Trước một đứa trẻ
chết đói, cuốn "Buồn Nôn" chẳng
là gì cả.
1. Thế kỷ 20 của ai?
Triết gia người Pháp, Bernard-Henry
Lévy trả lời bằng cả một
cuốn sách: Thế kỷ của Sartre (nhà xb Grasset, Paris).
G. Steiner, trong bài viết "Triết gia cuối cùng?"
trên tờ TLS (The Times Literary Supplement 19 May, 2000), đã nhắc tới
một
phương ngôn của người Pháp, theo đó, trong những thập kỷ cuối thế kỷ
20, ngôi
sao của Sartre lu mờ so với những "địch thủ" của ông như Camus,
Raymond Aron, bởi vì thời gian này, ông còn ở trong lò luyện ngục
(purgatoire).
Và đây là "phần số", chỉ dành cho những triết gia lớn, tư tưởng lớn.
Theo ông, hiện nay, ở Pháp, Đức, Ý, Nhật, và một số quốc gia Đông Âu,
thế giá
và huyền thoại của nhà văn đã từng từ chối giải thưởng Nobel văn chương
này,
đang ở trên đỉnh. Ở đâu, chứ ở Pháp thì quá đúng rồi: sau 20 năm ở
trong lò
luyện ngục, Sartre trở lại, và đang tràn ngập trong những tiệm sách,
với nào là
tiểu sử (loại multi-volume), nào hội thảo, đối thoại, gặp gỡ
(rencontres)… Theo
như Jennifer Trần tôi được biết, tạp chí Văn, trong tương lai, sẽ dành
trọn một
số báo để nhìn lại "triết gia cuối cùng của nhân loại", đặc biệt bởi
những nhà văn Miền Nam đã một thời coi ông là "thần tượng", như Huỳnh
Phan Anh, Đặng Phùng Quân…
"Địa ngục là những kẻ
khác", "Người ta không
thể bỏ tù Voltaire", "Con người bị kết án phải tự do", "Con
người là một đam mê vô ích", "Tự do phê bình là hoàn toàn ở Liên Bang
Xô-viết (La liberté de critique est totale en URSS), "chủ nghĩa Cộng
sản
là chân trời đừng mong chi vượt được của thời đại chúng ta (Le marxisme
est
l’horizon indépassable de notre temps)… nhưng hình ảnh một ông già mù
phải nhờ
bạn dẫn tới bàn hội nghị, để tranh đấu cho một con thuyền cho người
vượt biển,
vì muốn cứu những xác người trên biển Đông mà đành phải bắt tay với kẻ
thù và
cũng đã từng là bạn… hình ảnh đó đã vượt lên tất cả… nhưng thôi, xin
hẹn gặp
Văn, số đặc biệt!
2. Người tình của Sartre
Nói tới thế kỷ của Sartre mà bỏ qua
kiến trúc sư căn nhà của
Sartre (architecte de la maison de Sartre) thì thật là quá…tệ!
Thế kỷ 20 có hai mối tình lớn, liên
quan tới văn học, và tới
"eros", một là giữa de Beauvoir và Sartre; mối tình kia là giữa thầy
Heidegger và trò Hannah Arendt. Với Sartre, ngoài de Beauvoir, ông còn
nhiều
mối tình khác, nhiều người đàn bà khác, kể cả "cô bé" Sagan, tác giả
Buồn Ơi Chào Mi. Nhưng nếu không có de Beauvoir, chắc chắn Sartre không
hoàn
toàn là Sartre.
Kiến trúc sư, người đàn bà không thể
tránh khỏi, tình yêu
cần thiết (femme inévitable, amour nécessaire). Có biệt hiệu là Castor
(con hải
ly), bà không những được thông báo về những vụ ăn vụng của Sartre, mà
còn là
người cung cấp, và chứng kiến những cuộc tình đó.
Tay trong tay, đối với tất cả, và
chống với tất cả: chứng
kiến cảnh Sartre gần như hết còn nhìn thấy, trong vòng tay thiên thần
của người
tình, tiến vào quán ăn Closerie de Lilas, tức là chứng kiến một trong
những
biến động lớn lao của lịch sử văn học Âu Châu, của trào lưu hiện sinh…
3. Trước một đứa trẻ
chết đói, cuốn "Buồn Nôn" chẳng
là gì cả.
