loại không giáo điều cũng không hệ thống, và nếu có
một cõi
không tưởng mà tôi sẵn sàng ghi danh mình vào, thì đó sẽ là cõi không
tưởng nơi
bất kỳ ai cũng nương theo hình mẫu của ông, tức là một trong những tinh
thần ít
nặng nề nhất từng tồn tại, nương theo “con người tinh tế cuối cùng” ấy.
-----------
Cioran là
người viết
hay nhất về Borges, nhưng phải hiểu thêm điều này nữa thì mới thấy đáng
kinh
ngạc: bức thư trên đây chính là một cách thức vô cùng tế nhị để Cioran
bày tỏ
rằng mình không hề thích Borges. Không hề thích Borges nhưng lại viết
hay nhất
về Borges, đó mới thực sự là Cioran. Cioran phải từ chối thực
sự viết về Borges, vì Borges chính là đại diện cho những gì
Cioran ghét nhất trong lĩnh vực trí tuệ và sáng tạo: Borges thuộc về
phía
“thiếu máu”, những suy tư tinh tế rợn người nhưng chẳng có gì chung với
những
tiếng hét bật ra từ bản thể đau đớn, tức là phía
của Cioran.
Phải đọc
trong Exercices d’admiration mới hiểu: khi
thực sự thích ai đó, Cioran viết khác hẳn. Chẳng hạn như về Roger
Caillois,
chính là người làm cho Borges vụt trở nên nổi tiếng ở Pháp, và ngay sau
đó, ở
châu Âu. Và nhất là về Samuel Beckett.
Dưới đây là
chuyên đề
Borges từng có trên blog này. Có lẽ đã đến lúc cần nghiêm túc nghĩ đến
việc mở
một chuyên đề đích thực về Cioran :p
Borges: Người ở
góc phố hồng
Borges: Thư
viện
Babel
Borges: Thợ
nhuộm Hákim
Borges:
Kotsuké no Suké
Người Pháp
và
Borges
Borges:
Avelino
Arredondo và Sách Cát
Kiểm
kê truyện của Borges (bản Nguyễn Trung Đức)
Borges: Phúc
âm
theo Máccô
Borges: Mấy
truyện ngắn trong Sách Cát
Văn
chương và thời gian
|
|