*





Nhật ký tháng Tư, 2002

Thứ Hai 29 tháng Tư, 2002:
Ngài mai là 30 tháng Tư.


Thứ Ba 30 tháng Tư:
“Kalandia Là Trái Tim của Thế Giới, nhưng Thế Giới Không Có Kalandia”.
(Kalandia Is the Heart of the World, but the World is Without Kalandia”.
Câu viết bằng tiếng Anh, trên một bức tường trại tị nạn của người Palestine, Kalandia, trong “Thư viết từ Ramalla”, tác giả Lagerquist, trên Phụ Trang Văn Học TLS, của tờ Thời Báo London, số đề ngày 19 tháng Tư, 2002.

Ngày 1.5.2002
Chế Lan Viên:
Bánh Vẽ:
Chưa cầm lên nếm anh đã biết là bánh vẽ
thế nhưng anh vẫn ngồi bàn cùng bè bạn
cầm lên nhấm nháp
chả là nếu anh từ chối
chúng sẽ bảo anh phá rối đêm vui!
(Di cảo 1987. Trích theo Tưởng Năng Tiến)

Milosz:
Tẩy trần
Vào cuối đời, một nhà thơ suy nghĩ. Mình đã đắm đuối vào bao nhiêu chuyện quỉ ma, bao nhiêu điều ngu si đần độn, của cái gọi là thời đại của mình. Bây giờ, cần phải ngụp thật sâu vào một bể nước, kỳ cọ, chà sát sao cho văng tất cả chất dơ ấy đi. Nhưng chính là vì bấy lâu nay, mình ôm lấy cái dơ dáy đó, mình mới là mình. Mình mới là nhà thơ của thế kỷ thứ hai mươi; biết đâu đấy, có khi đây là ý muốn của Thượng Đế, bởi vì chỉ có như vậy, mình mới không biến thành vô dụng trước Người.
(Trích trong Chó Bên Đường: Road-side Dog).

Ngày 5.5.2002:

Tôi đã thấy một con công đuôi rực lửa.

Tôi đã thấy một con công đuôi rực lửa
Tôi dã thấy một ngôi sao chổi chói lòa trút mưa đá
Tôi đã thấy một đám mây được bọc bằng những cành cây ô rô
Tôi đã thấy một cây sồi bò dưới đất
Tôi đã thấy một con kiến nuốt một con cá voi
Tôi đã thấy biển đầy tràn bia
Tôi đã thấy một cốc pha lê cao đủ năm thước
Tôi đã thấy một cái giếng đầy nước mắt đàn ông khóc
Tôi đã thấy một ngọn lửa toàn mắt đỏ
Tôi đã thấy một căn nhà lớn hơn mặt trăng, và cao hơn
Tôi đã thấy mặt trời vào lúc 12 giờ đêm
Tôi đã thấy một người đàn ông đã thấy cảnh kỳ diệu trên
Vô Danh

Nguyên bản tiếng Anh:

"I SAW A PEACOK WITH A FIERY TAIL"

I saw a peacok with a fiery tail
I saw a blazing comet drop down hail
I saw a cloud wrapped with ivry round
I saw an oak creep upon ground
I saw a pismire swallow up a whale
I saw the sea brimful of ale
I saw a Venice glass full fifteen feet deep
I saw a well full of men's tears that weep
I saw red eyes all of a flaming fire
I saw a house bigger than the moon and higher
I saw the sun at twelve o'clock at night
I saw the man that saw this wondrous sight.

Bài đồng dao trên làm nhớ tới một bài đồng dao của con nít Việt:

Bao giờ cho đến tháng Ba
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười...

Nhưng hãy thử gán ghép những cảnh kỳ diệu trên đây cho những ngày tháng vừa rồi:
Con công đuôi rực lửa: Những trái hỏa tiễn bay trên nền trời Sài Gòn? Lưới lửa phòng không trên bầu trời Hà Nội, trong trận chiến Điện Biên Phủ rên không?
Căn nhà lớn hơn mặt trăng và cao hơn: Từ trận thắng hôm nay, ta xây lại bằng mười?
Mặt trời đêm: Những ánh mắt hỏa châu là hoa đăng ngày cưới?
Và người đàn ông đã nhìn thấy cảnh kỳ diệu này: nhà văn như một kẻ sống sót?

