Thiếu Nhi
|
Viết
trong tù
Claire
Braz-Valentine
Hồi
đó tôi được mời để hướng dẫn viết văn trong nhà tù Susanville, gần Nevada
Sierre miền Nam Cali. Đa số những người giam ở đây là những người nghiện
ma túy. Họ ngủ trên giường chồng, trong những phòng ngủ to khổng lồ. Họ không
có đời sống riêng tư, không có nơi chốn để ở một mình, để suy tư một mình.
Tôi rất sợ khi đi trong nhà tù. Tôi đã dạy viết trong nhiều nhà tù ở Cali nhưng những nhà
tù này có những căn phòng nhỏ. Dù trong phòng nhỏ này có khi họ phải sống
chung với người khác, nhưng ít nhất họ cũng có một chút thì giờ riêng tư
để viết. Chắc chắn những người ở nhà tù Susanville này không quan tâm đến
công việc tôi làm cho họ.
Tôi
quyết định dùng hai ngày để mở lớp độc thoại. Tôi muốn những người này có
cơ hội viết và sau đó có thể quay phim họ. Tôi muốn họ thấy họ trên màn hình
sau hai ngày tôi ở đây. Tôi nghĩ rằng đời sống nhà tù có thể đã làm cho họ
mất một phần lớn bản sắc của họ, viết lách và nghệ thuật diễn tả có thể giúp
họ phục hồi con người thật của họ, tìm hiểu con người thật của mình hay tìm
được con đường mình sắp đi.
Tôi
hài lòng vì có hai mươi người ghi tên học. Đây là con số tối đa cho một lớp.
Tôi dành giờ đầu tiên để mô tả thế nào là người cầm viết. Tôi nói cho họ
biết đó là niềm vui và tự do của mình khi mình dùng chữ để diễn tả. Dù họ
phải bị bắt buộc ở với nhau, mặc giống nhau, ăn cùng thức ăn giống nhau,
sinh hoạt cùng giờ với nhau nhưng trong viết lách, họ có thể khác nhau. Khác
ra sao cũng được. Tôi nói với họ, viết có thể là một nghệ thuật giải phóng
được con người nhiều nhất trong các nghệ thuật. Mình tự do dùng chữ của mình.
Không có giới hạn. Tôi nói với họ mỗi lần tôi cầm cây viết, ngồi trước máy
đánh chữ hay trước máy vi tính, tôi có cảm tưởng như tôi về nhà, về căn nhà
nghệ thuật của tôi, với các chữ của tôi mà không một ai có thể lấy đi mất.
Nghệ thuật viết đã nâng đỡ tôi suốt đời.
Họ
chăm chú nghe tôi nói và sau khi được chỉ dẫn, họ viết được, họ chăm chỉ
viết. Chỉ trừ một người không viết được, anh còn trẻ, tóc vàng, đẹp trai,
người mà tôi lo lắng nhất. Ngày đầu tiên học về độc thoại, anh ít chia sẻ.
Các bạn khác đọc lui đọc tới, viết lui viết tới nhưng anh thì ngồi yên lặng,
xóa rồi viết rồi xóa. Mỗi lần tôi đến gần anh, anh đều lấy tay che trang
giấy. Tôi hỏi: “Tôi xem được không?” “Tôi ngại lắm, cô đừng xem.” Anh trả
lời với một nụ cười e ấp. Tôi hình dung được cái ngại ngùng của anh. Dù anh
không chia sẻ điều anh viết với cả lớp nhưng anh cũng có viết. Anh muốn ngồi
cả ngày trong căn phòng nóng bức ngột ngạt này để viết cái gọi là độc thoại.
Có thể sáng nay anh chưa hiểu hết ý độc thoại là gì. Điều này có thể làm tôi
sung sướng, nhưng không hẳn vậy. Tôi quan tâm đến nhu cầu có một đời sống
riêng tư của anh, đến cái khó khăn khi phải chia sẻ của anh, đến việc anh
biết anh không thể nào viết suông sẻ được.
Tôi
đã làm việc nhiều năm trong nhà tù, tôi ngạc nhiên về tính tụt rè của anh.
Tôi biết rất nhiều người ở tù đã được dạy từ khi còn nhỏ là họ chẳng làm
được gì nên thân. Họ bị lạm dụng, bị đánh đập, họ không còn tự tin. Dù tôi
có khen ngợi các bạn tù khác đến đâu thì cũng không làm cho anh vững tin.
Chiều nay anh về phòng ngủ với bài viết còn để trong túi. Các bạn khác đã
viết xong, họ để trên bàn. Anh thì không. Tôi không có cơ may nào để đọc
bài của anh sau khi anh ra đi. Hiển nhiên là anh có quyền làm như vậy. Tôi
tiếc là không đi thẳng đến bàn của anh khi anh đứng dậy ra cửa. Anh đã đoán
được.
Ngày
thứ hai mọi người trở lại lớp, cả anh tóc vàng cũng trở lại. Tôi rất hài
lòng. Hôm nay là ngày đọc và thâu băng. Tôi ngạc nhiên khi thấy thái độ của
anh học sinh rụt rè nhút nhát. Mái tóc vàng, dài chải cẩn thận, áo sơ-mi
ủi đàng hoàng. Có thể anh nghĩ mình sẽ được quay phim và muốn mình đẹp trên
màn hình chăng? Tôi nghĩ bụng rồi mình cũng sẽ được đọc những gì anh viết.
