Điện ảnh
và Văn chương
Mục đích của giả tưởng, Joseph Conrad
viết, là để ‘thấy,
nhìn’. (Le but de la fiction est de donner voir). Nước trôi mây cuốn,
Stevenson
cho câu chuyện ‘chẩy xung quanh hình ảnh mà ông ta tạo nên’. Ngay từ
khởi thuỷ,
tiểu thuyết hiện đại tìm kiếm, điều mà điện ảnh đã hoàn tất. Từ đó,
những mô tả
nhân vật thật chi ly tỉ mỉ của Balzac, là để đợi một tay đạo diễn. Để
‘chính
danh’, tới lượt điện ảnh đòi cho nó, một thế giá ‘viết’ đích thực: Ta
cũng là
văn chương như mi! Ta cũng là một thứ chữ viết!
Cuộc thoại - đối thoại, mâu thuẫn, xung đột, rồi
chan hòa vào nhau
- giữa chữ viết và hình ảnh, đã trấn ngự
thế kỷ của chúng ta. Với đìện ảnh, là hiện diện tức thời, thế giới bầy
ra đó;
với văn chương, là cả một ‘trường tưởng tượng’ (champ de l’imaginaire).
Nhà văn
bắt đầu ‘mượn đỡ’ kỹ thuật, văn phạm điện ảnh, để ‘xài riêng’. Ngược
lại, điện
ảnh khám phá ra một điều: văn chương là một cái giếng giầu sang, vô
đáy, tha hồ
mà tiêu xài, phung phí.
Tờ Văn Học Pháp, tháng Năm 1997, nhân
dịp kỷ niệm 50 năm Đại
Hội Cannes, đã thử đề nghị một điểm gặp, của hai ‘thiên hà’, văn chương
và điện
ảnh. Một cuộc gặp gỡ của những nhà văn, nhà làm phim, và những nhà viết
phim
truyện (cinécrivains).
Trong bài viết Sự hình thành của một
thiên hà, Pierre
Billard ghi nhận, riêng tại Pháp, bắt đầu thập niên 1970, hàng rào ngăn
cách
chữ viết và hình ảnh sụp đổ, những nhà văn ngày càng xâm lấn điện ảnh.
Trước
đó, đã có thi sĩ (Cocteau), nhà phiêu lưu (Malraux); từ 1958 tới đầu
thập niên
1960, trường phái Đợt Sóng Mới (chữ của Francoise Giroud), cùng với
cuộc cách
mạng tháng Năm 1968, make love not war, của giới sinh viên học sinh, đã
mở tung
mọi cánh cửa. Nhìn chung, có thể chia ra phim ảnh Pháp làm ba nhóm:
những nhà
làm phim kể, phim ngôn ngữ, và phim đa-thông tin.
Phim kể, thường là phim lịch sử, như
của Pierre
Schendoerffer, một cựu tù Điện Biên, và đã từng làm phim về địa ngục
‘đỏ’, và
nỗi đau ‘vàng’ (le mal jaune) này, (Dien Bien Phu, 1991). Theo ông,
phim ảnh
gần gụi với nhạc giao hưởng, hơn là tiểu thuyết. Từ nhỏ, ông mê làm
thuỷ thủ,
nhưng lại không hề biết biển. Do mê biển, nên đằng sau ông, là những
nhà văn
như Melville, Stevenson, Conrad. Rồi ông tự nhủ, biển, được rồi, nhưng
tốt
nhất, vẫn là kể về nó. Với ông, một cuộc đời được tiểu thuyết hóa, được
mơ mộng,
quan trọng hơn là cuộc đời hoàn toàn ‘sinh vật học’. Nhưng ông lại nhận
ra, ông
không là nhà văn (tuy đã có vài cuốn tiểu thuyết), chẳng phải một nhạc
sĩ; nhà
điêu khắc, càng không luôn. Còn mỗi một thứ để chọn: điện ảnh. Trở về
Pháp, ông
xoay sở để được ‘tay lỡ nhúng chàm’: được bước vào Tòa Lâu Đài của
Kafka. Bởi
vì theo ông, điện ảnh, chính là tòa lâu đài của Kafka. Muốn vào, phải
(đã) ở
trong đó.
