PHẠM DUY NÓI VỀ VĂN CAO
NGUYỄN
TRỌNG TẠO: Nhạc sĩ Phạm Duy vừa
gửi cho tôi bài nói
chuyện về Văn Cao và nhạc Văn Cao. Chỉ những người bạn cùng thời, những
người
liên tài mới nói về nhau hay và trúng đến thế. Xin giới thiệu với bạn
bài nói
chuyện đặc sắc này.
Bạn,
Trong ba đêm VĂN CAO TRONG TÔI tại
phòng trà TÌNH CA,
tôi nói ra được vài điều mà tôi nghĩ là sẽ bổ ích cho những người yêu
nhạc và
nhất là yêu nhạc Văn Cao.
Trước hết, tôi nói tới sự đa dạng
trong nhạc tình của VC
trong thời kỳ mới thành lập của Tân Nhạc này. Lúc đó, những chàng thanh
niên
mới tập tễnh soạn ca khúc VN (như Lê Thương, Đặng Thế Phong, Hoàng Qúy,
Văn
Cao…) thường dùng một âm giai “mineure” hơi giống như âm giai của điệu
Sa Mạc
(re fa sol la do re). Những bài như Buồn Tàn Thu, Bản Đàn Xuân, Cô Láng
Giềng,
Con Thuyền Không Bến đều có chung một hơi hướng VN và một phong cách
buồn bã
như nhau.
Duy chỉ có Văn Cao là muốn thay đổi
phong cách, cho nên sau
Buồn Tàn Thu thì ông buông cái “re mineure” ra và dùng những âm giai
“majeure”
để diễn tả cái buồn (lúc đó chưa có nhạc vui trong Tân Nhạc như hướng
đạo ca
hay thanh niên lịch sử ca. Ngay Nguyễn
Xuân Khoát và Đỗ Nhuận cũng còn bám vào âm giai “re mineure” để viết
Hồn Xuân,
Nhớ Chiến Khu hay Côn Đảo).
Không còn là ngũ cung “re mineure”
nữa, và dù tác giả tuyên
bố trong một cuốn video, đây là ca khúc của kẻ thất tình, nhạc điệu
trong Thu
Cô Liêu, Cung Đàn Xưa của Văn Cao là nhạc chủ thể Tây Phương (musique
tonale)
với những áp-âm (notes sensibles) làm cho nét nhạc có nhiều cảm tính.
Nhịp điệu
là thể valse đầy lưu luyến và cũng đầy luyến tiếc.
Sau đó, trong hai bài nhạc tình về mùa
Thu và mùa Xuân là
Suối Mơ và Bến Xuân, bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất là lâng
lâng rồi
cũng sẽ chuyển qua một nét nhạc majeure ngắn
để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh
người tình trong cả
hai bài hát này đều rất là lộng lẫy, cao sang. Tình cảm của cả hai bài
nhạc
tình đều không dìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe
thấy
một chút hạnh phúc. Con suối trong rừng Thu buồn muôn thuở là vì còn
lưu luyến
hương vị tình yêu của chúng ta. Ðứng trên bến Xuân để nhìn những cánh
buồm xa
xa và nghe tiếng chim ca như lưu luyến cuộc tình vừa qua của chúng
mình…
Rồi tới khi vươn tới những tác phẩm
lớn như Thiên Thai và
Trương Chi thì “ngữ nhạc” của Văn Cao sẽ dắt ta tới đỉnh cao nhất của
cuộc tình
tiên cảnh cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của tình buồn với
hai câu
chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thuở.
Trong những đêm hát này, tôi còn được
hân hạnh mời mọi người
nghe hai bài hướng đạo ca của Văn Cao do các em thiếu nhi trong ban Văn
Nghệ
của quận Phú Nhuận hát. Tôi muốn tặng anh 2 bài này để nghe chơi và xin
không
nên in ra vì tôi thấy ở trên NET, vài websites – trong đó có Đăc Trưng
-- đăng
tên bài Anh Em Khá Cầm Tay sau khi đọc HỒI KÝ PD, nhưng không chua tên
tôi là
người sưu tập và chỉnh đốn. Họ rất thiếu lương thiện…
Văn Cao
Anh Em Khá Cầm Tay
Phạm Duy sưu tập và chỉnh đốn
Anh em khá cầm tay
Mau đến cùng nhau hát nhé
Nơi đây chúng mình ca
Trong gió chiều thật êm êm
Bao nhiêu gió về đây
Chim chóc về đây hót nhé
A vui sướng làm sao
Ta ngó trời thật xanh êm
Mà ca hát cười nô
Không biết chi là u buồn
Ðời trần gian chắc là thắm tươi
Trời xanh ngắt tầng cao
Đang ngước nhìn chúng ta cười
Này này sao các người vui thế?