Trong
khi mọi người trình diễn, anh chẳng nói gì. Tôi đã nói cho họ các chỉ dẫn
cần phải làm trong bài độc thoại. Tôi cũng nhắc cho họ nhớ tôi muốn nghe
đặc tính của các nhân vật, những gì họ mong muốn thật sự, những gì người
khác không hiểu về họ và tại sao họ cần phải nói ra. Anh ngồi yên lặng quan
sát các bạn. Người thì viết bài độc thoại cho Chúa, người thì đóng vai Abraham
Lincoln, người thì Martin Luther King. Một vài bài độc thoại rất buồn cười,
một vài bài nghiêm túc. Dù họ không có thì giờ để viết lại những gì họ sống
trong vài hàng nhưng một khi họ cầm bài viết trong tay, khi họ bắt đầu đọc
thì tôi rất xúc động về bài viết của họ. Cuối cùng anh là người chưa đọc
bài của mình. Khi mọi người đã đọc xong, tôi hỏi anh: “Bây giờ anh sẵn sàng
chưa?” Anh nhỏ nhẹ trả lời: “Thưa chưa.” Và thế là các bạn vây chung quanh
anh: “Này, tôi làm được thì bạn cũng làm được. Thử đi. Bạn sẽ thích cho xem.
Lên đây, đừng nhút nhát nữa. Ở đây không ai chỉ trích bạn đâu.”
Và
anh đứng dậy, cầm bài viết ra đứng trước máy quay phim. Anh
coi rất trẻ, nhìn thẳng vào ống kính và bắt đầu đọc. “Tôi tên là Bruce. Tôi
21 tuổi và tôi đã chết. Tôi đã chết vì tôi phải sống trong ngục tù do nghiện
ma túy nhưng tôi bất cần. Tôi không lo cho tôi. Mỗi đêm nằm ngủ tôi đếm từng
ngày để được ra và sẽ vô tù lại. Tôi sẽ giết người để vô tù lại. Tôi sẽ giết
người để vô tù lại.”
Anh
kể lại cuộc đời của anh, lớn lên trong cơ cực, cha mẹ nghiện rượu, anh bị
đánh đập, bỏ đói, trôi dạt từ gia đình nuôi dưỡng này đến gia đình nuôi dưỡng
nọ, anh không có một đời sống thật sự. Trong lúc đọc, anh đưa cho thấy các
vết sẹo trên thân hình, vết sẹo do người cha say rượu dí tàn thuốc vào cánh
tay, vết cứa trên cổ tay sau mấy lần định tự tử. Tôi không chịu đựng được.
Nước mắt đau đớn nóng hổi trào ra. Chúa ơi, tại sao tôi đòi anh phải chia
sẻ những điều đau đớn khủng khiếp này? Và anh kết thúc câu chuyện.
“Dù
tôi muốn chết trong tù nhưng tôi muốn nói với các bạn một chuyện. Tôi muốn
nói đến cái lý do tôi cần nói với các bạn hôm nay. Tôi đã sống lại, như Kinh
Thánh nói. Tôi được tái sinh. Có một ngày, có một bà vào nhà tù, bàø nói
tôi viết đi. Trước đây tôi chưa bao giờ viết, nhưng tôi cứ viết. Tôi ngồi
tám tiếng trên ghế, tôi chưa bao giờ tập trung tư tưởng như thế. Tôi chưa
bao giờ ngồi lâu như thế! Tôi viết cuộc đời xấu xa của tôi và cuối cùng tôi
cảm thấy có một cái gì đó. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho tôi. Không ai khác
có thể cảm thấy điều đó như tôi cảm thấy. Và tôi cảm thấy có một cái gì khác
nữa. Tôi cảm thấy hân hoan. Tôi viết được và tôi viết hay. Tôi là người cầm
bút! Tôi sẽ đi đến với mọi người trong lớp này và tôi sẽ nói...” Nói đến
đây anh đưa bản thảo của anh lên: “Cái này quan trọng đối với tôi hơn bất
cứ thuốc ma túy nào. Cái tôi muốn nói với các bạn là tôi đã chết vì ma túy
nay tôi sống lại với ngòi viết.”
Tất
cả chúng tôi ngồi đó bàng hoàng, máy quay phim vẫn quay, anh kính cẩn chào
rồi nhẹ nhàng nói: “Cám ơn.” Sau đó mọi người đồng loạt vỗ tay. Anh tiến
đến bắt tay tôi. Luật cấm can phạm không được chạm đến thầy giáo nhưng tôi
vẫn để anh bắt tay. Anh nói: “Cô đã cho tôi một cái gì, một cái gì mà ma
túy không thể nào cho tôi được, đó là lòng tự trọng.”
Tôi thường hay nghĩ đến anh. Tôi cầu cho anh tiếp tục tìm được lòng tự trọng
của anh qua những gì anh viết. Dù sao, tôi biết, giờ phút này, trong căn
phòng này có một người cầm bút vừa ra đời.
Sau một cuộc hành trình dài và vất vả, một tâm hồn đã đi về nhà, về căn
nhà của chữ nghĩa.
Claire
Braz-Valentine - from Chicken Soup for the Writer’s Soul
Quỳnh
Anh dịch
|