‘Tôi để văn chương ở trên điện ảnh’,
ông nói. ‘Với tôi, nghệ
thuật phong nhã (noble) nhất, trong mọi nghệ thuật, là mực.’
Không có sự khác biệt rõ rệt giữa
những nhà làm phim kể, và
giữa họ với văn chương; bởi vì ít ra, vẫn có một câu chuyện nối kết tất
cả. Với
những nhà làm phim ngôn ngữ (cinéastes du langage), câu chuyện kể, nhân
vật
biến mất, chỉ còn ngôn ngữ; nói rõ hơn, đây là một trường phái bà con
của ‘tiểu
thuyết mới’; những đại ca, xếp xòng như Alain Robbe-Grillet, và
Marguerite
Duras, cùng với nhà đạo diễn lừng danh Alain Resnais, đã cho ra đời
Hiroshima
tình tôi, (Duras), Năm ngoái ở Marienbad (Robbe-Grillet)...
Cuốn phim đầu tiên, từ tiểu thuyết của
Duras, là Đập ngăn
chặn Thái Bình Dương, cuốn sách đích thực của hồi nhớ, viết khi chưa
tới tuổi
ba mươi, phim thực hiện năm 1958. Không hoàn toàn bằng lòng với nó, bà
cố gắng
giải thích nỗi bực bội của mình: ‘Kể được lắm, những biến động cứ như ở
trước
mắt, nhưng chữ viết mất tiêu. Chẳng có chi có thể thay thế nó.’ Ngay từ
1969,
bà coi mình là một nhà văn làm phim, un écrivain qui fait des films.
Chữ viết
trước tiên. Tất cả ở trong nó, kể cả điện ảnh. ‘Trước sách, là hư vô.
Trước
phim, là sách. Nói vậy không có nghĩa là hạnh phúc-phim và hạnh
phúc-sách như
nhau. Tôi nghĩ tôi đã có lơ là (déserté) những cuốn sách, vì tính hằng
hà bao
la (le désert), của chúng. Tôi coi điện ảnh như một hỗ trợ của việc
viết, nghĩa
là thay vì viết trên (giấy) trắng, người ta viết trên hình ảnh.’ Nhưng
do lơ là
‘chữ’, mê ‘bóng’, văn chương bắt đầu ‘nghỉ chơi’ với bà. Thất bại với
việc viết
để làm phim, bà trở lại viết những cuốn sách ‘chỉ vì những cuốn sách’:
‘Điện
ảnh, với tôi, là vứt đi’.
Để hiểu từ điện ảnh đa-thông tin, tốt
nhất là coi trường hợp
Cyril Collard. Mất vào năm 1993, ông trở thành huyền tượng, về một tuổi
trẻ
‘trật chìa, loạng quạng’, une jeunesse déaxée, do những nỗi đau, của
‘riêng’ xã
hội chúng ta: mất chuẩn mẫu, không tưởng, ma tuý, sida. Nhưng đây là
một tuổi
trẻ được ‘thuốc’ bởi một nghị lực man dại, vô chính phủ. Huyền tượng
bật ra từ
chính cuộc đời ông, và được khắc họa, vừa trong tiểu thuyết (1989), vừa
trong
phim (1992): Những Đêm Dã Thú, Les Nuits Fauves. Tất cả dựa trên cuộc
phiêu lưu
cá nhân của Cyril: một kẻ lang thang,
chạy trốn: hiện tượng ‘thiên di’ bi thảm, thơ mộng cuối-thế kỷ của
chúng ta.
Trong khi đi, ‘chàng’ ca hát, chơi guitar, làm thơ, chụp hình...