Này này sao các người vui thế?
Này này sao các người vui thế?
Này này sao… các… người… vui… thế?
Văn Cao
Gió Núi
Phạm Duy sưu tập và chỉnh đốn
Gió núi qua mái lều vi vu
Vừng trăng xế lu
Phía cách xa núi mờ ánh trăng
Lời ca hát rằng:
Cùng ngồi lại đây
Ta chờ hơi gió
Là tiếng hát phất phơ từ đâu ?
Từ đồi cao tới nơi rừng sâu
Rừng cây với núi vấn vương máu hồng
Ngàn đời về xưa
Ngàn đời về xưa
Muôn quân thương tiếc
Muôn quân thương tiếc
Bao nhiêu thây chết nơi đây
Ngàn đời về sau
Ngàn đời về sau
Ầm vang gió núi
Ầm vang gió núi
Nấu nung máu hờn !
Nói về ca từ trong những bài đầu tiên
của Văn Cao
(trích trong đêm NHẠC THỌAI VĂN CAO
TRONG TÔI)
Về ca từ, vào lúc thành lâp của Tân
Nhạc, đa số các nhạc sĩ
đều làm lời ca với thơ năm chữ… có thể họ đã bị ảnh hưởng thi sĩ Lưu
Trọng Lư
trong bài Tiếng Thu :
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Cũng có thể họ bị ảnh hưởng của bài
thơ này trong sách giáo
khoa Lớp Một :
Cứ mỗi độ thu
sang Hoa cúc lại nở vàng
Ngoài vườn hương thơm ngát Ong bướm bay rộn rang
Em cắp sách tới trường
Nắng tươi rải trên đường
Trời xanh thay áo mới
Đẹp sao lúc thu sang
Văn Cao đã dùng thơ 5 chữ trong một
bài hát hướng đạo như
Anh Em Khá Cầm Tay :
Anh em khá cầm tay
Mau
đến cùng nhau hát
Nơi đây chúng mình ca
Trong gió chiều thật êm
Bao nhiêu gió về đây
Chim chóc về đây hót
A vui sướng làm sao
Ta ngó trời xanh êm
Và sau đó, trong
kháng chiến, anh có bài Ngày Mùa :
Ngày mùa vui thôn trang
Lúa không lo giặc về
Khi mùa vàng thôn quê
Ngày mùa vui thôn xóm,
Đầy đồng giáo với gươm
Súng tì tay anh đứng,
Em ngừng liềm trông sang.
Quê Em của Nguyễn Đức Toàn cũng là thơ
năm chữ :
Quê em miền trung du
Đồng suôi lúa xanh rờn.
Giặc tràn lên
thôn xóm…
Sau này là những bài thơ hay bài hát
khác :
Lên xe tiễn em
đi Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Cung Trầm Tưởng
Đưa em về dưới
mưa Nói năng chi cũng
thừa
Như u tình đã qua
Thấm linh hồn ma soeur
Nguyễn Tất Nhiên
Chỉ chừng một năm thôi
Là quên lời trăn trối
Ai nuối thương tình đôi
Chỉ chừng một năm thôi
Phạm Duy
Thế hệ nhạc sĩ đầu tiên của Tân Nhạc
là chúng tôi, nghĩa là
Lê Thương, Đặng Thế Phong, Văn Cao, Phạm Duy v.v… cũng như các thi nhân
tiền
chiến, vào lúc sắp thoát ra khỏi hay vừa thoát ra khỏi ách thực dân
Pháp, nhờ
có cuộc Cách Mạng mùa Thu 1945, thì
trong sáng tác, chúng tôi đều muốn kêu gọi hay lắng nghe tiếng quê
hương đất
nước, mùa màng cây cỏ, nghe tiếng mẹ, gọi em, gọi đồng bào ruột thịt,
nghe
Trời, gọi Phật…
Sau khi Lưu Trọng Lư lắng nghe mùa Thu
(Em không nghe mùa
Thu, dưới trăng mờ thổn thức), Lê Thương gọi mùa Thu (Thu Trên Đảo Kinh
Châu),
Thẩm Oánh gọi thuyền (Thuyền ơi hãy ghé vào bờ), Văn Cao gọi suối (Suối
ơi, bên
rừng Thu vắng), tôi gọi chiều (Chiều ơi, lúc chiều về rợp bóng nương
khoai)…
Mấy chục năm sau, Trịnh Công Sơn vẫn còn gọi nắng (Gọi nắng trên vai em
gầy),
còn thi sĩ Phạm Thiên Thư thì vẫn nheo nhéo gọi người tình Ẩn Lan (Gọi
Em là
Đóa Hoa Sầu). Và dường như tất cả chúng tôi đều cất cao tiếng gọi Mẹ
(Mẹ Việt Nam
ơi, chúng
con đã về giữ thơm quê Mẹ)…
Lúc tiến qua những tình khúc dài hơn
Thu Cô Liêu, Cung Đàn
Xưa như Suối Mơ, Bến Xuân thì ca từ trong nhạc Văn Cao lại khác đi, có
khi nặng
về thơ 7 chữ, phần nhiều là thơ tự do nhưng đi theo với những câu nhạc.
