Sách nhiễu thị giác
Đọc bài của “bạn” (1), tôi bỗng nhớ
tới một nhân vật trong
Mặt Tròi Vẫn Mọc, của Hemingway, anh chàng nhà văn-võ sĩ tôi quên không
còn nhớ
tên, hơi một chút là lôi quả đấm ra nện người khác. Anh này mê người
đẹp Lady
Ashley, người đẹp lại mê anh chàng đấu bò. Anh nhà văn võ sĩ bèn đi
thọi anh
chàng đấu bò. Anh chàng matador mỗi lần bị đấm, té xuống, lại đứng dậy,
giơ mặt
ra cho anh võ sĩ quại tiếp, cứ thế hàng chục lần. Sau cùng anh võ sĩ
năn nỉ,
thôi tôi xin thua, không dám thọi nữa. Tới lúc đó, anh đấu bò mới phều
phào ra
lệnh: Tối nay, lập tức rời bỏ thành phố. Nếu sáng mai còn thấy, là thịt!
Lá thư của bạn theo tôi, tương tự nhận
xét của một nhân vật
trong Mặt Trời Vẫn Mọc [Đây là câu chuyện cuộc tình giữa một anh mất
chim và một
người đàn bà tràn trề nhựa sống, ở vào một thời đại mà Hemingway gọi là
“lost
generation”, thời đại bỏ đi], về anh chàng nhà văn-võ sĩ: “Từ bây giờ
trở đi,
hắn ta hết còn dám đem quả đấm ra dọa ai nữa rồi!”
Bài viết còn làm tôi nhớ tới bài viết
của nhà văn Peru,
Mario Vargas LLosa, “Của quí hay là Cuộc đời: Vụ Bobbitt” [The Penis or
Life:
The Bobbitt affair] (2)
Ông nhà văn đã từng tranh cử tổng
thống nhưng thất bại này
nhắc tới luận điểm của Uva de Aragón Clavijo, tác giả cuốn “Cá sấu
trước gương”
[bản tiếng Anh, The Alligator in Front of the Mirror, nhà xb Ediciones
Universal, Miami, Florida, 1993], theo đó, bạo động gây đổ máu tràn lan
trong
lịch sử Nam Mỹ, trong đó có Cuba, là một biểu hiện và sản phẩm của văn
hóa “bạ
đâu, bất cứ chỗ nào cũng trưng của quí” [machismo: niềm kiêu hãnh quá
đáng,
hoặc hung hăng vì mình là đàn ông] vốn ăn sâu, ăn suốt vào lục địa này
từ đời
thuở nào.
“Chủ nghĩa trọng binh, những tà ma ác
quỉ gây họa dịch ở Mỹ
Châu chúng ta”, nữ tác giả Uva de Aragón Clavijo khẳng định, “có những
nguồn
gốc của chúng ở trong sự thờ phụng của quí” [chữ của bà, the cult of
virility].
Trong một buổi ra mắt cuốn sách trên,
có LLosa tham dự, tay
MC bữa đó đã đưa ra một đề nghị “hóm hỉnh” là, nếu theo như quan điểm
của nữ
tác giả, thì có lẽ, văn hóa tương lai của Mỹ Châu La Tinh nên “thiến”
đi, như vậy tốt cho nó.
Người viết không hiểu đây có phải là
ẩn dụ trong những tác
phẩm, thí dụ như cuốn Marie Sến của
Phạm
Thị Hoài theo nghĩa, những cô Marie Sến của
chúng ta
thèm khát một của quí đã mất trong cuộc chiến, missing in action,
và thanh niên Việt Nam sau đó đều là đồ bỏ
đi. Cụm từ mà Hemingway dùng làm đề từ, của Gertrude Stein, như ông cho
biết, "Lũ chúng ta là một thời đại bỏ đi", thực sự muốn nói tới
những anh chàng không còn của quí nữa?
Thú vị hơn nữa là, tay MC sau đó kể
lại cho LLosa nghe, sau
khi ông đưa đề nghị “thiến”, lập tức một cơn rùng mình chạy suốt lớp
thính giả
phái nam, và người nào người nấy theo phản xạ, lập tức khép hai đầu gối
lại!
Nói đến việc hay khoe của quí, mấy ông
cụ bà cụ ta ngày xưa
sành điệu hơn nhiều: khoe thì có khoe nhưng khoe thật khéo. Thí dụ như
ở miền
bắc, mấy ông bà có con gái quí, thương con, sợ con sau này lấy phải
thằng chồng
“chẳng ra gì”, nhân những ngày đông lạnh giá, đề nghị anh chàng rể
tương lai
đóng khố, xuống ao nơm cá. Quí hay không quí, cương hay không cương, là
biết
liền!
Cũng trong bài viết, LLosa đề nghị một
từ, cho cái việc văng
của quí tùm lum tà la trên khắp trang giấy, hay trên không gian ảo, thí
dụ như
trên Talawas, là “sách nhiễu thị giác” [visual harassment].
Ông dùng từ này, để
chỉ tình trạng của ông, trong giờ giảng
bài, mắt cứ phải nhìn lên trần nhà, không dám đậu lại trên ngực nữ sinh
viên!
NQT
Ghi chú:
(1) Bạn, ở đây, là NT, một tác giả hay
đăng bài
trên talawas. Bài này viết
đã lâu, không biết sao, bị lạc, mới tìm lại được. “Bài
của bạn”, bây giờ không biết là bài nào,
nhưng hình như là một trong những bài nói về của quí của đàn ông, và
cái
thói, hơi
một chút là mang ra khoe!
(2) Bài
viết của
LLosa in trong Making Waves, do John
King biên tập và dịch thuật [nhà xb Penguin Books].