Nói đến điện ảnh làm sao bỏ qua Hollywood, và
những nhà văn đầu tiên bị nó rủ
rê. Từ Faulkner tới Chandler
(tác giả truyện trinh thám), rất nhiều nhà văn đã làm việc với nó, đa
số như là
những người viết truyện phim. ‘Hollywood
là
nơi độc nhất mà bạn phải coi chừng cái lưng của mình, khi đang trèo
thang.’
(Faulkner). Liên hệ giữa nhà văn và kinh đô điện ảnh, thật hàm hồ. Bị
hấp dẫn
bởi đồng lương, họ phụng sự nữ hoàng điện ảnh, trong nỗi lo sợ, sẽ bị
bà hoàng
hớp hồn, mất luôn ‘căn cước’, biến thành bụi, vì ‘tập thể’: kỹ nghệ
điện ảnh.
Thời phim câm, lợi dụng sự tính ‘vượt
thời gian’, những tác phẩm cổ điển (lãng mạn, bi thương, hoành tráng)
được ưa
chuộng. Một trong những ông chủ Hollywood đã từng ‘móc nối’ với Sigmund
Freud,
yêu cầu ông viết về đề tài phân tâm học!
Tuy thất vọng sau khi làm những phim
như Người lạ trên
chuyến tốc hành Nord-Express, và Bảo hiểm nhân mạng, nhưng khi được
hỏi, làm
sao sống sót, Raymond Chandler cho biết, cá nhân ông, ông rất vui, với
nó.
‘Tôi tìm kiếm cùng một con mồi, chỗ
này chỗ nọ’, lý thuyết
gia đầu tiên của điện ảnh Pháp, Alexandre Astruc, tuyên bố. Vẫn một con
mồi,
hay là miếng bánh trung thành của điều không thực, của tính tưởng tượng
(le
pain royal de l’imaginaire). Với ông, điện ảnh, nghệ thuật thứ bẩy, do
em út,
nên được thừa hưởng tất cả những hình thức nghệ thuật trước nó. Nói
theo
Malraux, nó thừa hưởng cả trái đất. Ở tiểu thuyết, là món nợ thời lượng
(durée). Là nghệ thuật của không gian, điện ảnh tiêu huỷ thời gian,
biến nó
thành tưởng tượng, giả tưởng. Ở hội họa, là món nợ viễn tượng
(perspective), và
khung cảnh. Ở âm nhạc, là nhịp điệu. Balzac viết về Chartreuse de
Parme: ‘Có ba
văn phong; văn phong hình ảnh, của Chateaubriand; văn phong tư tưởng,
của
Stendhal, cái thứ ba, của tôi, một thứ văn phong nơi hình ảnh truy về
cội nguồn
của nó, là tư tưởng.’ Đây cũng là chân lý của điện ảnh, vốn thuộc về
nghệ sĩ,
như Orson Welles (1915-1985) khẳng định: ‘Điều tôi quan tâm ở điện ảnh,
đó là
trừu tượng.’ Cũng nên thêm ở đây, một giai thoại tuyệt vời về ông. Một
buổi
tối, Welles có một buổi diễn thuyết, tại một thành phố nhỏ. Đến nơi,
chẳng có
một mống thính giả. Trước diễn đàn phòng trống rỗng, ông tuyên bố: ‘Tôi
tên là
Orson Welles. Tôi là nghệ sĩ trình diễn, ký giả, nhà văn, MC radio, đạo
diễn
kịch, vẽ kiểu, diễn thuyết gia, ảo thuật gia, truyện phim gia, điện ảnh
gia...
Tôi thật ngạc nhiên, tại sao tôi nhiều quá, mà bạn thì ít quá (... Et
je suis
étonné de me voir si nombreux alors que vous êtes si peu).’ Giai thoại,
đúng
hay sai, chúng ta đâu cần, nhưng nó chứng tỏ một điều, ông là một
đa-thiên tài.
Những người ái mộ coi ông là Prométhée của thế kỷ hai mươi.