Trong
hai bài này, nhạc tính Văn Cao có tính chất mô tả nhiều hơn.
Trong thực tế, cho tới lúc này, chưa
có một nhạc sĩ nào có
thể mô tả cái đẹp của con suối trong rừng Thu hay mô tả người đẹp trong
cảnh
bến sông vào lúc Xuân sang. Trong cả hai bài nhạc tình về mùa Thu và
mùa Xuân
này, bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ
chuyển
qua một nét nhạc majeure ngắn để diễn tả
một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh người tình trong cả hai bài hát này
đều rất
là lộng lẫy, cao sang. Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều không dìm
con
người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe thấy một chút hạnh
phúc. Con
suối trong rừng Thu buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình
yêu của
chúng ta :
Suối ơi ôi miền yêu mến
Còn ghi khi bóng ai tìm đến
Đàn ai nắn cung lưu luyến
Suối hát theo đôi chim uyên…
Ðứng trên bến Xuân để nhìn những cánh
buồm xa xa và nghe
tiếng chim ca như lưu luyến cuộc tình vừa qua của chúng mình :
Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha
Lưu luyến tình vừa qua...
Ba Tuyệt Phẩm của Văn Cao
Tôi muốn dành phần cuối của chương
trình này để nói về ba
tuyệt phẩm của Văn Cao : Thiên Thai, Trương Chi và Trường Ca Sông Lô.
Hãy nói về nhạc tính (caractere
musicale) của ba tác phẩm
này.
Tuy viết ra một bản hát vừa có tính
chất trường ca, vừa có
tính chất nhạc cảnh – nghĩa là đã vượt qua hình thức đoản khúc… Thiên
Thai có
tới 94 khuông nhạc (measures) chan chứa
những giai điệu thần tiên và những lời ca thần diệu… nhưng Văn Cao
không tả thực
trong bài Thiên Thai này !
Thiên Thai là một trường ca ấn tượng,
impressionist, tạo cảm
xúc cho người nghe nhiều hơn là mô tả một câu truyện. Tất cả những hình
ảnh
chính của câu truyện cổ như hai chàng Lưu Nguyễn, bầy thiên tiên hoặc
những
cảnh vật như suối hoa đào, chiếc thuyền lan, nước ngọc tuyền, đều được
mô tả
một cách rất mơ hồ… giống như trong một giấc mộng vậy. Ta biết là có
con thuyền
chở Lưu Nguyễn tới cõi Thiên Thai, ta biết là có bầy thiên tiên múa hát
dâng
trái đào thơm… nhưng ta không thấy được họ.
Khi cùng người yêu xây được ngôi nhà
bằng cỏ bên suối mơ hay
trước bến xuân với hai tình khúc trước thì Văn Cao có thể mời đón chúng
bước
vào căn nhà bên chiếc cầu soi nước để ngồi nhìn đàn nai đùa trên đống
lá vàng
tươi hay đứng trước bến sông để nhớ tiếc
những ngày tha hương… Nhưng trong Thiên Thai, cõi mơ của Văn Cao, chúng
ta
không thể nào bước vào cái vườn cấm này được. Ðây là cõi riêng của
Người Sông
Ngự, cõi riêng của nhạc sĩ Văn Cao.
