SUBJECT:
BRODSKY
Please
note: born in May,
in a damp city (hence the motif: water),
soon to be surrounded by an army
whose officers kept Holderlin
in their knapsacks, but alas, they had
no time for reading. Too much to do.
Tone —
sardonic,
despair — authentic.
Always en route, from Mexico
to Venice,
lover and crusader,
who campaigned
ceaselessly for his
unlikely party
(name: Poetry versus
the Infinite,
or PVI, if you prefer
abbreviations).
In every
city and in
every port
he had his agents; he
sometimes sang his poems
before an avid crowd
that didn't understand
a word-afterwards,
exhausted, he'd smoke a Gauloise
on a cement
embankment, gulls circling above,
as if over the Baltic,
back home.
Vast
intelligence.
Favorite topic: time
versus thought,
which chases phantoms,
revives Mary Stuart,
Daedalus, Tiberius.
Poetry should be
like horseracing:
wild horses, and
jockeys made of marble,
an unseen finish
line lies hidden in the clouds.
Please
remember:
irony and pain;
the pain had long
lived inside his heart
and kept on
growing—as though
each elegy he wrote
loved him
obsessively and
wanted
him alone to be its
hero—
but
ladies and
gentlemen—your patience,
please, we're
nearly through—I don't know
quite how to say
it: something like tenderness,
the almost timid
smile,
the momentary
doubt, the hesitation,
the tiny pause in
flawless arguments.
—Adam
Zagajewski
(Translated from the Polish by Clare Cavanagh)
NYRB March 1, 2007
SUBJECT:
BRODSKY
Please note:
born in May,
in a damp
city (hence the motif: water),
soon to be
surrounded by an army
whose
officers kept Holderlin
in their
backpacks, but, alas, they had
no time for
reading. Too much to do.
Tone-sardonic,
despair-authentic.
Always en
route, from Mexico to Venice,
lover and
crusader, who campaigned
ceaselessly
for his unlikely party
(name:
Poetry versus the Infinite,
or PVI, if
you prefer abbreviations).
In every
city and in every port
he had his
agents; he sometimes sang his poems
before an
avid crowd that didn't catch
a word.
Afterwards, exhausted, he'd smoke a Gauloise
on a cement embankment, gulls
circling overhead,
as if above the Baltic, back home.
Vast
intelligence. Favorite topic: time
versus
thought, which chases phantoms,
revives Mary
Stuart, Daedalus, Tiberius.
Poetry
should be like horse racing;
wild horses,
with jockeys made of marble,
an unseen
finish line lies hidden in the clouds.
Please
remember: irony and pain;
the pain had
lived long inside his heart
and kept on
growing-as though
each elegy
he wrote adored him
obsessively
and wanted
him alone to
be its hero-
but ladies
and gentlemen-your patience,
please,
we're nearly through - I don't know
quite how to
put it; something like tenderness,
the almost
timid smile,
the
momentary doubt, the hesitation,
the tiny
pause in flawless arguments.
[Bản in
trong Eternal Enemies]
Đề tài:
Brodsky
Làm ơn ghi: sanh
Tháng Năm
tại một thành phố ẩm [từ
đó, mô típ: nước],
liền sau đó,
bị vây hãm bởi một đạo
quân,
sĩ quan của nó, trong ba
lô, đều có thơ Holderlin,
nhưng than ôi, đâu có thì
giờ đọc.
Quá nhiều điều làm.
Âm điệu - mỉa mai, chán
chường - chân thực.
Anh một đời rong
ruổi -
từ Mexcio tới
Venice,
người tình, kẻ không
ngừng cổ võ cho đảng của mình
[tên là: Thơ Chống Vô
Cùng
hay TCVC, nếu bạn thích
viết tắt]
Tại bất cứ
một thành phố, bất cứ một cảng,
ông đều có nhân viên; đôi
khi ông ngâm thơ của mình, trước đám
đông mù tịt,
mệt nhoài, ông hút điếu
Gauloise, [ném mẩu thuốc cuối cùng xuống
dòng sông, mà lòng mình phơi trên kè đá]
đứng trên con đê xi măng, hải âu vần vũ ở trên
đầu, cứ như là đang trên bờ biển Baltic, nơi quê nhà.
Thông minh rộng. Đề tài
ruột: thời gian
chống lại tư tưởng
rượt đuổi những bóng ma
làm sống lại Mary Stuart,
Daedalus, Tiberius.
Thơ phải nên giống như
đua ngựa: ngựa hoang, jô kề bằng đá cẩm thạch,
và đích tới là một đường
không nhìn thấy, nằm ẩn trong những đám mây.
Làm ơn nhớ rằng:
hóm và đau;
cái đau trụ từ lâu ở
trong tim ông
cứ thế lớn mãi - như thể
mỗi khúc bi ca mà ông
viết, yêu ông
ám ảnh, và
muốn ông, chỉ ông thôi,
là người hùng của nó.
nhưng quí bà quí ông, xin làm ơn kiên nhẫn,
chúng ta kể như tới nơi
rồi - nhưng thật khó nói:
một điều gì như là sự dịu
dàng, một nụ cuời e thẹn,
một hồ nghi chốc lát, một
sự ngại ngùng, một chút ngưng gọn gàng
trong dòng
luận bàn không sai sót.