Người bị ‘trầm luân’ vì điện ảnh, phải
là Mishima Yukio, nhà
văn Nhật bản, với những tác phẩm nổi tiếng như Kim Các Tự. Quá si mê
nó, ông
trở thành tài tử đìện ảnh, trong rất nhiều phim, trong đó có một, ông
thủ vai
hiệp sĩ mổ bụng tự tử. Ông biến nó thành hiện thực, trong một cú đảo
chánh thất
bại, vào năm 1970.
‘Huỷ diệt khả thể của ý nghĩa, giới
thiệu hư vô giữa sự vật
và nhất thời’, (Détruire la possibilité d’un sens, introduire du néant
entre
les objets et les instants), đó là ‘tham vọng’ của Malraux (1901-1976),
khi ‘ve
vãn’ điện ảnh, qua những mẩu phim Sierra de Teruel, Hy vọng, từ tiểu
thuyết của
ông. Tuy mục đích, là để hỗ trợ Cộng hòa Tây-ban-nha, được thực hiện
tại
Barcelona, từ tháng Bẩy 1938 tới tháng Giêng 1939, ‘một tiếng hát thê
lương
dành cho những người chết vì chiến tranh’, cuốn phim chỉ được trình
chiếu sau
Giải Phóng. Qua những hình ảnh đầy tính tiên tri, giới phê bình diện
ảnh coi
đây là một phim đầu tiên, về một cuộc chiến chưa xẩy ra, và cũng là
phim thứ nhất
của điện ảnh hiện đại.
Bằng cách nào điện ảnh tới với nhà
văn? Bằng tình yêu,
Bernard-Henry Lévy trích dẫn Romain Gary. Từ đó, lợi thế của ‘chàng’:
một tòa
thiên nhiên, của những nữ nghệ sĩ. Nhân vật Lara trong truyện, ‘thánh
nữ’ hơn
nhân vật trong phim, nhưng ‘làm sao’ có đuợc cái thân hình tuyệt vời
như người
nữ nghệ sĩ đang ‘bằng xương bằng thịt’ trước khán giả. Lại còn thứ ánh
sáng,
thứ âm thanh, thứ tiếng nói ngọt ngào... vây lấy nàng. Phải bao nhiêu
con chữ,
mới tả nổi ‘cái nhìn’ của nàng, lúc đó? Nhưng cũng từ đó, điểm yếu, cái
dở của
nhà văn: Cái nhìn đó, chàng đã không muốn, những cử chỉ sỗ sàng, đầy
đam mê,
khi Lara ngả vào tay người tình của mẹ, chàng đâu có tả? Vinh quang của
chữ.
Khốn nạn của hình ảnh! (Gloire de la lettre. Misère de l’image).
Một khi (nhà văn) muốn tóm lấy cái
caméra, là đã đánh mất
chính mình. Bởi vậy cho nên đạo diễn Edgardo Cozarinsky khuyên, văn
chương và
điện ảnh nên giữ một khoảng cách. Còn Catherine Breillard (nhà văn nữ,
nhà làm
phim), nói thẳng thừng, tôi quá yêu văn chương, nên đừng đem điện ảnh
ra so
sánh với nó. Nếu tôi có phải làm phim, là cũng chỉ vì miếng ăn mà thôi!
Kiểu
viết phim không phải là Viết, mà chỉ là vết nhăn của nó. Một vết nhăn
xấu! Khi
còn nhỏ, tôi muốn sau này là nhà văn và nhà đạo diễn, đó là hai nghệ
thuật khác
biệt. Nghệ thuật thứ bẩy... và cái gì đây, tôi không biết. Rồi tôi tự
nhủ, cứ
làm phim (kiếm sống) đi, chuyện viết tính sau, một khi lực cùng, sức
kiệt. Bởi
vì làm phim là một thử thách ghê gớm không thể tưởng tượng được.
Chúng ta đã chờ hoài chờ huỷ, chuyến
trở về từ lưu đầy của
ông ta! Đã đưa ra hết lý do này, nọ để biện minh giùm cho ông, về sự
lần lữa.