Trương Chi cũng không hiện thực trong
tính cách, không mô tả
(descriptive), chỉ gây ấn tượng cho chúng ta về tiếng hát hay của anh
lái đò,
về hạnh phúc của Mỵ Nương mỗi lần nghe tiếng hát…
Ông chỉ dùng Trương Chi để tỏ thái độ
của chàng Trương sau
khi thất tình, trước khi chết cũng như sau khi chết : Ngồi đây ta gõ
ván
thuyền, ta ca trái đất còn riêng ta...
Tâm hồn tôi đẹp - vì tôi hát hay -
nhưng tôi nghèo và hình
hài tôi xấu cho nên người ta không yêu tôi à ? Thì tôi vẫn có thể đưa
ra một
tuyên ngôn, rằng : Người đời có thể
khinh ta, quên ta, nhưng ta vẫn còn riêng ta với trái đất này… Ðó là ý
nghĩa
của bài Trương Chi…
Nhưng tới khi soạn Trường Ca Sông Lô
thì Văn Cao đã không
còn dùng phong cách gây ấn tượng trong tác phẩm nữa. Cuộc sống hiện
thực và anh
dũng của toàn thể dân tộc đã khiến cho anh ra khỏi chất mơ mộng trong
việc mô
tả con người, cảnh vật, sự việc trong một giai đoạn lich sử kháng chiến
oai
hùng của chúng ta.
Trường Ca Sông Lô mở đầu với đoạn 1 mô
tả Sông Lô, là con sông ngàn Việt Bắc có
bãi dài ngô
lau nơi núi rừng âm u, có những ngôi nhà
mờ biếc chìm một màu khói Thu... Đó là nơi mà lửa kháng chiến đã làm
cháy bờ
lau thưa, cháy cả thôn trang. Ai ơi, hãy lặng nhìn màu nước sông Lô xưa
mà nhớ
tới cảnh cũ người xưa….
Sang đoạn 2 ông chuyển cung, chuyển
nhịp để kể cho ta nghe
chuyện một đoàn người reo mừng trên sóng nước biếc, trở về và thấy trên
sông
bao nhiêu là đám xác thù. Đó là người dân hân hoan trở về con sông hiền
hòa,
bát ngát. Dân hân hoan chiến sĩ pháo binh Việt Nam với tiếng trái phá
làm quân
thù ngập chìm dòng Lô…
Qua đọan 3, một lần nữa Văn Cao lại
chuyển cung, chuyển điệu
: Đây dòng Lô, đây dòng Lô… Với đoàn chiến sĩ sông Lô, thân rừng áo
sương, đã
vút cao lòng căm hờn và
làm cho thây giặc nát tan.
Đoạn 4 của trường ca là đoạn mineure
chậm rãi, là lời thề
trong đêm gió rét, trong đêm chìm chờ đợi ánh chiêu dương.
Đoạn 5 của trường ca là đoạn majeure
nhanh nhẹn nói lên niềm
vui hát ca của dân buông lưới, của bóng người sầm uất bến Then…
Đoạn cuối là đoạn 6 xưng tụng dòng
sông Lô trôi, dòng sông
Lô vẫn trôi, mùa xuân tới nước băng qua ngàn, nước in ven bờ xanh ươm
bóng tre…
dòng sông Lô lướt trôi, lướt trôi, lướt trôi.
Nếu Thiên Thai chỉ nẳm trong một giọng
Re (mineure và
majeure) và Trương Chi chỉ chuyển nhịp, chuyển điệu trong hai giọng Re
và Sol…
thì Trường Ca Sông Lô có tới SÁU LẦN chuyển âm (modulations) cũng như
chuyển
tiết tấu (changing rythmes).
Trường Ca Sông Lô là bản hát dài đầu
tiên của chúng ta, là
một tuỵệt phẩm mà những người đi sau Văn Cao (như tôi) đã học hỏi được
rất
nhiều ở ông để tiếp tục làm giầu cho âm nhạc Việt Nam.
Tôi muốn được công khai tỏ lòng biết
ơn thiên tài Văn Cao
trong buổi nói chuyện này.
Phạm Duy,
Phòng Trà TÌNH CA,
tp Hồ Chí Minh
ngày 5 tháng 10, 2007
Nguồn: Blog Nguyễn Trọng Tạo.
Note: Bài có hạt sạn: Chi tiết về Đặc Trưng. Tiếc quá. NQT