Thiếu Nhi
|
Nội Cỏ Của Thiên Đường
Nội Cỏ Của Thiên Đường, truyện
ngắn Steinbeck,
viết về tuổi thơ, Gấu đọc bản dịch [hình như của Truơng Bảo Sơn], hồi
còn đi
học, và nhớ hoài đến già.
TBS còn dịch một truyện dài, có
tên tiếng Việt
là Con Nai Tơ thì phải, cũng thật tuyệt vời.
Nội Cỏ Của Thiên Đường là câu
chuyện của hai
bố con, ông bố làm thư ký thành phố, hình như mất việc, về quê sống, và
lạc vào
Xứ Thần Tiên. Ông bố chỉ tỉnh giấc, khi, tới mùa tựu trường, bà con lối
xóm thương
thằng bé, bèn kéo nhau tới thăm, với một bọc quần áo.
Thế là sáng hôm sau, hai bố con
đành từ giã
nội cỏ của thiên đường, trở lại thành phố.
Con Nai Tơ là câu chuyện một
chú bé với con
nai nhỏ xíu của cậu. Nhưng làm sao người và vật cứ nhỏ xíu được mãi.
Con nai lớn,
gây đủ thứ phiền hà, khiến ông bố đành phải giết con vật. Cậu bé bỏ đi,
và thế
giới bên ngoài làm cho cậu hiểu, đời sống bắt buộc phải khốn nạn như
vậy. Cậu
trở về, xin lỗi bố và hứa, sẽ thay ông, làm nốt công chuyện của một
người đàn
ông trong gia đình.
Làm sao cứ nhỏ xíu được mãi.
Đây chính là câu
mà Bông Hồng Đen mắng mỏ Gấu, khi từ giã Nội Cỏ Của Thiên Đường. "Mi
đâu
có thương ta? Mi thương con bé mười một tuổi, là ta, từ đời thuở nào.
Và Hà Nội
của mi, ở trong con bé đó!"
Trong những nhà văn Việt Nam
viết cho nhi đồng,
có một, ít được nhắc tới, và khi nhắc tới, thì lại bị coi là nhà văn
chuyên
viết truyện cho người lớn đọc, và thứ văn chương của ông sau thành một
"thương
hiệu", văn chương triết lý người hùng Lê Văn Trương, với những cuốn để
đời:
Trường Đời, Người Anh Cả, Ngựa Đã Thuần Mời Ngài Lên, Bốn Bức Tường
Máu....
Nhưng ông không hề quên thiếu nhi. Trong số những truyện viết cho thiếu
nhi của
ông, Gấu còn nhớ được hai, thật là tuyệt vời.
Một, viết về hai thằng bé đánh
giầy ở Hà
Nội. Truyện này, Gấu chỉ nhớ, mang máng cái tên truyện, như trên, khi
đọc
Dickens viết về những đứa trẻ khốn khổ của Luân Đôn.
Và một, về một đứa bé, con nhà
giầu, ở Hà
Nội, ham chơi, bố mẹ bèn tống lên ở với một ông cậu, hay bà bác, ở
mãi
trên Tuyên Quang, hay Phú Thọ. Thằng bé nhớ Hà Nội, nhớ bố mẹ, không
chịu nổi
cuộc sống buồn tẻ ở mạn ngược, bèn lùi lũi, cứ thế đi bộ về... Hà Nội.
Cuộc" vạn lý trường
chinh", về "tiếp quản" thủ đô, xuyên qua đồng bằng sông Hồng,
những làng mạc ven bờ đê, trở thành một kỷ niệm để đời trong chú bé.
Nhưng chú
hoàn thành được cuộc "vạn lý trường chinh, chín năm trường kỳ kháng
chiến", là nhờ một thằng bé nhà quê. Chính thằng bé nhà quê, khi chú
đói
lả, đem chú về nhà, cho chú ăn, dậy cho chú cách vo gạo, ở một cái cầu
ao, cách
nấu gạo thành cơm, từ một cái bếp rơm, từ một cái nồi đất... nghĩa là
chỉ cho
chú thấy cuộc sống bần hàn, quê mùa, của làng quê, cùng lúc, dậy cho
chú bé
thành phố con nhà giầu kia, biết, ý nghĩa của cuộc đời. Chú bé thành
phố như
được gột rửa, và khi về đến Hà Nội, gặp lại người thân, trở thành một
thằng bé
khác.
Cuốn sách trên, người đưa
cho Gấu
đọc, Gấu vẫn còn nhớ. Đó là cậu Toàn, em của mẹ Gấu. Nhớ luôn cả lời
bình của
ông cậu, ghi ngay ở cuối sách.
"Cái thằng bé này là một
thằng
bé vô ơn. Khi nó về đến Hà Nội, gặp bố mẹ, trở thành một thằng bé tốt,
nó không
hề nhắc tới thằng bé nhà quê đã cứu sống nó, đã đem cho nó ý nghĩa của
cuộc
đời."
Về già, Gấu mới hiểu ra
được lời
mắng mỏ nặng nề của ông cậu, đối với một thằng bé vô ơn. Ông cậu Gấu,
khi viết
những dòng đó, không hề nghĩ đến một điều, như Gấu nghĩ, sau hơn nửa
thế kỷ xa
cách Hà Nội, và khi trở về, gặp lại ông cậu, nhớ lại bao chuyện cũ,
chuyện mới,
và hiểu ra được rằng là:
Cái thằng bé vô ơn đó,
biết đâu đấy,
là cả một thế hệ, nhiều thế hệ, của những chúng ông, những ông con
trời, ở Hà
Nội?