Phụ trang văn học báo Thế Giới, số
tháng Tư 2001, đặc biệt
về triết gia người Pháp, Jean-Paul Sartre ("Người ta đã xong chưa, với
Sartre?"), đã ghi lại câu trên, được phát biểu trong một cuộc phỏng vấn
dành cho báo này, vào năm 1964: "En face d’un enfant qui meurt, la
Nausée
n’a pas de poids": Trước đứa trẻ đang chết…. Nhưng cũng chính trong phụ
trang văn học nói trên, trong cuộc phỏng vấn nhà văn Peru,
Mario Vargas Llosa, câu trên lại là: "… La Nausée ne fait pas de poids
‘face à un enfant qui meurt de faim’: cuốn Buồn Nôn chẳng có ký lô nào
‘trước
một đứa trẻ chết đói’.
Sartre đã ảnh hưởng tới "một vài" thế
hệ những nhà
văn, trong số đó, có Llosa. Khi được hỏi, phải chăng, "Sartre ảnh hưởng
rất nhiều ở nơi ông, cả hai mặt tích cực và tiêu cực", Llosa đã trả
lời,
"Đúng như vậy, Sartre quan trọng số một trong thời trẻ của tôi, cho tới
khi tôi dãn ra, tới độ phủ nhận ông…. Cú sốc đưa đến chuyện đoạn tuyệt
vô
phương hàn gắn, đó là từ câu tuyên bố của Sartre, trong cuộc phỏng vấn
trứ danh
trên tờ Le Monde và năm 1964, như trên. Sartre còn nói thêm, đối với
những nhà
văn thuộc thế giới thứ ba, họ nên từ bỏ viết, lo những công tác giáo
dục hay
chính trị. Đây đúng là một sự phản bội, từ một con người đã từng dậy
tôi
(Llosa) rằng, "những chữ là những hành động." (les mots sont des
actes).
Thật khó mà nói, "đã xong rồi", với
một tác giả
khổng lồ như Sartre. Khổng lồ, cả về hai mặt vinh quang và lỗi lầm. Dấn
thân
hết mình, về cả hai mặt, sống và viết. Như câu tuyên bố của ông cho
thấy,
Sartre không tin tưởng cho lắm vào văn chương. Ở một chỗ khác, ông
viết,
"Ham viết, thèm viết, một cách nào đó, là chối từ sống."
("L’appétit d’écrire enveloppe un refus de vivre."). Tuy nhiên, số
lượng tác phẩm của ông thật khổng lồ, hầu hết do Gallimard xuất bản:
Tưởng
tượng (L’Imagination, 1936); Buồn Nôn (1938) Bức Tường; Phác họa một lý
thuyết
về cảm xúc (1939); Giả tưởng (L’Imaginaire,1940); Những Con Ruồi
(kịch); Hữu
Thể và Hư Vô (1943); Phê bình lý luận biện chứng (1960)… Ông đã ảnh
hưởng tới
rất nhiều nhà văn của hậu bán thế kỷ 20, thường thường, lúc đầu họ đều
mê ông,
như trường hợp nhà văn người Peru
kể trên. Hoặc như trường hợp nhà văn người Đức, Guenter Grass Nobel văn
chương.
Grass cho rằng, khi chọn Camus thay cho Sartre, một cách nào đó, ông đã
đúng,
ít ra là đối với riêng ông: như là một nhà văn. Llsosa, trong một bài
tiểu luận
nhan đề "Giữa Sartre và Camus", đã chọn Camus.
Sau
đây là
một vài
trích dẫn, từ những tác phẩm của Sartre.