(1) Gấu có
một bài viết, cứ
ấp ủ mãi, mà không làm sao viết ra được, cho đến lúc thấy cái tít kỷ
niệm 5 năm talawas !
Bài viết liên can đến
một bài hát, Gấu nghe,
lần đầu trong
đời, những ngày ở trại lao động
cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ.
Chuyện Tình Buồn.
Có hai tay ca bài này thật là tới,
một là bạn
thân của Gấu, Sĩ Phú, và
một, Tuấn Ngọc.
Năm năm trời không gặp,
Được tin em lấy chồng...
..
Anh một
đời rong ruổi,
Em tay bế tay bồng..
Chả là, trước khi bị tóm, bị tống đi lao động cải tạo,
một
buổi tối, Gấu nhớ cô bạn quá, mò tới con hẻm ngày xưa, đứng thật xa
nhìn vô căn nhà, lúc đó cũng đã tối, thành thử cũng chẳng ai thèm để ý,
và Gấu thấy cô bạn ngày nào đang đùa với mấy đứa con, đứa bò, đứa nằm
dưới sàn nhà, tay cô thì bận
một đứa nữa.
Cảnh này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc là lại hiện ra, ngay cả những ngày
sắp sửa đi xa như thế này....
Thế mới thảm !
Thế mới nhảm !
Thế mới chán ! NQT
Nhật Ký 64
SUBJECT:
BRODSKY
—Adam Zagajewski
(Translated from the Polish by Clare Cavanagh)
NYRB March 1, 2007
Reason and
Roses: Trí Tuệ và Những Bông Hồng
Trong
Tản
Mạn về
Phim và Những ngày ở Sài Gòn,
nhân thiên hạ
đang bàn về cuốn phim Mê Thảo,
từ Chùa Đàn của Nguyễn Tuân
mà ra, Gấu
có “liều
lĩnh” coi Chùa Đàn, gồm ba
phần, mang trong nó thai đố mà con nhân sư
đã đặt ra
cho Oedipe: con vật nào buổi sáng đi bốn chân, buổi trưa hai, buổi
chiều ba.
Thật
thú
vị,
mới đây thôi, đọc
Adam Zagajewski, trong bài tưởng niệm nhà thơ Milosz vừa mới mất trên
tờ Điểm
Sách Nữu Ước, số đề ngày 23 tháng Chín 2004, Trí Tuệ và Bông Hồng, ông
cũng coi
cuộc đời của Milosz gồm ba giai đoạn, có thể coi như câu trả lời cho
thai đố mà
con nhân sư đặt ra cho thế kỷ 20.
*
Milosz
cũng còn là một nhà thơ
chính trị lớn: những gì ông viết ra về sự huỷ diệt những người Do Thái,
sẽ còn
hoài, và không chỉ còn hoài ở trong những tài liệu, những tuyển tập
dành cho
sinh viên. Trong những năm thê thảm nhất của chủ nghĩa Stalin những
sinh viên
đọc Luận về Đạo Đức, Cách Ở Đời của ông [Treatise on Morals, 1948],
giống như
một triết gia La Mã, Boethius, của những ngày này. Ông không im tiếng,
khi xẩy
ra phong trào bài Do Thái vào năm 1968, đây đúng là một nỗi nhục cho
báo chí Ba
Lan, và một số người thuộc tầng lớp trí thức. Sự hiện hữu của những từ
ngữ
trong sạch của Milosz, đã và sẽ luôn luôn vẫn là một ân huệ, một lợi
ích, cho độc giả Ba Lan, kiệt quệ vì sự tàn bạo của chủ nghĩa Stalin,
tả
tơi sau
thời gian dài sống dưới sự thử thách của chủ nghĩa Cộng Sản, sự lỗ mãng
thô bỉ
của [cái gọi là] nền dân chủ của Nhân Dân. Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa
nhất của
thái độ chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo gót những
bước chân
của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một kiểu suy nghĩ, nối liền
đam mê
siêu hình với sự nhủ lòng, trước số phận của một con người bình thường.
Và còn
điều này, trong một thế kỷ mà những nhà tư tưởng tông giáo và những nhà
văn
thường được coi thuộc cánh hữu [thí dụ như Eliot], trong khi những nhà
hoạt
động xã hội bị thường bị coi là vô thần, một khuôn mẫu như là Milosz có
một ý
nghĩa thật là lớn lao, và sẽ tiếp tục phục vụ chúng ta rất nhiều trong
tương
lai.
Câu Gấu gạch đít ở trên, thật tuyệt.
Nói về Milosz mà là để vinh danh Weil, nhất là đoạn "với sự nhủ lòng
trước số phận của một con người bình thường", làm nhớ đến tấm lòng của
Weil đối với xứ Đông Dương thuộc địa. NQT
*
Simone Weil hết sức quan tâm đến một số bài viết, về
số phận người Việt
(khi đó
còn gọi là Annamites), trên tờ Người Paris Nhỏ (Le Petit Parisien),
ngay sau
khi vụ khởi nghĩa Yên Bái xẩy ra và bị dập tắt trong vòng hai tuần lễ.
“Tôi
không bao giờ quên được giây phút mà, lần thứ nhất trong đời, tôi cảm
và hiểu
được bi kịch thực dân thuộc địa” (Je n’oublierai jamais le moment,
pour la
première fois, j’ai senti et compris la tragédie de la colonisation).
Thánh Simone Weil 1