Như thế, thì lại thành
chuyện người
lớn mất rồi.
Nhưng tôi tin rằng, những
đứa trẻ
của Hà Nội, hay nói rộng ra một chút, những đứa trẻ của cả một miền
đất. đã
không hề được đọc, những truyện viết về thiếu nhi như thế, của một ông
nhà văn
của Miền Bắc, thí dụ như Lê Văn Trương.
Họ được dậy cách cắm cờ
đỏ, lên một
thành phố Miền Nam, mà sau này, cái hành động vinh dự ngày nào trở
thành một
"mặc cảm", hay là “cái còn lại”, ở một nhà văn. (1).
Nói qua nói lại mới toại
lòng nhau.
Gấu tui có được đọc một
ông Miền Nam
viết về thời
học sinh, và kỷ niệm cay đắng của ông, khi phải xếp hàng đón Tổng Diệm,
hình
như vậy. Cay đắng thiệt, nhưng chưa cay đắng bằng cảnh, một người quen
của Gấu
kể lại, anh đi coi ciné mà không chịu đứng dậy chào cờ, và suy tôn Ngô
Tổng Thống,
đã bị mật vụ chìm, ngồi chung với khán giả trong rạp lôi ra tẩn cho một
trận để
đời!
Tuy nhiên, không hề có
một thầy cô
giáo nào thưởng công học trò tiên tiến theo kiểu như trên cả. Thầy cô
Miền Nam
dậy học trò, những cuốn như Tâm Hồn Cao Thượng, [Hà Mai Anh dịch Les
Grands
Coeurs, của de Amicis, nguyên bản tiếng Ý, nhật ký của một học sinh,
bản tiếng
Anh The Heart of a Boy], Kho Tàng Trong Căn Nhà Có Ma [dịch Những cuộc
phiêu
lưu của Tom Sawyer của Mark Twain], Con Nai Tơ, Cuộc Phiêu Lưu Trên
Lưng Ngỗng
[Lý Quốc Sỉnh dịch The Wonderful Adventures of Nils, của Selma Lagerlöf
(1858-1940), Nobel 1909]...
Miền Bắc chỉ dậy học sinh
có một
việc: cắm cờ! Kết quả thần sầu, là chiến thắng Miền Nam.
Nhưng hậu quả của nó,
khủng khiếp
hơn nhiều, thê lương hơn nhiều!
Bởi vì khi anh đã nói dối con
nít, lợi
dụng con nít, bao nhiêu thế hệ con nít, một khi mà chúng vỡ ra được,
là... bỏ
mẹ!
Hơn thế nữa, khi đã quen cắm cờ
thì khó mà
rũ bỏ đi được.
Đây là điều mà triết gia người Pháp, André Glucksmann, nhận ra, khi ông
cho
rằng, "họ" (ông muốn nói Cộng Sản Miền Bắc) bị kết án phải gây chiến
tranh, như là "yếu tính" của họ [của một miền đất?].
[Đọc
Ngợi Ca Mì Gói]
Tất cả những gì gọi là sa đọa,
ở nơi thế
hệ trẻ ở trong nước, là phản ứng ngược lại với cái việc cắm cờ ngày nào.
Có thể nói, chưa có trẻ con nơi
nào ngoan
như trẻ con Miền Bắc trước 30 tháng Tư, 1975. Ngoan đến nỗi bố mẹ mà
còn đem ra
đấu tố, thép đã tôi đến mức như thế, thì làm sao hư được nữa!
Và chưa có trẻ con nào hư, như họ, sau ngày đó.
Ngay cả khi họ học giỏi.
Học càng giỏi, càng hư.
Bởi vì những phần tử ưu việt của chế độ Đỏ, tốt nghiệp đại học Tây
Phương, nào
Sorbonne, nào Harvard... khi về nước, thay vì cắm cờ như ngày nào, bèn
"ngồi lên đầu nhân dân"!
Đó là ý nghĩa của cụm từ "cà
rem của cà rem"
của Joseph Brodsky, trong bài Diễn Văn Nobel của ông.
*
Salvation or Ruin?
Trong một xã hội tan rã, một
khi thế hệ trẻ
mù lòa đi theo chân lý muôn đời, hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân
dân, tai
ương thảm họa là điều không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng
chính cứu
rỗi, chứ không phải điêu tàn mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước,
chẳng ai trông chờ, chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính
nó,
chứ không phải điêu tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người.
[Mô phỏng Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation,
trong Essays
in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books, New York: In a
dissolving society which blindly follows the natural course of ruin,
catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes
unexpectedly, for
salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of men].
Chỉ một khi thế hệ trẻ, tốt nghiệp Harvard, trở về nước, bằng tự do và
ý chí
của chính họ, từ chối không chịu ngồi lên đầu nhân dân, thì mới mong có
cứu
chuộc được.
NQT
(1)
Về chi tiết cắm cờ, xin xem bài viết “Còn
Lại Gì”, của
Phạm Thị Hoài, trên talawas.
Cái tít bài viết, khi được dịch sang tiếng Anh, biến thành “Cái Còn
Lại”, What
Remains, không đúng tinh thần của nguyên văn tiếng Việt, theo tôi. NQT
|