Như vậy, “Ếch cắn cổ rắn” nghĩa là gì?

20.5.2002:
Cioran: Không phải ai cũng có cơ may chết trẻ...
Trong bài Tuyệt Bi, George Steiner viết: “.... Hiện nay, phát ngôn viên tuyệt bi – bi kịch tuyệt đối - là một nhà châm ngôn (Cioran). Chỉ có tản mạn, ở đó hoàn tất là cắt xẻo, là chấm hết - nhờ vậy mà được miễn dịch, dưới ánh sáng”.

Chỉ có tản mạn....
Và mớ tản mạn đó là vài ba chục tác phẩm, đa số được viết dưới dạng châm ngôn, “giai thoại”. Khi nói chuyện với Fernando Savatar, Cioran cho biết lý do:
“Nếu tôi không lầm, ông hỏi tôi, tại sao không câm lặng mà cứ lải nhải chung quanh sự câm lặng.
Để bắt đầu [trả lời câu hỏi của ông], tất cả mọi người không có cái may mắn là được chết trẻ. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi, được viết bằng tiếng [mẹ đẻ] lỗ mã ni, vào lúc tôi 21 tuổi, với lời tự hứa, là mình sẽ chẳng tiếp tục viết. Rồi thì, lòi ra thêm cuốn nữa, vẫn một lời tự hứa như trên. Trò hề cứ thế lập đi lập lại trong vòng hơn 40 năm. Tại sao?
Bởi vì viết, cho dù chỉ tí ti, nó giúp tôi qua được niên này tới niên tới, bởi vì, những ám ảnh, những quằn quại... [một khi] được diễn tả (exprimés) [nhờ vậy sẽ] dịu xuống, yếu đi, và một phần được vượt qua. Tôi chắc chắn một điều, nếu không bôi đen mấy tờ giấy trắng, tôi đã ngỏm từ đời nảo đời nào rồi.
Viết là một niềm an ủi tuyệt vời. In sách cũng vậy. Bạn có thể cho là lố bịch, nhưng sự thực là thế đấy.”
-Ông viết: Một cuốn sách phải quậy nát bấy những vết thương... Một cuốn sách là một sự hiểm nguy, Những cuốn sách của ông, chúng nguy hiểm theo nghĩa nào?
“Thì đúng như vậy... Khi cuốn Précis của tôi mới ra lò, một tay phê bình của tờ Thế Giới (Le Monde) gửi thư cho tôi, với lời trách móc, “Ông không nghĩ tới hậu quả, nếu cuốn sách lọt vào tay mấy người trẻ tuổi?” Thật là phi lý! Sách phục vụ lớp trẻ? Phục vụ thế nào? Dạy dỗ chúng? Giúp chúng học? Nếu như vậy, chúng chỉ cần tới trường, tới lớp. Không, tôi cho rằng cuốn sách đúng là một vết thương. Nó phải thay đổi cuộc đời của người đọc, thế này hoặc thế khác... Một bà, mới đây thôi, trên tờ Le Quotidien de Paris, viết về tôi: ‘Cioran viết điều mà người ta phải thì thầm, khi nhắc lại.’ Tôi không viết, theo nghĩa ‘làm ra một cuốn sách’, để cho người ta đọc. Không, tôi viết là để hất đi một gánh nặng, đối với tôi. Nhưng rồi sau đó, khi [phải] nghĩ đến ‘chức năng của những cuốn sách của tôi’, tôi nói với mình, chúng phải như một vết thương. Một cuốn sách mà người đọc ‘vũ như cẩn’, sau khi đọc, là một cuốn sách vứt đi.”
(Bài phỏng vấn cho một tờ báo tiếng Tây Ban Nha, nhan đề có nghĩa là: Viết chống lại sự thất vọng; những trích đoạn trên là từ bản dịch tiếng Pháp, của Gabriel Iaculli, in trong “Cioran, Phỏng Vấn”, nhà xb Galiimard, 1995)
NQT