Bởi vì làm sao mà không thể trở về? Chiến tranh làm cho ông ta phải rời
bỏ. Hòa
bình sẽ đem ông trở về cho chúng ta. Chúng ta thật quá ngỡ ngàng, khi
không
thấy ông ta.... khi tầu ghé bến.
André Bazin, ‘Renoir francais’
Sự thất bại của (cuốn phim) Luật Chơi
làm tôi sa sút đến nỗi
quyết định: hoặc là bỏ điện ảnh, hoặc rời khỏi Pháp.
Jean Renoir, Đời tôi và Những cuốn
phim của tôi.
Ở trên, có nhắc tới Cyril Collard, và
huyền thoại chàng
Do-thái lang thang, như một ẩn dụ về một con người cuối-thế kỷ, ‘bị kết
án’
phải lưu vong, phải bỏ xứ ra đi, ăn nhờ ở đậu, chết giấm chết giúi nơi
xứ
người. Mả bên đường, mà sao hương khói lạnh tanh thế này? ... Nhưng kẻ
lưu vong
‘đại diện’ cho chúng ta, trong thế giới điện ảnh, phải là Jean Renoir,
nhà làm
phim người Pháp. Cùng với ông, là kinh nghiệm cay đắng, về hội nhập, về
kiếm
miếng cơm, tại Hollywood.
‘Thật quá khó khăn đối với tôi, khi
học tiếng Anh, và làm
quen với kỹ thuật điện ảnh Hoa-kỳ, rồi từ bỏ mọi thành quả đúng vào
lúc, cánh
cửa căn nhà Hoa-kỳ mở ra trước mắt tôi’, ông viết cho Paulette Renoir,
bà vợ
của Paul, người anh/em. Con đường tới Mỹ của ông, như đa số di dân hồi
đó, thật
‘ngại ngùng, chậm chạp’. Con đường trở
lại Pháp, lại càng khó khăn cho ông, một phần do ông vắng mặt quá lâu
sau khi
chiến tranh chấm dứt. Cho dù sau khi trở về, ông đã làm rất nhiều phim
Pháp,
nhưng chẳng bao giờ Pháp (lại) là quê hương của ông. Xa nhà quá lâu,
trở thành
một công dân Huê-kỳ, ông đi đi về về, nhưng sống gần
như suốt quãng đời sau 1940 tại Los
Angeles, và mất tại đây vào năm 1979. Ông tự coi mình, như là một công
dân, của
thế giới. ‘Khi làm phim Luật Chơi, tôi hiểu tôi đang làm gì. Tôi cảm
nhận sự
bực bội đang đục ruỗng những người cùng thời... Nói như vậy không có
nghĩa là,
tôi có một ý niệm thật rõ ràng về nó, nhưng tôi được dẫn dắt bởi bản
năng...
cũng một cảm giác như vậy, với (phim) Dòng sông: Tôi thèm được sờ vào
người kế
bên, kẻ láng giềng, người-cả-thế-giới.’
Cũng cần nói thêm ở đây, Renoir rời bỏ
Pháp, vì không muốn
làm việc với Nazi. Theo như những nhà viết tiểu sử về ông, sau khi tiếp
những
đại diện văn hoá Nazi, đề nghị ông làm những phim cho một ‘nước Pháp
mới’; ông
biết rằng, nếu ở lại, là đi vào ngõ cụt: làm việc với Nazi cũng không
được, mà
từ chối lời mời lại càng chóng chết! Trong khi ông vò đầu bứt tai, cảm
thấy
nhục nhã khi bỏ chạy... gia đình lo thủ tục xuất ngoại, và họ rời Pháp
ngày 18
tháng Chín, 1940.
(Về Renoir, từ bài viết của Janet
Berstrom, Sự trở về Pháp
của J. Renoir, trong Lưu Đầy và Sáng Tạo, Duke University Press, 1998).