"Phải viết cho thời đại của mình, như
những nhà văn lớn
đã làm. Nhưng điều này không có nghĩa, phải chết cứng ở trong nó. Viết
cho thời
đại không có nghĩa, phản ảnh nó một cách thụ động, mà là, mong muốn nắm
bắt,
hay thay đổi nó, và như vậy có nghĩa, vượt qua nó, về tương lai, và
chính sự cố
gắng muốn thay đổi thời đại đã làm cho chúng ta ngự trị sâu thẳm ở
trong nó;
bởi vì thời đại sẽ không còn giản lược về một tập hợp chết, của những
đồ dùng
hay tập quán, mà là chuyển động nó tự vượt nó, hoài hoài, hoà nhập
trong nó là
một hiện tại cụ thể và một tương lai sống động, của tất cả những con
người làm
nên nó."
(Thời Mới, tháng Sáu 1948).
"Mỗi lần tôi phạm lỗi lầm, đó là bởi
vì tôi đã chưa đủ
triệt để"
(Nhận Định X)
Trong những lỗi lầm của Sartre, có vụ
liên quan tới cuộc
khởi nghĩa Budapest của
nhân dân Hungary,
vào năm 1956. "Một ô nhục", theo một tác giả trên tờ Le Monde, vào
năm 1996, khi Sartre "chấp thuận" (approuver) chuyện chiến xa Liên Xô
đè bẹp cuộc cách mạng. Trên tờ L’Express số đề ngày 9.11.1956, Sartre,
trong
một cuộc phỏng vấn, trước tiên đã "kết án, không chút dè dặt", sự can
thiệp của Liên Xô vào Hungary, coi đây là "một lỗi lầm không thể tưởng
tượng được", "một tội ác"… nhưng cần phải đọc hết cuộc phỏng
vấn.
Lẽ dĩ nhiên, quyết định của điện Cẩm
Linh là "một lỗi
lầm không thể tưởng tượng được", nhưng… "tất cả cho thấy rằng, cuộc
nổi dậy "có chiều hướng phá huỷ toàn bộ hạ tầng cơ sở xã hội". Đó là
"một tội ác", nhưng… "trong những nhóm người này, kết hợp nhằm
chống lại những người Xô Viết, hoặc để đòi hỏi họ ra đi khỏi đất nước Hungary,
người ta nhận ra, có những thành phần phản động, hoặc bị nước ngoài xúi
giục"…. "sự có mặt (chứ không phải hành động can thiệp thô bạo) của
Liên Xô là "một điều cần thiết"….
Lịch sử sau đó cho thấy, nhân loại đã
biết ơn rất nhiều ở
cuộc cách mạng Hungary
vào năm 1956. Chính nhờ nó, mà Liên Xô nhận ra một điều, chuyện nhuộm
đỏ cả Âu
Châu, là một toan tính cần phải "xét lại". Ngay Sartre, trong cuộc
phỏng vấn kể trên cũng phải công nhận, lần đầu tiên có một cuộc cách
mạng không
mang mầu đỏ của phe tả (pour la première fois… nous avons assisté à une
révolution politique qui évoluait à droite).
Tất cả những khẳng định của Sartre đã
được tờ Pravda đăng
tải, cộng thêm những lời ca ngợi cuộc can thiệp của Hồng Quân, như của
Janos
Kadar, vào ngày 5 tháng 11. Một tháng sau đó, chúng trở thành những lời
buộc
tội những người cầm đầu cuộc cách mạng…
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã ca ngợi
cuộc cách mạng Budapest
bằng những vần thơ sau đây, được thi sĩ trước tác vào tháng 12 năm 1956:
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy cho anh giận bằng ngực em
Như chúng bắn lửa thép vào
Môi son họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng rào
Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai
Hãy cho anh run bằng má em
Khi chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa những ngón tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi
Hãy cho anh ngủ bằng trán em
Đau dấu đạn
Đêm không bao giờ không bao giờ đêm
Chúng tấn công hoài những buổi sáng
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Cũng vẫn
thi sĩ, trong một, trong những bài thơ đầu tiên, đã
nhận ra sự "thất bại trong chiến thắng", của một miền đất:
Chúng nó làm phát xít
Chúng nó làm cộng sản
Chúng ta làm tù nhân
(Trích bài thơ Tù Binh, trong tập Tôi
Không Còn Cô Độc, Sài
Gòn, 1956)